Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.03 KB, 72 trang )


1
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản là một trong những
nội dung quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo h-ớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tiễn chỉ ra rằng, một số n-ớc trên thế giới nhờ tiến hành phát
triển công nghiệp chế biến (các n-ớc đi tr-ớc nh- Anh, Pháp, Mỹ, Đức
các n-ớc đi sau nh- Nhật Bản, Đài Loan, Singapore ) đã thúc đẩy các
ngành kinh tế quốc dân, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Việc nghiên cứu tiếp cận công nghiệp chế biến của các n-ớc này để
tìm ra ph-ơng h-ớng, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm
hải sản ở Việt Nam là việc làm cần thiết.
Trong những năm gần đây, nhất là khi phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị tr-ờng có sự quản lý của nhà
n-ớc theo định h-ớng XHCN, công nghiệp chế biến ở n-ớc ta có vị trí quan
trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Một số sản phẩm của công nghiệp
chế biến nông lâm hải sản có giá trị xuất khẩu tăng nh- chè, cà phê, cao su,
thủy hải sản thu đ-ợc nguồn ngoại tệ lớn. Tuy vậy, ngành công nghiệp
chế biến nông lâm hải sản có những hạn chế nh- chất l-ợng chế biến nông
sản ch-a cao, khả năng cạnh tranh trên thị tr-ờng còn thấp. Khắc phục
những điều này chính là lời giải thiết thực đối với công nghiệp chế biến nói
chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp ở miền
Nam, là chỗ dựa cho các tỉnh đồng bằng Nam bộ, cực Nam Trung bộ và
Tây Nguyên. Là một thành phố công nghiệp lớn, do vậy thành phố Hồ Chí
Minh phải nỗ lực xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp của thành
phố, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Làm đ-ợc điều này không


2
những kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát triển, đời sống nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh đ-ợc nâng cao, mà còn thúc đẩy kinh tế các tỉnh phía
Nam và kinh tế cả n-ớc.
Vì vậy, tôi chọn đề tài "Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm
sản ở thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong các văn kiện của Đại hội Đảng, việc phát triển nông nghiệp
toàn diện luôn chú trọng đến công nghiệp chế biến.
Trên các tạp chí nghiên cứu, cho đến nay có một số bài viết của các
nhà nghiên cứu về công nghiệp chế biến nông sản: Công nghiệp chế biến
thực phẩm ở Việt Nam của GS. TS Ngô Đình Giao, Phát triển công nghiệp
chế biến, một biện pháp thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế của TS Nguyễn
Trung Quế
Trong đề tài này, chúng tôi phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn đặt ra đối với công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí
Minh trong những năm tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và thực trạng của công nghiệp
chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những giải pháp
để phát triển hơn nữa doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản của
thành phố trong những năm tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích có hệ thống lý luận về ngành công nghiệp chế biến nói
chung và ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản nói riêng.
- Tìm hiểu thực trạng công nghiệp chế biến nông lâm hải sản và
những vấn đề bức xúc ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển doanh nghiệp công
nghiệp chế biến nông lâm sản của thành phố trong những năm tới.


3
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động của ngành công nghiệp chế
biến nông, lâm sản tại thành phố Hồ Chí Minh, để đề xuất những giải pháp
phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố.
5. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp luận
Luận án đ-ợc hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý
luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và t- t-ởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà n-ớc, tham khảo và tiếp thu có chọn lọc
những ý kiến của các nhà kinh tế học và các nhà hoạt động kinh tế thực tiễn
qua những bài viết trên các tạp chí, tham khảo kinh nghiệm của những n-ớc
có điều kiện t-ơng tự, khái quát tình hình hoạt động của các công ty, xí
nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong cả n-ớc và ở thành phố
Hồ Chí Minh.
Luận văn sử dụng ph-ơng pháp nghiên cứu kinh tế - chính trị, chú ý
vận dụng tổng hợp các ph-ơng pháp so sánh, phân tích, thống kê, nghiên cứu
điển hình, ph-ơng pháp hệ thống, tổng kết thực tiễn và khái quát vấn đề.
6. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích làm rõ hơn vai trò của công nghiệp chế biến trong quan
hệ giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến nông, lâm sản và tiêu thụ nông, lâm
sản chế biến.
- Trình bày thực trạng ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở
thành phố Hồ Chí Minh và nêu bật những vấn đề búc xúc cần giải quyết.
- B-ớc đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 ch-ơng.


4
Ch-ơng 1
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản
và vai trò của nó trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội nói chung

1.1. Công nghiệp chế biến và vai trò của công nghiệp
chế biến đối với sự phát triển nông, lâm nghiệp nói riêng và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung
1.1.1. Khái niệm về công nghiệp chế biến nói chung và công
nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng
Theo quan điểm của Mác, một trong những nguyên nhân để sản
xuất hàng hóa ra đời thì phải có sự phân công lao động xã hội. Sự phân
công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Công nghiệp chế biến tách khỏi
công nghiệp khai thác và mỗi công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại nh-
chế tạo sản phẩm này hay sản phẩm khác d-ới hình thức hàng hóa và đem
đi trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác. Nh- vậy, kinh tế hàng hóa
phát triển thì đi đến chỗ làm tăng thêm số l-ợng các công nghiệp riêng biệt
và độc lập, xu h-ớng của sự phát triển này nhằm biến việc chế tạo sản phẩm
riêng, mà các việc chế biến từng bộ phận của sản phẩm thành một ngành
công nghiệp chế biến riêng biệt [8, 21-27].
C. Mác chia sản phẩm do xã hội sản xuất thành hai loại: t- liệu sản
xuất và t- liệu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội đ-ợc chia
thành hai khu vực: sản xuất t- liệu sản xuất và sản xuất t- liệu tiêu dùng.
Phát triển quan điểm của C. Mác, Lênin khi phân tích khu vực của
nền sản xuất xã hội, đã phân chia các ngành của nền kinh tế thành ba nhóm:
- Các ngành sản xuất t- liệu sản xuất để sản xuất t- liệu sản xuất.
- Các ngành sản xuất t- liệu sản xuất để sản xuất t- liệu tiêu dùng.

