Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.78 KB, 11 trang )

Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
1
CẢI TỔ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

Bài đọc này nhằm mục tiêu trình bày một cách có hệ thống về các cuộc cải tổ hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986. Trước hết
sẽ giới thiệu khái quát và điểm qua những nét đặc trưng của cải tổ hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ đi vào chi tiết của từng đợt cải tổ ngân hàng từ năm
1987 đến nay.

1. Những nét đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam trước khi cải tổ

Ở Việt Nam do sản xuất hàng hoá chưa phát triển, ngân hàng ra đời muộn và hoạt
động non yếu thể hiện ở chỗ ít về số lượng, nhỏ về quy mô, và kém về tổ chức hoạt
động và nghiệp vụ. Trước Thế Chiến I chưa hề có ngân hàng Việt Nam chỉ có 3 ngân
hàng nước ngoài hoạt động, đó là Hương Cảng Ngân Hàng (1865), Đông Dương Ngân
Hàng (1875), và chi nhánh Chartered Bank (1904). Điều này chứng tỏ rằng kinh tế
Việt Nam thời đó còn rất kém phát triển và giai cấp tư sản Việt Nam còn rất non yếu,
chưa có tiếng nói gì trong giới tài chính.
Vài năm sau Thế Chiến I, một số ngân hàng nước ngoài khác được thành lập
như Đông Á Ngân Hàng (1921), Ngân Hàng Thương Mại Pháp (1922). Trong thời kỳ
này mầm móng tư sản tài chính Việt Nam bắt đầu nhen nhóm. Năm 1927 một số thân
hào nhân só cấp tiến có tin thần độc lập dân tộc kêu gọi các nhà tư sản khắp nơi góp
vốn thành lập Ngân Hàng Việt Nam, là ngân hàng thuần túy của người Việt Nam,
phục vụ người Việt Nam và do người Việt Nam quản trò.
Sau chiến Thế Chiến II, có 3 ngân hàng nước ngoài nữa nhảy vào Việt Nam, đó
là Trung Quốc Ngân Hàng (1946), Giao Thông Ngân Hàng, Quốc Gia Thương Mãi và
Kỹ Nghệ Ngân Hàng (1947). Theo sau đà bành trướng của ngân hàng nước ngoài,
hàng loạt ngân hàng Việt Nam khác ra đời vừa để cạnh tranh với ngân hàng nước


ngoài, vừa chứng tỏ sự lớn mạnh của ngân hàng và giới tư bản tài chính Việt Nam.
Sau năm 1954, đất nước bò chia cắt thành 2 miền có chế độ kinh tế chính trò
khác nhau, do đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng khác nhau giữa 2 miền.

Ở Miền Bắc

Ngày 05/06/1951 Hồ Chủ Tòch ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam và sắc lệnh số 17/SL quy đònh mọi công việc của Nha Ngân Khố Quốc Gia
và Nha Tín Dụng Sản Xuất giao cho Ngân Hàng Quốc Gia phụ trách. Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam sau đó đổi tên thành Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và được tổ
chức thành hệ thống thống nhất từ Trung ương đến đòa phương theo đòa giới hành chính
do Nhà nước độc quyền sở hữu và quản lý. Hệ thống ngân hàng này tồn tại cho đến
ngày Miền Nam được giải phóng. Sau khi thống nhất đất nùc hệ thống ngân hàng này
thay thế luôn hệ thống ngân hàng ở Miền Nam cho đến năm 1987.
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
2
Ở Miền Nam

Ngày 31/12/1954 Bảo Đại ký dụ số 48 thành lập Ngân Hàng Quốc Gia cho Miền Nam.
Từ 1954 đến 1975 hệ thống ngân hàng ở Miền Nam được tổ chức theo hệ thống ngân
hàng các nước tư bản chủ nghóa nhưng mang nét đặc thù Việt Nam. Hệ thống ngân
hàng dưới thời chính quyền Sài Gòn bao gồm:


Ngân hàng trung ương được thành lập năm 1954 có tên gọi là Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam.