5

- Các ngành sản xuất t- liệu tiêu dùng.
Với cách chia nh- trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản thuộc
nhóm thứ ba.
Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị tr-ờng ở n-ớc
ta, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế,
việc phân loại các ngành trong nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành
công nghiệp, đã đ-ợc tiếp cận theo quan điểm mới. Theo Nghị định 75 CP
ngày 27/10/1993 của Chính phủ về ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc
dân cấp I và Quyết định 143-TCKT/PPGĐ ngày 22/12/1993 của Tổng cục
Thống kê ban hành và h-ớng dẫn việc thi hành hệ thống ngành kinh tế cấp
II, cấp III và cấp IV thì các ngành công nghiệp tr-ớc đây, nay đ-ợc tách ra
thành bốn nhóm ngành, cấp I gồm: công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp
chế biến, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, n-ớc và xây
dựng. Với cách phân loại này, công nghiệp chế biến là một ngành kinh tế
độc lập, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất nh- công nghiệp thực phẩm, công
nghiệp dệt và may mặc, công nghiệp đồ gỗ, công nghiệp giấy và in, công
nghiệp hóa dầu, công nghiệp luyện kim, chế biến các khoáng sản không
phải kim loại, công nghiệp chế tạo máy và công cụ kim khí.
Từ quan niệm nói trên về công nghiệp chế biến, có thể hiểu công
nghiệp chế biến nông, lâm sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp
thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử
dụng của nguyên liệu từ nông, lâm, ng- nghiệp thông qua quá trình cơ nhiệt
hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị tr-ờng.
Qua khái niệm trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản gồm hai
giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Sơ chế bảo quản. Giai đoạn này đ-ợc tiến hành ngay
sau khi thi hoạch, nằm ngoài xí nghiệp chế biến, chủ yếu sử dụng lao động
thủ công với ph-ơng tiện bảo quản và vận chuyển chuyên dùng. Nó quyết

6

định mức độ tổn thất sau thu hoạch và chất l-ợng nguyên liệu đ-a đến xí
nghiệp chế biến. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa xác định thứ hạng
sản phẩm ở giai đoạn sau. Nó bao gồm những công việc cụ thể nh- phơi
sấy, lựa chọn, l-u kho
- Giai đoạn 2: chế biến công nghiệp. Giai đoạn này diễn ra trong các
xí nghiệp công nghiệp chế biến. Nó sử dụng lao động kỹ thuật cùng với máy
móc, thiết bị công nghệ cần thiết. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định
mức độ chất l-ợng sản phẩm chế biến và mức độ tăng giá trị của sản phẩm.
Nh- vậy, ta có thể hiểu công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản là
một bộ phận của ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp dùng
nguyên liệu nông nghiệp (nông sản, lâm sản), thực hiện các hoạt động bảo
quản, giữ gìn, cải biến và nâng giá trị sử dụng của nguyên liệu nông, lâm
nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu thị tr-ờng, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm
nông, lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
So với công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến
khác, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có một số đặc điểm riêng chi phối
đến việc xác định vai trò và quan điểm phát triển, quản lý ngành, đó là:
- Sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ngày càng đ-ợc
nhiều ng-ời sử dụng. Do đó có nhiều yếu tố khác nhau (tâm lý tiêu dùng,
tập quán tiêu dùng, thu nhập tăng, tiến bộ khoa học công nghệ và tác động
của các yếu tố gây ô nhiễm môi tr-ờng), nên hiện đang có hai xu h-ớng
tiêu dùng tác động mạnh mẽ tới công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Thứ
nhất, xu h-ớng tăng c-ờng sử dụng các loại sản phẩm sạch. Thứ hai, tăng
c-ờng sử dụng các loại thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp. Hai xu
h-ớng này làm cho các vấn đề về vệ sinh, về đảm bảo chất l-ợng, thời hạn
sử dụng, về việc sử dụng các loại hóa chất trong quá trình chế biến đ-ợc
chú trọng hơn, ng-ời tiêu dùng đòi hỏi khắt khe hơn, do đó, sản xuất công
nghiệp theo h-ớng hiện đại cũng phải phát triển mới đáp ứng đ-ợc nhu cầu.

7

- Tính đồng bộ liên ngành trong phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm sản thể hiện rất rõ, đặc biệt là gắn bó giữa các cơ sở chế biến
công nghiệp với sự phát triển nông, lâm nghiệp. Nguyên liệu chính, chiếm
tỷ trọng cao trong giá trị sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản
(th-ờng từ 70 - 80% giá thành sản phẩm), là những sản phẩm của ngành
nông, lâm nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, khai thác và hầu hết đ-ợc sản xuất
trong n-ớc. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu của công nghiệp chế
biến nông, lâm, hải sản phụ thuộc rất lớn vào quy mô, tính chất và trình độ
phát triển của sản xuất nông, lâm nghiệp. Nh-ng mặt khác, do việc chế biến
các sản phẩm của nông, lâm nghiệp, nên công nghiệp chế biến nông, lâm
sản lại là ngành bảo đảm đầu ra cho sản xuất nông, lâm nghiệp tạo động lực
cho nông, lâm nghiệp phát triển, do vậy, công nghiệp chế biến đ-ợc coi là
thị tr-ờng trực tiếp của nông, lâm nghiệp. Chính tác động này của công
nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo
h-ớng sản xuất hàng hóa.
1.1.2. Vai trò của công nghiệp chế biến với sự phát triển nông,
lâm nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung
Quá trình của công nghiệp chế biến th-ờng phải trải qua ba khâu:
Nguyên liệu Chế biến Thị tr-ờng
Công nghiệp chế biến có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
đ-ợc biểu hiện ở một số vấn đề sau.
Một là, kích thích và định h-ớng cho sản xuất nguyên liệu.
Với t- cách là cầu nối giữa nguyên liệu với thị tr-ờng, công nghiệp
chế biến nông, lâm sản có tác dụng giữ gìn chất l-ợng nguyên liệu, tạo ra
những sản phẩm có chất l-ợng cao, nhờ đó thu đ-ợc lợi nhuận cao; công
nghiệp chế biến nông, lâm sản chính là thị tr-ờng đầu ra của khâu nguyên
liệu. Nó có tác dụng định h-ớng về các mặt quy mô, cơ cấu, kích cỡ, chất

8
l-ợng, giá cả cho khâu sản xuất nguyên liệu một cách trực tiếp. Việc các

ngành nông, lâm nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất ra sao, khai thác nh- thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của công nghiệp chế biến nếu
không có công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản thì ph-ơng án sản xuất
nguyên liệu khó đ-a lại hiệu quả, và nếu có thực hiện chính sách kinh tế mở
thì cũng chủ yếu xuất khẩu hàng thô, kém khả năng cạnh tranh, bị chèn ép
và th-ờng bị thua thiệt [19, 12-13].
Hai là, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát
triển sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo h-ớng sản xuất hàng hóa
trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp chế biến có vai trò lớn trong việc thúc đẩy nông, lâm
nghiệp phát triển theo h-ớng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và các lý do sau đây:
- Thứ nhất: Do sản phẩm của nông nghiệp là nguyên liệu chính của
công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cho nên muốn phát triển ngành này tất
yếu đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển theo h-ớng thâm canh, đa dạng
hóa, tạo ra các loại sản phẩm, các vùng chuyên canh, có năng suất cao có tỷ
suất hàng hóa lớn. Mặt khác cũng vì sản phẩm nông nghiệp khó bảo quản,
dễ bị h- hỏng, thối nát, nên sự phát triển của nó chỉ có thể đ-ợc đảm bảo
vững chắc nếu tổ chức đ-ợc cả hệ thống các cơ sở công nghiệp, sơ chế, tinh
chế và sản xuất có liên hệ mật thiết với nhau.
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản không chỉ tạo sức ép buộc
nông, lâm nghiệp phải phát triển, mà nó tạo điều kiện để nông, lâm nghiệp
phát triển thuận lợi qua việc nâng cao hiệu quả của sản xuất nông, lâm
nghiệp, từ đó tăng khả năng tích lũy, tăng khả năng đầu t- mở rộng quy mô
sản xuất, hiện đại hóa quá trình sản xuất trong nông, lâm sản. Tác động này
tr-ớc hết thể hiện ở chỗ: sau khi đ-a vào chế biến, giá trị của nông, lâm,
ng- nghiệp tăng lên rất nhiều. Theo tính toán của các chuyên gia, sau khi

9
tinh chế giá trị của nông, lâm sản có thể tăng từ 4 - 10 lần so với giá trị lúc

ch-a chế biến [9, 17-18].
Thứ hai: Thông qua công nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo khả
năng mở rộng thị tr-ờng tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời
gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Sự
phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản còn làm tăng nhu cầu về
sản phẩm của nông, lâm nghiệp.
Thứ ba: Thông qua chế biến, từ một sản phẩm nông, lâm nghiệp có
thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm
chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm của
nông nghiệp; từ đó nâng cao mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu của
ng-ời tiêu dùng. Phát triển công nghiệp chế biến góp phần quan trọng vào
việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực l-ợng lao động ở nông thôn, đặc
biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ngay ở nông thôn.
Điều này giải quyết việc làm lao động nông nhàn ở nông thôn (đặc biệt sau
vụ mùa và giữa hai vụ mùa).
Nh- vậy, việc phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vừa có
tác dụng trực tiếp, vừa có tác dụng gián tiếp tới sự phát triển của nông, lâm
nghiệp, vừa tạo cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, là khâu đột phá
để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Ba là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần đẩy mạnh xuất
khẩu phát huy lợi thế so sánh của đất n-ớc, tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng
khả năng tích lũy phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-ớc.
Công nghiệp chế biến nông, lâm không chỉ gìn giữ, khắc phục làm
giảm h- hao sản phẩm nguyên liệu, mà còn bổ sung, làm tăng giá trị sử
dụng của các sản phẩm đó, mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa trên thị
tr-ờng với mẫu mã, hình thức đa dạng mà còn kích thích nhu cầu mở rộng

10
khả năng tiêu dùng của xã hội. Ng-ời tiêu dùng với tâm lý sẵn sàng trả một
giá cao hơn cho những sản phẩm nếu chúng đ-ợc -a chuộng. Họ đòi hỏi

sản phẩm phải đ-ợc chế biến tr-ớc khi mua. Do vậy công nghiệp chế biến
vừa làm tăng giá trị sử dụng, đồng thời vừa làm tăng giá trị sản phẩm.
Tính hiệu quả của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, trên thị
tr-ờng đ-ợc thể hiện ở khối l-ợng lợi nhuận do sự phát triển của công
nghiệp chế biến thu đ-ợc. Công nghiệp chế biến càng phát triển thì sức
cung hàng hóa càng lớn, sức mua càng tăng và cuối cùng khối l-ợng lợi
nhuận thu đ-ợc càng nhiều, thu nhập tăng.
Trong điều kiện chính sách kinh tế mở, sự phát triển của công
nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản, có hiệu quả
làm tăng kim ngạch xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn, góp phần
giảm bớt sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Vai trò này của công
nghiệp chế biến càng quan trọng đối với các n-ớc kém phát triển, mà nguồn
thu ngoại tệ chủ yếu dựa vào xuất khẩu thô. ở n-ớc ta, giá trị xuất khẩu
công nghiệp chế biến đã chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
n-ớc, dù rằng công nghiệp chế biến ở n-ớc ta còn ở trình độ thấp, sản phẩm
sơ chế chiếm tỷ trọng lớn trong sản l-ợng hàng hóa xuất khẩu. Nếu công
nghiệp chế biến ở trình độ phát triển cao hơn (đặc biệt là nâng cao đ-ợc
chất l-ợng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm tinh chế, đa dạng hóa mặt
hàng, đáp ứng đ-ợc nhu cầu về số l-ợng của những khách hàng lớn ) thì
giá trị xuất khẩu còn cao hơn. Ngay ở thị tr-ờng trong n-ớc, do tác động
của chính sách kinh tế mở cửa, ng-ời n-ớc ngoài vào n-ớc ta ngày càng
nhiều. Nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng này cũng ngày càng nhiều,
nếu hiện đại hóa công nghiệp chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng
có chất l-ợng cao, đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì có thể tăng l-ợng sản
phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu tại chỗ một cách đáng kể và sẽ có
hiệu quả cao.

11
Công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản
tồn tại và phát triển trên cơ sở nguyên liệu chính đ-ợc sản xuất trong n-ớc.