Ngân hàng phát triển thuộc sở hữu quốc doanh bao gồm Ngân Hàng Phát Triển

Nông Nghiệp có 25 chi nhánh ở khắp Miền Nam và Ngân Hàng Phát Triển Kỹ
Nghệ được thành lập năm 1971.

Các cơ sở tín dụng và tiết kiệm công lập, bao gồm Quỹ Tiết Kiệm Sài Gòn,
Tổng Nha Ngân Khố và Ty Ngân Khố toàn quốc, Quỹ Tiểu Thương Tín Dụng,
Trung Tâm Khuếch Trương Tiểu Công Nghệ, Trung Tâm Khu Chi Phiếu,
Trung Tâm Khuếch Trương Xuất Cảng, Quỹ Tài Trợ Khuếch Trương Kỹ Nghệ,
và Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia.

Các ngân hàng thương mại, bao gồm 17 ngân hàng thương mại tư và 2 ngân
hàng thương mại công với tổng cộng 144 chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh.

Các ngân hàng nước ngoài, bao gồm 14 ngân hàng với 21 chi nhánh ở khắp
Miền Nam.

Trước khi cải tổ, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức như là hệ thống ngân
hàng một cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ thống chi nhánh từ trung
ương đến đòa phương phân bố theo đòa giới hành chính. Hệ thống này vừa đảm nhận
chức năng quản lý Nhà nước về các mặt hoạt động tiền tệ, ngân hàng, tín dụng và
thanh toán vừa thực hiện chức năng kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Kiểu
tổ chức hệ thống ngân hàng như thế này thích hợp với đặc thù của cơ chế quản lý kế
hoạch tập trung bao cấp lúc bấy giờ nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế kinh
doanh thì nó tỏ ra kém hiệu quả và không còn phù hợp nữa. Năm 1986 trước sức ép
của công cuộc đổi mới kinh tế đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải được cải tổ
sâu rộng nhằm thích ứng với tình hình và yêu cầu chuyển đổi của nến kinh tế. Từ đó
hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ dần dần qua từng giai đoạn.
Hình 1 mô tả tổ chức hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cải tổ.








Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
3
Hình 1: Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam trước khi cải tổ













2. Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất (1987 – 1990)

Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1987 nhằm làm cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam thích ứng với cơ chế quản lý mới: Cơ chế quản lý kinh doanh xã
hội chủ nghóa. Đặc điểm của cơ chế này là bắt đầu trao quyền tự chủ tài chính cho các
xí nghiệp, xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghóa.
Với cơ chế mới này đòi hỏi ngân hàng cũng phải chuyển sang hoạt động kinh doanh
chứ không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng quản lý tiền tệ, tín dụng và thanh toán

như trước kia.
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất, từ 1987 đến 1990, thực hiện theo tinh
thần Nghò Đònh 53HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng. Có hai điểm nổi
bật trong công cuộc cải tổ ngân hàng lần thứ nhất. Thứ nhất là việc tách bộ phận Quản
lý quỹ Ngân sách Nhà nước ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành Hệ thống Kho
bạc Nhà nước, làm chức năng quản lý quỹ Ngân sách cho Chính phủ. Thứ hai là thành
lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách chức năng kinh doanh của Ngân hàng
Nhà nước giao về cho các ngân hàng chuyên doanh. Điều này được xem như là một
bước cải tổ quan trọng vì bước đầu tách bạch rõ ràng được hai chức năng quản lý và
kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước.
Theo Nghò đònh 53, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức thành hệ thống
ngân hàng 2 cấp bao gồm: Ngân hàng Nhà nùc và Ngân hàng chuyên doanh. Ngân
hàng Nhà nước, được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến cấp tỉnh, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng chuyên
doanh bao gồm Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nông
nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư Xây Dựng Việt Nam và Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, thực hiện chức năng kinh doanh theo những lónh vực tương ứng với
tên gọi. Sơ đồ ở hình 2 dưới đây mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
1987 – 1990 theo Nghò đònh 53HĐBT.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chí nhánh NH Nhà nước tỉnh, thành phố
Chi nhánh NH Nhà nước quận, huyện
Khách hàng
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
4
Hình 2: Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1987 – 1990

