Theo Adam Smít thì ở mỗi đất n-ớc đều có những nguồn lực và tài nguyên
nhất định nh- nguồn đất đai, mặt n-ớc, khí hậu, địa hình Sự phát triển của
công nghiệp chế biến cho phép phát huy tiềm năng lợi thế của mỗi vùng,
mỗi khu vực trong việc khai thác nguyên liệu, phát huy công nghệ truyền
thống, sản xuất và chế biến sản phẩm riêng của mỗi địa ph-ơng.
Nh- vậy các quốc gia sẽ tiến hành sản xuất chuyên môn hóa những
mặt hàng có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng trong n-ớc
không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất không có lợi.
Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-ớc.
Sự phát triển của công nghiệp chế biến tác động mạnh đến đời sống
và sự phát triển của nhiều ngành kinh tế quốc dân, nên công nghiệp chế
biến đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến là một
trong những th-ớc đo quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của
một quốc gia. Một -u điểm là các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm
sản không đòi hỏi vốn đầu t- lớn, không đòi hỏi công nghệ phức tạp, nh-ng
nó có khả năng thu hút đ-ợc nhiều lao động và tạo ra tích lũy lớn.
N-ớc ta là một n-ớc nông nghiệp, nền kinh tế ch-a thật phát triển đang
phải tập trung mọi lực l-ợng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành
công nghiệp chế biến do đó cũng ch-a phát triển, mâu thuẫn sâu sắc với nhu
cầu chế biến số l-ợng lớn nông, lâm sản của ngành nông nghiệp đang trong xu
thế phát triển theo h-ớng sản xuất hàng hóa. Hơn nữa, nền sản xuất nông
nghiệp n-ớc ta với nhiều hạn chế trong tập quán, thói quen sản xuất ch-a phù
hợp với sản xuất công nghiệp nh- ngành rau quả đã tổng kết: Do vừa trồng
chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, d-ới 5 ha, giống không đồng nhất, chất l-ợng

12
không đều, nên không thể đ-a kỹ thuật cơ khí thu hái, lựa chọn, bảo quản. Do

đó nhiều sản phẩm nông nghiệp ch-a đ-ợc chế biến, số l-ợng h- hỏng cao.
Riêng về công nghiệp chế biến: Cả n-ớc hiện nay mới có 17 nhà
máy chế biến rau quả, trong đó có 12 nhà máy đồ hộp, công suất 70.000
tấn/năm. 5 nhà máy đông lạnh công suất 50.000 tấn/năm. Những năm cao
nhất, các nhà máy này chỉ sản xuất đ-ợc 30.000 tấn đồ hộp và 40.000 tấn
dứa đông lạnh. Nh- vậy mới có 5 - 7% sản l-ợng trái cây thu hoạch đ-ợc
chế biến. Ngoài ra, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý theo yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thiếu, yêu cầu giải quyết việc làm
cho một đội ngũ lao động khá đông đảo cũng đang đặt ra yêu cầu cấp bách.
Trong bối cảnh đó, nếu phát triển mạnh công nghiệp chế biến thì có thể giải
quyết đ-ợc mâu thuẫn kể trên, đặc biệt là, cho phép huy động đ-ợc các nguồn
vốn trong nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức liên kết, liên doanh,
vừa phát huy đ-ợc tay nghề của ng-ời lao động, vừa tạo ra nhiều sản phẩm
cho xã hội, vừa khai thác đ-ợc lợi thế của tất cả các vùng, tạo điều kiện từng
b-ớc phát triển ngành công nghiệp chế biến trở thành một ngành kinh tế -
kỹ thuật sản xuất hàng hóa, vừa phục vụ tốt nhu cầu nội địa, vừa tăng c-ờng
đ-ợc l-ợng hàng xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị tr-ờng quốc tế. Một loạt các quốc gia (Tây Âu, Nhật Bản tr-ớc đây,
các n-ớc NICs và nhiều n-ớc Đông Nam á hiện nay) đã thực hiện công
nghiệp hóa thành công nhờ áp dụng chiến l-ợc phát triển công nghiệp nhẹ
và công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, sau đó phát triển công nghiệp
nặng và tiếp theo là phát triển các ngành công nghiệp có hàm l-ợng khoa
học kỹ thuật và vốn cao. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm đó của họ.
1.2. Phát triển công nghiệp chế biến ở một số n-ớc và
bài học kinh nghiệm
Công nghiệp hóa - quy luật của mọi quốc gia trong quá trình chuyển
nền kinh tế từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, kỹ thuật thủ công lên sản
xuất lớn với công nghiệp hiện đại, kỹ thuật tiên tiến.

13

Tuy nhiên, một vấn đề có tính quy luật của quá trình công nghiệp hóa
là phải có b-ớc đi cụ thể, tùy theo vai trò vị trí tr-ớc mắt, lâu dài của từng ngành
mà vạch b-ớc đi thích hợp. Chẳng hạn thời kỳ 1920, Lênin chủ tr-ơng tr-ớc hết
phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến sau đó mới đến phát triển các
ngành công nghiệp khác [9, 29]. Thực tế hầu hết các n-ớc trên thế giới đều bắt
đầu công nghiệp hóa bằng phát triển công nghiệp chế biến, bởi ba lý do:
- Công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm mới
mà nông nghiệp bị hạn chế.
- Công nghiệp chế biến là nhân tố hết sức quan trọng kích thích tăng
tr-ởng nhanh nền kinh tế, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Công nghiệp chế biến tạo ra các động lực thúc đẩy các ngành kinh
tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Nh-ng, tùy theo điều kiện mỗi n-ớc mà quá trình phát triển công
nghiệp chế biến đ-ợc tiến hành không hoàn toàn giống nhau. Căn cứ vào
lịch sử và đặc điểm phát triển có thể thấy hai nhóm n-ớc thực hiện công
nghiệp chế biến: Nhóm các n-ớc công nghiệp hóa đi tr-ớc nh-: Anh, Pháp,
Mỹ, Đức và nhóm các n-ớc công nghiệp hóa đi sau nh- Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia Đến nay một
số n-ớc đi sau đã và đang thành công trong phát triển công nghiệp chế biến,
có thể cung cấp những bài học kinh nghiệm cho các n-ớc còn đang ở trong
giai đoạn đầu phát triển công nghiệp chế biến.
Việc tiếp cận kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến của các
n-ớc, đặc biệt là các n-ớc đi sau (NICs và ASEAN) để tìm ra giải pháp phát
triển công nghiệp chế biến ở Việt Nam là việc làm cần thiết vì các n-ớc này
có nhiều nét t-ơng đồng và xuất phát điểm gần giống với Việt Nam.
1.2.1. Về mặt chính sách và biện pháp phát triển công nghiệp
chế biến
Các n-ớc NICs bao gồm Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hồng
Kông họ bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 1960. Tiếp theo là các


14
n-ớc thuộc khối ASEAN nh- Thái Lan, Malaixia, Indonêxia bắt đầu công
nghiệp hóa vào những năm 1970. Trong thời kỳ này ở tất cả các n-ớc, công
nghiệp chế biến là ngành có tốc độ tăng tr-ởng nhanh nhất của nền kinh tế.
Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến vào GDP của mỗi n-ớc rất cao
và ngày càng có xu h-ớng tăng. Có thể thấy điều này qua các biểu sau.
Biểu 1: Tốc độ tăng tr-ởng của công nghiệp chế biến
ở Đài Loan (%)