Tổ chức hệ thống Ngân hàng như mô tả trên hình 2 có ưu điểm là tách được chức năng
kinh doanh khỏi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước trao cho hệ thống ngân
hàng chuyên doanh. Tuy nhiên, tổ chức hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn còn chứa
đựng nhiều nhược điểm khiến cho hệ thống ngân hàng không thích ứng được khi
chuyển sang cơ chế thò trường. Thứ nhất là hệ thống ngân hàng theo Nghò đònh
53HĐBT vẫn còn mang tính chất độc quyền Nhà nước, chưa cho phép các thành phần
kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng, trong khi chủ trương của Chính phủ là
phát triển nền kinh tế đa thành phần. Thứ hai là hệ thống Ngân hàng này vẫn chưa chú
trọng đến vai trò hoạt động như một ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba là hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này còn xa lạ so với hệ thống ngân
hàng của các nước có nền kinh tế thò trường. Điều này phần nào làm cản trở quá trình
hội nhập và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cuối cùng hệ thống ngân hàng này vẫn còn
thiếu cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động của cả hệ thống khiến cho cả hệ thống
lâm vào tình trạng khó khăn vào năm 1990.
Những nhược điểm như vừa nêu trên đòi hỏi một lần nữa phải cải tổ hệ thống
ngân hàng Việt Nam. Năm 1990 với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và

Pháp lệnh các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ
lần thứ hai.

3. Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ hai (1990 – 2000)

Nhu cầu cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi từ cơ
chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghóa sang cơ chế thò trường có sự điều tiết của Nhà
nước cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Chuyên doanh Chi nhánh NH Nhà nước VN
NH Công
Thươn
g
VN
NH PT Nông
n
g
hie
äp
VN
NH Đầu tư Xây

ï
n
g
VN
NH Ngoại
thươn
g
VN

Chi nhánh NH
Côn
g
Thươn
g

Chi nhánh NH
PT Nôn
g
n
g
hie
äp

Chi nhánh NH
Đầu tư Xâ
y

ï
n
g

Chí nhánh NH
N
g
oa
ï
i thươn
g


Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
5
Đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về các tổ
chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời kỳ cải tổ hệ thống ngân hàng Việt
Nam lần thứ hai. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức
gần giống hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thò trường, bao gồm:

• Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương
• Các tổ chức tín dụng, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát
triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng, đóng vai trò ngân hàng trung
gian.

3.1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo pháp lệnh ngày 23/05/1990, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một pháp nhân,
đặt trụ sở tại Hà Nội có chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có các
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

• Tham gia xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chính
sách liên quan đến hoạt động tiền tệ, xây dựng các dự án pháp luật về hoạt
động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, thanh toán và ngoại hối

Ban hành các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền
• Nhận tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng
• Thực hiện cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá đối với các tổ
chức tín dụng
• Công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối
đa của các tổ chức tín dụng

• Tổ chức thanh toán bù trừ giữa các tổ chức tín dụng
• Cấp giấy phép hoạt động và kiểm tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành
pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại hối
• Tổ chức in ấn, đúc, bảo quản và phát hành tiền

Công bố tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam, quản lý ngoại hối, tổ chức và điều tiết
thò trường hối đoái trong nước và giao dòch mua bán ngoại hối trên thò trường
quốc tế
• Lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, theo dõi quan hệ tín dụng với nước
ngoài và với các tổ chức tín dụng quốc tế.

3.2 Các tổ chức tín dụng

Theo Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990, các tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân
hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính.

Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
6
• Ngân hàng thương mại, bao gồm các loại hình ngân hàng thương mại quốc
doanh; ngân hàng thương mại cổ phần; ngân hàng thương mại liên doanh; và
chi hánh ngân hàng thương mại nước ngoài, được huy động vốn ngắn hạn, dài
hạn để cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn và cung cấp các dòch thanh
toán và dòch vụ tài chính khác.
• Ngân hàng đầu tư và phát triển là ngân hàng quốc doanh nhận vốn đầu tư và
phát triển từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn vốn khác, huy động vốn kỳ
hạn trên 1 năm bằng các hình thức tiền gửi, tiết kiệm, phát hành trái phiếu để
cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo đúng lãi suất quy đònh.

• Hợp tác xã tín dụng là tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể được thành lập
bằng vốn góp của xã viên hoạt động chủ yếu là huy động vốn và cho xã viên
vay trên đòa bàn đòa phương theo đúng thể lệ hoạt động do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước phê duyệt.

Công ty tài chính là công ty quốc doanh hoặc cổ phần hoạt động bằng nguồn
vốn của mình hoặc vay của dân cư bằng cách phát hành trái phiếu, không được
nhận tiền gửi tiết kiệm và không được sử dụng vốn huy động để làm phương
tiện thanh toán.

Tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam theo tinh thần pháp lệnh năm1990, như được
mô tả ở hình 3 dưới đây, có nhiều ưu điểm so với tổ chức hệ thống ngân hàng trước đó.

Hình 3: Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 – 1997

















Hệ thống ngân hàng theo kiểu này đã xoá bỏ được tính chất độc quyền Nhà nước trong
hoạt động ngân hàng bằng cách cho phép thành lập ngân hàng thương mại thuộc nhiều
loại hình sở hữu khác nhau. Mặt khác, hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này gần
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Các tổ chức tín dụng Chi nhánh NH Nhà nước VN
NH thương mại NH đầu tư và
p
hát triển
Hợp tác xã tín
du
ï
n
g

Công ty tài chính
NHTM
q
uốc doanh
NHTM
cổ
p
hần
NHTM
liên doanh
Chi nhánh
NHTM
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
7

giống hệ thống ngân hàng có nền kinh tế thò trường, trong đó có sự hiện diện và hoạt
động của ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài góp phần hỗ trợ
cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như truyền bá công nghệ ngân hàng hiện
đại vào Việt Nam. Hệ thống ngân hàng tổ chức theo pháp lệnh 1990 còn có ưu điểm
nổi bật nữa là bắt đầu chú trọng đến vai trò ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà
nước thể hiện ở chỗ quy đònh và quản lý dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương
mại. Điều này nhằm bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, tránh những sự cố
đổ vỡ như đã từng xảy ra trước khi có pháp lệnh.
Cải tổ hệ thống ngân hàng năm 1990 đã góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân
hàng về mặt hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng. Bảng 1 tóm tắt số lượng
và hình thức sở hữu ngân hàng thương mại từ 1991 đến 1997. Qua bảng này chúng ta
thấy sau khi pháp lệnh các tổ chức tín dụng ra đời, số lượng và loại hình ngân hàng
thương mại đã phát triển mạnh. Nếu như năm 1991 chỉ mới có 9 ngân hàng thương
mại, trong đó có đến 4 ngân hàng quốc doanh thì đến năm 1997 số lượng ngân hàng
thương mại đã gia tăng lên đến 84 trong đó có đến 51 ngân hàng thương mại cổ phần.

Bảng 1: Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam từ 1991 - 1997
1991 1993 1995
Ngân hàng quốc doanh 4 4 4
Ngân hàng cổ phần 4 41 48
Ngân hàng liên doanh 1 3 4
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 0 8 18
Tổng cộng 9 56 74
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước

Giai đoạn 1991 – 1997 cho thấy sự phát triển đa dạng các loại hình ngân hàng thương
mại Việt Nam kể cả số lượng lẫn hình thức sở hữu. Sự phát triển đa dạng này thúc đẩy
nỗ lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, từ đó, nâng cao trình độ nghiệp vụ
và chất lượng phục vụ sao cho ngày càng tiện ích cho khách hàng.
Mặc dù giai đoạn 1991 – 1997 với sự ra đời của pháp lệnh ngân hàng, hệ thống

ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể nhưng hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn cần
có một nền tảng pháp lý vững chắc hơn đó là luật ngân hàng.

4. Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ ba (2000 – nay)

Rút kinh nghiệm sau 7 năm thực hiện, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh
các tổ chức tín dụng đã được bổ sung sửa đổi và trở thành Luật Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam và Luật Các Tổ Chức Tín Dụng được Quốc Hội thông qua ngày 12/12/1997
và được công bố ngày 26/12/1997. Theo Luật hiện hành, hệ thống Ngân hàng ở Việt
Nam bao gồm:

Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
8

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đóng vai trò ngân hàng trung ương

Các Tổ Chức Tín Dụng đóng vai trò đònh chế tài chính trung gian

4.1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)

Chức năng của NHNN

NHNN là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của Việt Nam. NHNN có
các chức năng sau đây:


Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng


Phát hành tiền

Cung cấp dòch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng

Làm dòch vụ tiền tệ cho chính phủ

Tổ chức của NHNN

NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất gồm bộ máy điều hành và
hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, tại các chi nhánh ở các tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, tại các văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước. Thống đốc NHNN
là người chòu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành NHNN. Giúp việc cho Thống đốc
NHNN có các Phó thống đốc và giám đốc chi nhánh NHNN các tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương.

Hoạt động của NHNN

Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia – trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, NHNN có trách nhiệm:


Chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia và hàng năm trình chính phủ
kế hoạch cung ứng lượng tiền tệ bổ sung cho lưu thông

Điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện việc đưa
tiền ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thò trường trong
phạm vi lượng tiền cung ứng đã được chính phủ phê duyệt

Báo cáo chính phủ và quốc hội kết quả thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.


Phát hành tiền giấy và tiền kim loại – NHNN là cơ quan duy nhất phát hành tiền của
nước Việt Nam bao gồm tiền giấy và tiền kim loại. Hoạt động phát hành tiền của
NHNN bao gồm:

Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
9

Xác đònh số lượng, cơ cấu tiền giấy và tiền kim loại đủ cung ứng cho nhu cầu
của nền kinh tế

Quản lý quỹ dự trữ phát hành theo qui đònh của chính phủ

In, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành và tiêu hủy tiền

Xử lý tiền rách nát, hư hỏng, thu hồi thay thế tiền

Ban hành và kiểm tra, giám sát thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền

Nghiêm cấm các hành vi làm tiền giả, vận chuyển, tàng trữ và lưu hành tiền
giả, hủy hoại tiền, từ chối nhận và lưu hành đồng tiền do NHNN phát hành.

Hoạt động tín dụng – NHNN cho các tổ chưc tín dụng vay dưới hình thức tái cấp vốn
và trong trường hợp đặc biệt khi tổ chức tín dụng có nguy cơ gây mất an toàn cho cả hệ
thống các tổ chức tín dụng. NHNN còn tạm ứng cho ngân sách để bù đắp thiếu hụt tạm
thời quỹ ngân sách nhà nước, số tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách,
trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng quyết đònh.

Mở tài khoản – NHNN được mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, ở các tổ chức tiền

tệ và tín dụng quốc tế. Mặt khác, NHNN mở tài khoản và thực hiện các giao dòch cho
các tổ chức tín dụng trong nước, cho Kho bạc Nhà nước và cho các ngân hàng nước
ngoài, các tổ chức tiền tệ, tín dụng và ngân hàng quốc tế.

Hoạt động thanh toán và ngân quỹ – NHNN tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân
hàng và cung cấp các dòch vụ thanh toán, thực hiện đầy đủ và kòp thời các giao dòch
thanh toán theo yêu cầu của chủ tài khoản, ký kết và thực hiện các thoả thuận về thanh
toán với ngân hàng nước ngoài, với các tổ chức tiền tệ, tín dụng và ngân hàng quốc tế,
làm dòch vụ ngân quỹ thông qua việc thu và phát tiền mặt cho khách hàng.