1955-1960
1960-1965
1965-1970
1970-1975
1975-1980
Công nghiệp chế biến
10,9
13,8
20,6
13,5
15,4
GNP
6,7
9,5
9,8
8,8
10,4
GNP/ng-ời
3,1
6,1
6,6

6,7
8,2
LĐ trongCNCB
4,8
5,3
8,3
9,9
7,5
Tổng số lao động
2,1
2,3
4,3
3,8
3,5
Biểu 2: Tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP
ở Malaysia (%)

1970
1980
1985
1990
1995
2000
GDP
100
100
100
100
100
100

- Công nghiệp chế biến
13,9
19,6
19,7
26,7
34,7
37,2
- Nông nghiệp
29,0
22,9
20,8
18,7
13,5
10
[16]
Biểu 3: Tỷ lệ chế biến trong xuất khẩu
của các n-ớc ASSEAN (%) [3, 239-240]

Inđonesia
Malaysia
Philippin
Singapore
Thái Lan
1976
1990
1976
1990
1976
1990
1976

1990
1976
1990
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Hàng chế biến
9,2
44,1
31,9
58,5
46,7
52,0
47,2
70,3
80,8
90,8
Nguyên liệu thô*
18,5
7,7
42,2
12,7

27,0
6,7
1,4
3,0
15,8
5,5
* Không kể nguyên liệu khai khoáng.

15
Để phát triển công nghiệp chế biến, các n-ớc trong khu vực đã thực
hiện chính sách, biện pháp:
- Thông qua chiến l-ợc công nghiệp hóa trong giai đoạn đầu với
chính sách thay thế hàng nhập khẩu, các n-ớc này thực hiện chính sách
phát triển công nghiệp chế biến nh- phát triển các ngành chế biến nguyên
liệu, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu từ n-ớc ngoài.
Những cơ sở này cần vốn đầu t- ít, thu lợi nhuận nhanh, có khả năng tăng
tốc độ tích lũy vốn. Đồng thời, các n-ớc này cũng đẩy mạnh chế biến các
mặt hàng có lợi thế so sánh về nguyên liệu để cân đối trong n-óc và dần
chuyển sang xuất khẩu. Việc tích lũy vốn đ-ợc thực hiện chủ yếu bằng quá
trình này.
- Chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng: Chính phủ các n-ớc đã can
thiệp vào thị tr-ờng vốn thông qua chính sách lãi suất và tín dụng h-ớng
luồng vốn chảy vào các ngành, lĩnh vực -u tiên cần đầu t- là công nghiệp
chế biến nông, lâm sản. Chính phủ các n-ớc thực hiện -u tiên "tài trợ
ngầm" qua tín dụng, duy trì lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất thị tr-ờng
chứng khoán. Đây còn là một cách kiềm chế nhẹ giữ cho lãi suất ổn định,
mặt khác đảm bảo thực hiện lãi suất t-ơng đối với tiền gửi. Chính sách này
đ-ợc chính phủ Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan rất coi trọng.
Để có nguồn vốn hỗ trợ cho công nghiệp chế biến, các n-ớc đã duy
trì tỷ lệ tiết kiệm cao. Đài Loan khuyến khích cá nhân tiết kiệm với lãi suất

cao và xây dựng hệ thống tiền gửi đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng. Hàn
Quốc khai thác truyền thống tiết kiệm của nhân dân, nâng tỷ lệ tiết kiệm
lên cao ngay trong điều kiện nền kinh tế còn ở mức tăng tr-ởng thấp. Chính
phủ các n-ớc thực hiện cam kết ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát đồng
thời mở rộng chính sách thu hút đầu t- n-ớc ngoài. Thông qua chính sách
này mà tích lũy vốn và tiết kiệm trong các n-ớc tăng rất nhanh. Nên nh-
giai đoạn 1960 - 1970 mức tiết kiệm trong n-ớc ở các n-ớc này chỉ khoảng
10 - 20% GDP, thì năm 1995 - 1996 là 30 - 48%.

16
- Chính sách khuyến khích về thuế: Chính phủ các n-ớc áp dụng các
chính sách miễn và giảm thuế thu nhập, thuế kinh doanh, thuế lợi tức cho
các cơ sở chế biến mới thành lập. ở Hàn Quốc giảm thuế 5% các loại thuế
cho các cơ sở mới thành lập từ 2 - 5 năm. ở Thái Lan, Chính phủ giảm thuế
nhập khẩu máy móc các phụ kiện từ 40% xuống còn 5% vào năm 1999,
đồng thời giảm mức thuế cho các nguyên liệu thô.
- Chính sách thúc đẩy xuất khẩu: để sản phẩm chế biến tiếp cận với
thị tr-ờng thế giới, Chính phủ các n-ớc đ-a ra những chính sách khuyến
khích và trợ giúp xuất khẩu sản phẩm chế biến. Mailaysia thực hiện chính
sách trợ giúp phí tổn khi xúc tiến việc xuất khẩu nông sản, trợ giúp trong
việc xây dựng các kho chứa bảo quản và tín dụng đổi mới công nghệ. Trong
vòng 10 năm (1979 - 1989) Ngân hàng Malaysia đã tăng vốn tài chính cho
xuất khẩu từ 140 triệu lên 9.900 triệu USD. Mặt khác, họ tổ chức cung cấp
thông tin về thị tr-ờng thế giới, giới thiệu các cơ hội và những quy định
trong buôn bán quốc tế, giúp các doanh nghiệp phát triển [23, 291]. Chính
phủ Thái Lan còn có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu nh-: Bỏ chế
độ hạn ngạch (quota), không thu thuế xuất khẩu, nhà xuất khẩu chỉ phải
nộp thuế lợi tức nếu có, tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh
đ-ợc vay vốn -u đãi, khi cần thiết đ-ợc chính phủ hỗ trợ việc xuất khẩu,
định h-ớng thị tr-ờng chủ yếu, can thiệp để ký những hợp đồng lớn [13, 36].