Quản lý ngoại hối – Trong việc quản lý ngoại hối, NHNN có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:


Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối,
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối

Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối

Tổ chức và điều hành thò trường ngoại tệ liên ngân hàng và thò trường ngoại hối
trong nước

Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy đònh của pháp luật về quản lý ngoại
hối, kiểm soát việc xuất nhập ngoại hối

Kiểm soát hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng

Quản lý dự trữ ngoại hối bao gồm ngoại tệ mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản ở
nước ngoài, các giấy tờ có giá trò ngoại tệ, vàng và các loại ngoại hối khác


Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác về quản lý ngoại hối theo quy đònh của
pháp luật
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
10
Hoạt động ngoại hối – NHNN thực hiện mua bán ngoại hối trên thò trường trong nước
nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, mua bán ngoại hối trên thò
trường quốc tế và thực hiện các giao dòch ngoại hối khác theo quy đònh của chính phủ.

Hoạt động thông tin – NHNN tổ chức thu thập, phân tích và dự báo, công bố thông tin
trong và ngoài nước về kinh tế, tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm phục
vụ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

4.2 Các tổ chức tín dụng (TCTD)

Các loại hình TCTD

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy đònh của luật pháp để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dòch vụ ngân hàng, với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dòch vụ thanh toán. TCTD bao gồm các loại
hình sau:


Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tùy theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển,
ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác.


Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt
động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được
nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dòch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng
phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng khác.

Hoạt động của các TCTD

Nói chung các TCTD có những hoạt động chủ yếu sau đây:


Huy động vốn bao gồm nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu
và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn, vay vốn của các tổ chưc tín dụng
trong và ngoài nước, vay vốn của NHNN.

Hoạt động tín dụng bao gồm cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, cho thuê tài chính, và các hình thức cấp tín dụng khác.

Dòch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm mở tài khoản, thu chi tiền, cung ứng
các phương tiện thanh toán, thực hiện dòch vụ thanh toán cho khách hàng, thực
hiện dòch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện dòch vụ thanh toán quốc tế và các dòch vụ
thanh toán khác.
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
11

Các hoạt động khác bao gồm góp vốn, mua cổ phần, tham gia thò trường tiền tệ,
kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, kinh doanh bất động
sản, kinh doanh dòch vụ bảo hiểm, dòch vụ tư vấn, và các dòch vụ tư vấn khác có

liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Trong các loại hình tổ chức tín dụng vừa kể trên, ngân hàng thương mại là loại hình
hoạt động mạnh nhất và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện
nay. Sau khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín sụng ra đời, số lượng
ngân hàng thương mại tiếp tục giá tăng. Đến năm 1997 số lượng ngân hàng ở Việt
Nam đã lên đến 84, trong đó có 5 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân thương
mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh và 24 chi nhánh ngân hàng thương mại nước
ngoài (bảng 2).

Bảng 2
: Phát triển ngân hàng thương mại giai đoạn 1997 – 2001
1997 1999 2001
Ngân hàng quốc doanh 5 5 5
Ngân hàng cổ phần 51 48 39
Ngân hàng liên doanh 4 4 4
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 24 26 26
Tổng cộng 84 83 74
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Mặc dù giai đoạn này có sự gia tăng mạnh số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam,
đặc biệt là ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nhìn chung quy mô ngân hàng còn
nhỏ bé nên hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh không cao. Đứng trước tình hình đó,
một số ngân hàng thương mại cổ phần đã sáp nhập lại khiến cho số lượng ngân hàng
thương mại giảm chỉ còn 39 ngân hàng vào năm 2001. Từ năm 2001 đến nay, các ngân
hàng thương mại Việt Nam bước vào thời kỳ cũng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và
công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh chuẩn bò tích cực cho thời kỳ hội
nhập và tự do hoá hoạt động ngân hàng theo tinh thần Hiệp Đònh Thương Mại Việt
Mỹ.

×