- Chính sách phát triển khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ tay nghề cao:
Trong điều kiện tiến bộ của khoa học công nghệ phát triển nhanh
chóng, các n-ớc đi sau, không phải đi tuần tự nh- các n-ớc đi tr-ớc, nên
chính sách ở các n-ớc này là tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho
phù hợp với lợi thế vốn có của mình để tham gia vào phân công lao động và
hợp tác quốc tế. Thái Lan, Inđônêxia -u tiên công nghiệp chế biến l-ơng
thực, thực phẩm và lâm sản để chuyển dịch cơ cấu kinh tế dần sang các
ngành may, dệt, hóa chất, tinh dầu, ô tô, điện tử

17
Gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách đi tắt: nhập
khẩu công nghệ kết hợp với nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khoa học
công nghệ, cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho ng-ời lao động. Hàn
Quốc chi 2,15% GDP cho khoa học công nghệ; Đài Loan chi 2,13% GDP,
Singapore 1,27% GDP [18, 8].
Chi phí cho hoạt động khoa học công nghệ của ta còn thấp, tính
bình quân 1991 - 1995 chi cho khoa học - công nghệ mới đạt 0,91% ngân
sách nhà n-ớc (khoảng 0,22% GDP), tính tất cả các nguồn (cả từ sản xuất
và viện trợ) chỉ đạt khoảng 0,5% GDP [7, 110-111].
1.3.2. Vận dụng kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến ở
thành phố Hồ Chí Minh
Qua nghiên cứu sự phát triển công nghiệp chế biến ở các n-ớc trong
khu vực, cho thấy, sự tăng tr-ởng nhanh chóng của nền nông nghiệp nói
chung, của các ngành nông, lâm sản xuất khẩu nói riêng là nhờ những kinh
nghiệm sau đây:
- Thứ nhất, thành công của các n-ớc là gắn nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, lấy nông nghiệp làm điểm khởi đầu để phát triển toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Chính phủ các n-ớc trên đã kiên trì theo đuổi chiến
l-ợc đó: tập trung nỗ lực cho phát triển nông nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chiến l-ợc công nghiệp hóa và hiện đại

hóa của một nền nông nghiệp h-ớng ra xuất khẩu là chủ yếu. Thực hiện đa
dạng hóa sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy các lợi thế tuyệt đối và
t-ơng đối (lợi thế so sánh) phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu là con đ-ờng
chủ yếu để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nông nghiệp, từ kinh nghiệm
này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
Đảng ta chủ tr-ơng: "phát triển toàn diện nông - lâm - ng- nghiệp, gắn với
công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn" [23, 19-21].

18
Thứ hai: áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, có trọng điểm,
mũi nhọn đi tắt lên hiện đại, tạo điều kiện chuyển sang lấy công nghệ chế
biến hiện đại làm chủ yếu. Trong điều kiện từ một n-ớc nông nghiệp lạc
hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, chịu ảnh h-ởng của mô hình kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp kéo dài, làm cho đất n-ớc rơi vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội. Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế có những
b-ớc khởi sắc nhất định. Song do sự gia tăng dân số, sức ép công ăn việc
làm quá lớn, ngân sách còn hạn hẹp nên tuy đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội, nh-ng còn một số yếu tố ch-a vững chắc nh- Đảng ta đã nhận định.
Trong điều kiện đó, việc bố trí cơ cấu công nghệ phải đa dạng, đa trình độ,
đồng thời phải biết lựa chọn khâu, ngành và mặt hàng mũi nhọn đi tắt lên
hiện đại là quan điểm đúng trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến.
Ba là: Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục
tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định, đặc biệt đối với các nông sản
xuất khẩu, các n-ớc b-ớc đầu đều có chính sách bảo hộ và các ch-ơng trình
hỗ trợ đặc biệt để tạo dựng ngành hàng xuất khẩu.
Ví dụ: Các xí nghiệp sơ chế nguyên liệu ở Malaysia, các cơ sở chế
biến nông, lâm, thủy sản ở Thái Lan, Malaisia, Philippin Trên cơ sở phát
triển các mặt hàng này, các n-ớc tập trung phát triển các ngành chế biến có
hàm l-ợng khoa học công nghệ cao.

Bốn là: chú trọng đầu t- xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và
nghiên cứu triển khai, tăng c-ờng đổi mới hệ thống tiếp thu, phát triển các kênh
sản xuất - tiêu thụ - xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị tr-ờng.
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, các ngành công nghiệp chế
biến, nhất là chế biến các sản phẩm mà nguyên liệu có sẵn trong n-ớc đ-ợc -u
tiên phát triển. Chính phủ cần thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài chính, xây
dựng môi tr-ờng pháp lý thuận lợi để sớm mở rộng và nâng cấp các cơ sở chế
biến và tạo kết cấu hạ tầng thuận lợi để chúng hoạt động. Đối với các n-ớc
công nghiệp chế biến phát triển muộn, việc xây dựng đi tr-ớc một b-ớc các

19
kết cấu hạ tầng về kinh tế và pháp lý là điều kiện rất quan trọng để đẩy
nhanh tốc độ và quy mô phát triển công nghiệp chế biến. Kết cấu hạ tầng
thuận lợi là cách tốt nhất để nối liền các cơ sở sản xuất, khai thác nguyên liệu
với các trung tâm chế biến, là cách khai thông sản phẩm chế biến với thị tr-ờng.
Để sản phẩm công nghiệp chế biến tiếp cận với thị tr-ờng thế giới
và phát triển lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, các n-ớc đã đ-a
ra những chính sách khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chế
biến. Đài Loan, Hàn Quốc thực hiện miễn thuế và cấp vốn với lãi suất thấp
để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang các n-ớc phát triển.
Năm là: Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp
và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả nh- chính sách tài chính, tín
dụng, ngân hàng, th-ơng mại trong quá trình phát triển.
Chính phủ các n-ớc đã can thiệp có hệ thống vào thị tr-ờng vốn
thông qua chính sách lãi suất và chỉ đạo tín dụng, h-ớng luồng vốn chảy
vào các ngành lĩnh vực cần -u tiên đầu t Chế biến nông, lâm, thủy sản là
một trong những h-ớng mà các chính phủ Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia
và Philippin quan tâm.
Tóm lại, Công nghiệp chế biến nông, lâm sản là ngành sản xuất
công nghiệp mà nguyên liệu đầu vào là sản phẩm nông nghiệp. Vì thế là

một ngành cần đ-ợc phát triển và có nhiều điều kiện phát triển ở n-ớc ta -
một n-ớc có tiềm năng nông, lâm nghiệp nhiệt đới.
Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi, nằm ở giữa vùng đồng
bằng Nam Bộ có nhiều -u đãi cho nền nông nghiệp, có nhiều sông ngòi,
cận kề biển lại là đầu mối giao thông quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh
cũng là trung tâm công nghiệp phát triển từ lâu, do đó có nhiều tiềm năng
phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở
thành phố Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức xúc.

20
Ch-ơng 2
Thực trạng và tiềm năng phát triển
công nghiệp chế biến nông, lâm sản
ở thành phố Hồ Chí Minh

2.1. Đặc điểm thành phố Hồ Chí Minh với khả năng phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản
2.1.1. Vị trí của thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên vùng đồi núi thoai thoải cao hơn
mặt sông từ 2 đến 10 m, có diện tích rộng 2.056 km
2
, Bắc giáp tỉnh Tây
Ninh, Tây giáp tỉnh Long An, Đông giáp tỉnh Đồng Nai - Bình D-ơng, Nam
ăn thông ra biển. Thành phố nằm ở giữa hai hệ thống sông Đồng Nai và
sông miền Tây, là cửa ngõ của các đ-ờng thủy lẫn đ-ờng bộ, nối với
Campuchia và hạ Lào, là nơi hội tụ của nhiều sông với hệ thống kênh rạch
thuận lợi, nhờ đó làm cho sông và biển nối liền lại thành một hệ thống
cảng, cầu cảng và biển. Cùng với các cảng hàng không thuận lợi, những
điều kiện địa hình trên làm cho thành phố Hồ Chí Minh là một trong những

trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội lớn của cả n-ớc.
Với dân số chính thức đến cuối 1999 là 5.063.871 ng-ời, trong đó
dân c- thành thị chiếm 73%, dân c- nông thôn chiếm 27%; nam chiếm tỷ
trọng 48,2%; nữ chiếm 51,8%; dân c- phi nông nghiệp 91,5%; dân c- nông
nghiệp chiếm 8,5% [12, 18].
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có số dân đông nhất
n-ớc, trong số lao động của thành phố, lực l-ợng cán bộ khoa học kỹ thuật
và công nhân lành nghề có tỷ lệ cao hơn nhiều địa ph-ơng khác, là một
tiềm năng lớn cho phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến
nói riêng. Dân số ở đây cũng là nguồn lao động tiềm tàng đáp ứng yêu cầu
phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến trong

21
thời gian tới. Tuy nhiên, dân số quá đông cũng tạo một sức ép lớn trong giải
quyết việc làm và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội.
Ngoài những -u thế về vị trí địa lý, về lao động, thành phố Hồ Chí
Minh còn các -u thế sau:
Là đầu mối giao thông gắn với thị tr-ờng của các yếu tố đầu vào
của sản xuất công nghiệp chế biến, hàng hóa, dịch vụ và gắn với thị tr-ờng
đầu ra giữa các địa ph-ơng, giữa các vùng trong n-ớc, giữa thành phố với
các n-ớc trên thế giới.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có trình độ kinh tế thị tr-ờng sớm
phát triển so với các địa ph-ơng khác trong cả n-ớc, và cũng là nơi hội tụ
khá đầy đủ, rõ nét nhất khối l-ợng cung cầu hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, tài
chính.
Thành phố Hồ Chí Minh là chỗ dựa công nghiệp cho các tỉnh phía
Nam, góp sức cho sự phát triển kinh tế vùng đồng bằng Nam bộ và cực
Nam Trung bộ, Tây Nguyên [21, 13].
Những -u thế trên tạo nên những tiềm năng và những điều kiện quy
định sự phát triển của công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh.

2.1.2. Tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh với điều kiện, vị trí thuận lợi, gắn với nhiều
nguồn lực của công nghiệp chế biến, nên có tiềm năng để phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, đó là:
Thứ nhất, Thành phố có thế mạnh về công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Tr-ớc ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, một số cơ sở vật chất
kỹ thuật trong công nghiệp đã hình thành. Mặc dù sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho nhu cầu chiến tranh thông qua việc cung

22
cấp thực phẩm, quân trang, quân dụng, sự phân bố mang tính tự phát,
thiếu hẳn một số ngành cơ bản và then chốt. Sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, cơ sở vật chất đ-ợc tiếp quản gần nh- nguyên vẹn và đ-ợc
tiếp tục tăng c-ờng qua các thời kỳ kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) nhất là từ
1991 - 1995.
Năng lực sản xuất trong một số ngành công nghiệp nhờ vậy đã tăng
thêm. Một số sản phẩm chủ yếu do thành phố sản xuất nh- vải, thuốc lá,
bột ngọt, đồ hộp, tân d-ợc chiếm hơn một nửa sản l-ợng của cả n-ớc.
Nhiều sản phẩm đã có mặt trên thị tr-ờng thế giới. Thành phố có một hệ
thống lao động làm việc trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm
khoảng 40% tổng số lao động trong các ngành kinh tế, đóng góp khoảng
một nửa tổng thu nhập quốc dân của thành phố và chiếm một phần ba giá
trị sản l-ọng công nghiệp của cả n-ớc. Nếu tính riêng tiểu thủ công
nghiệp thành phố chiếm khoảng 50% giá trị sản l-ợng tiểu thủ công nghiệp
của cả n-ớc.
Thứ hai, Có lực l-ợng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo, một tiềm
năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Theo số liệu thống kê năm 1999, lực l-ợng cán bộ khoa học kỹ

thuật đang làm việc trên địa bàn thành phố là 193.097 ng-ời chiếm khoảng
11% dân số trong độ tuổi lao động. Trong đó, trung học chuyên nghiệp
chiếm 47%; cao đẳng và đại học chiếm 52,6%; tiến sĩ chiếm 0,4%. Về cơ
cấu ngành nghề, số cán bộ khoa học - kỹ thuật nằm trong 4 lĩnh vực: khoa
học xã hội chiếm 53,7%, khoa học kỹ thuật 17,1%; khoa học y d-ợc 13,2%;
khoa học tự nhiên 11,2%. Thành phố Hồ Chí Minh có số đông tr-ờng đại
học và cao đẳng, có các viện và phân viện nghiên cứu trên các lĩnh vực liên
quan đến phát triển công nghiệp chế biến nhiều hơn so với các địa ph-ơng
khác trong cả n-ớc (sau Thủ đô Hà Nội). Thành phố Hồ Chí Minh có khả
năng quy tụ đội ngũ trí thức và công nhân lành nghề. Trong nhiều năm qua,

23
nhất là từ khi đổi mới đến nay, lực l-ợng cán bộ khoa học công nghệ trên
địa bàn thành phố đã đóng góp nhiều công sức và trí tuệ phục vụ cho sự
tăng tr-ởng và phát triển kinh tế, trong đó có công nghiệp chế biến.
Thứ ba, thành phố Hồ Chí Minh có thế mạnh về giao thông vận tải,
b-u chính viễn thông.
Là đầu mối về giao thông vận tải và b-u điện, thành phố có hầu hết
các loại đ-ờng giao thông: đ-ờng bộ, đ-ờng thủy, đ-ờng không. Có thể nói
hàng hóa, nguyên liệu, vật t-, máy móc, thiết bị từ sân bay, bến cảng, nhà
ga, b-u điện đều quy tụ về thành phố và từ đây tỏa đi khắp mọi miền đất
n-ớc, tới nhiều n-ớc trên thế giới và khu vực.
Qua 15 năm đổi mới, hệ thống đ-ờng bộ, bến xe, hệ thống đ-ờng
sông, biển và các bến cảng, đ-ờng hàng không, b-u chính viễn thông đã
đ-ợc cải tạo nâng cấp theo h-ớng ngày một hiện đại, thay đổi nhiều so với
thành phố tr-ớc ngày giải phóng. Sự tiến bộ này đã tạo khả năng nâng cao
năng lực vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa, vật t-, nguyên liệu có liên quan đến
các yếu tố đầu vào và đầu ra của sự phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm sản trên địa bàn thành phố.
Thứ t-, Thành phố Hồ Chí Minh gắn với một vùng nông, lâm nghiệp

phụ cận phát triển có khả năng cung ứng nhu cầu thiết yếu về l-ơng thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tạo ra sự hài hòa cân
bằng về môi tr-ờng sinh thái. Thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng thế
mạnh phát triển công nghiệp chế biến, có vùng ngoại thành thuận lợi cho
việc phát triển nông, lâm nghiệp. Các huyện ngoại thành với hơn nửa triệu
nhân khẩu nông nghiệp, hơn 360 ngàn lao động chiếm 62,5% nhân khẩu
nông nghiệp, với diện tích gieo trồng các loại tính đến năm 1995 là 107.774
ha, trong đó, cây l-ơng thực 81.251 ha, rau đậu các loại 13.160 ha, cây
công nghiệp hàng năm 12.837 ha, cây hàng năm khác 526 ha [11, 75], tạo
nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.

24
Thứ năm, Thành phố Hồ Chí Minh còn có lợi thế khác mà các địa
ph-ơng khác không có. Đó là:
- Một thành phố dân c- đông đúc, hơn 5 triệu dân, ch-a kể ng-ời
trong và ngoài n-ớc qua lại trên địa bàn thành phố. Số dân lớn tạo nên sức
mua lớn, làm cho thị tr-ờng đầu ra của công nghiệp chế biến nông, lâm sản
ngày càng tăng, đồng thời cho phép mở rộng thị tr-ờng các yếu tố đầu vào
của công nghiệp chế biến.
- Là một trung tâm giao l-u quốc tế thuận lợi so với cả n-ớc, thành
phố Hồ Chí Minh mở ra triển vọng to lớn cho việc thực hiện quan hệ kinh tế
đối ngoại với nhiều hình thức nh-: xuất nhập khẩu, hợp tác sản xuất, liên
doanh liên kết và đầu t- n-ớc ngoài. Thế mạnh này có tác dụng to lớn đối
với việc phát triển công nghiệp chế biến nh- tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi
mới công nghệ, tạo nguồn vật t- thông qua nhập khẩu, gọi vốn đầu t-, hình
thành các khu chế xuất, khu công nghiệp kỹ thuật cao, trong đó có công
nghiệp chế biến.
- Vị trí của thành phố thuận lợi, nằm giữa Nam Bộ, Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên, có khả năng mở rộng thị tr-ờng đầu ra hàng công nghiệp
chế biến đến các địa ph-ơng trong khu vực, đồng thời cho phép thu hút các

nguồn nguyên liệu từ các địa ph-ơng về thành phố để phát triển công
nghiệp chế biến.
2.2. Thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Tình hình công nghiệp chế biến nông, lâm sản từ tr-ớc
đổi mới
Thời kỳ tr-ớc 1986, xu h-ớng vận động của nền kinh tế, xu h-ớng
vận động công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng, trên địa
bàn thành phố, chịu ảnh h-ởng bởi một số đặc điểm sau:

25
Tr-ớc ngày Sài Gòn giải phóng, nền kinh tế nói chung, trong đó cả
công nghiệp chế biến nông, lâm sản của thành phố mang tính lệ thuộc n-ớc
ngoài, phát triển theo h-ớng phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm l-ợc
của Mỹ và thế lực thù địch trong n-ớc.
Từ 30 tháng 4 năm 1975 đến tr-ớc đổi mới 1986, là giai đoạn b-ớc
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là một n-ớc có điểm xuất phát
thấp, chịu ảnh h-ởng nặng nề của mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan
liêu, bao cấp nên đ-ờng lối và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
công, th-ơng nghiệp ở miền Nam nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng có nhiều thiếu sót, chủ quan làm nhịp độ phát triển kinh tế, phát
triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản diễn ra
chậm chạp. Vì vậy, quy mô, chủng loại và trình độ công nghệ chế biến còn
nhỏ bé, lạc hậu. Một số cơ sở công nghiệp nhà n-ớc rơi vào tình trạng suy
thoái, trì trệ, thua lỗ, đã và đang đứng tr-ớc bờ vực phá sản.
30/4/1975, Sài Gòn đ-ợc giải phóng, chế độ chính trị mới đã sử
dụng quyền lực chính trị của mình thông qua cải tạo và tổ chức lại nền kinh
tế thành phố theo yêu cầu từng b-ớc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện
chủ tr-ơng cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện quốc hữu hóa với quy mô lớn
để đánh đổ giai cấp t- sản về ph-ơng diện kinh tế, tạo điều kiện để thành

phần kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển, mà chủ yếu là kinh tế quốc doanh
phát triển. Qua cải tạo đã quốc hữu hóa 1.071 xí nghiệp công nghiệp quan
trọng chủ chốt của công nghiệp thành phố lúc bấy giờ, của 3.987 hộ t- sản
công nghiệp, biến nó thành các xí nghiệp công nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ cơ sở vật chất, kinh doanh của hệ thống ngân hàng, tài chính,
th-ơng mại, dịch vụ của t- sản mại bản, t- sản th-ơng mại lớn bao gồm
110.044 hộ (kiêm thu gom nguyên liệu, bảo quản, sơ chế, bán) cũng đ-ợc
cải tạo. Ngoài ra, cải tạo 190.092 hộ t- sản, biến nó thành các xí nghiệp

×