Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Bàn về khái niệm của nạn nhân của tội phạm " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.29 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 49


ThS. Trần Hữu Tráng *
iệc làm rõ khái niệm nạn nhân của tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng cả trong
lí luận cũng nh trong thực tiễn xây dựng các
biện pháp, chính sách đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm.
1. Danh từ nạn nhân thờng đợc sử dụng
để chỉ những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
Trong Từ điển tiếng Việt, từ nạn nhân đợc
định nghĩa: "Ngời bị nạn hoặc ngời phải
chịu hậu quả của một tại họa x hội hay một
chế độ bất công".
(1)
Trong Đại từ điển tiếng
Việt, từ nạn nhân đợc định nghĩa: "1. Ngời
bị tai nạn; 2. Ngời, tổ chức gánh chịu hậu
quả từ bên ngoài đa đến".
(2)

Theo các định nghĩa trên thì nạn nhân
đợc hiểu là những cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Nạn
nhân bao gồm rất nhiều loại nh nạn nhân của
chiến tranh, nạn nhân của thiên tai, nạn nhân
bị tai nạn lao động, tai nạn giao thông, nạn


nhân tự tử, nạn nhân của tội phạm Trong
các loại nạn nhân kể trên thì nạn nhân của tội
phạm là dạng nạn nhân đặc biệt.
Nh chúng ta đ biết, hành vi phạm tội
luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại
đáng kể cho các quan hệ x hội đợc luật hình
sự bảo vệ. Để gây thiệt hại cho các quan hệ x
hội này, hành vi phạm tội đ tác động gây
thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức. Các cá
nhân, tổ chức này là những nạn nhân của tội
phạm. Nạn nhân của tội phạm đợc định
nghĩa nh sau: Nạn nhân của tội phạm là
những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội
trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích
hợp pháp khác.
(3)

Không phải tội phạm nào cũng gây ra thiệt
hại cho các nạn nhân. Nói cách khác, không
phải tội phạm nào cũng có nạn nhân. Có những
tội phạm luôn luôn có nạn nhân, có những tội
phạm có thể có nạn nhân, có những tội phạm
luôn không có nạn nhân.
2. Theo khái niệm trên, nạn nhân của tội
phạm có một số đặc điểm cơ bản nh sau: Thứ
nhất, nạn nhân của tội phạm là cá nhân, tổ
chức. Khác với chủ thể của tội phạm chỉ có
thể là cá nhân, nạn nhân của tội phạm có thể
là cá nhân, có thể là tổ chức. Các cá nhân, tổ

chức này tồn tại và hoạt động trong x hội
đợc Nhà nớc bảo vệ: "Mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Nhà nớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị
xử lí theo pháp luật".
(4)
Là nạn nhân của tội
phạm, cá nhân, tổ chức phải tồn tại vào thời
điểm hành vi phạm tội xảy ra. Bởi vì, chỉ khi
đó, hành vi phạm tội mới có thể gây thiệt hại
cho cá nhân, tổ chức này.
Cá nhân là nạn nhân của tội phạm có thể
là công dân Việt Nam, ngời nớc ngoài,
ngời không có quốc tịch. Đối với cá nhân,
thời gian có thể bị hành vi phạm tội xâm hại
bắt đầu từ khi cá nhân đó sinh ra còn sống và
kết thúc khi ngời đó chết đi. Trớc thời điểm
V

* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
50 - Tạp chí luật học

sinh ra, ngời đó cha tồn tại về mặt pháp lí,
do đó, hành vi phạm tội cha thể xâm hại đến
ngời đó đợc. Ngợc lại, khi ngời đó chết
đi thì sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình cả về

mặt thực tế lẫn mặt pháp lí (khai tử). Khi đó,
tất cả những hành vi xâm hại đến thi thể, hài
cốt, mồ mả của họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài
cốt (Điều 246 BLHS). Những trờng hợp này
không thể coi thi thể, hài cốt ngời chết là nạn
nhân của tội phạm.
Tổ chức là nạn nhân của tội phạm phải là
những tổ chức đợc thành lập hợp pháp (đợc
Nhà nớc thành lập hoặc cho phép thành lập).
Pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi của những tổ
chức hợp pháp. Những tổ chức bất hợp pháp
sẽ không có địa vị pháp lí, không đợc tồn tại
trong x hội và do đó không thể là nạn nhân
của tội phạm. Những tổ chức hợp pháp là nạn
nhân của tội phạm phải là những tổ chức còn
tồn tại vào thời điểm xảy ra tội phạm. Những
tổ chức thành lập sau thời điểm hành vi phạm
tội xảy ra hoặc các tổ chức đ giải thể trớc
khi hành vi phạm tội xảy ra thì không thể là
nạn nhân của tội phạm.
Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam là
tổ chức đặc biệt, do đó, trong một số trờng
hợp, với t cách là chủ sở hữu một số tài sản,
Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng có
thể trở thành nạn nhân của một số tội xâm
phạm tài sản nh các tội phá hoại cơ sở vật
chất - kĩ thuật của nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam (Điều 85 BLHS), tội tham ô tài sản
(Điều 278 BLHS).

Thứ hai, nạn nhân của tội phạm là cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp
khác. Thiệt hại về thể chất là thiệt hại do các
hành vi phạm tội gây ra cho tính mạng, sức
khỏe của con ngời. Thiệt hại về tinh thần là
các thiệt hại do hành vi tội phạm gây ra xúc
phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự
của con ngời. Thiệt hại về vật chất là thiệt
hại mà tội phạm gây ra cho tài sản của nạn
nhân nh tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại, bị
chiếm dụng , thiệt hại về quyền, lợi ích hợp
pháp khác là thiệt hại xâm hại đến việc thực
hiện các quyền và lợi ích cơ bản của công dân
theo quy định của pháp luật.
3. Khái niệm nạn nhân của tội phạm đợc
phân biệt với một số khái niệm khác trong luật
hình sự và luật tố tụng hình sự. Thứ nhất, khái
niệm nạn nhân của tội phạm đợc phân biệt
với khái niệm đối tợng tác động của tội
phạm. Đối tợng tác động của tội phạm là bộ
phận của khách thể của tội phạm bị hành vi
phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho những quan hệ x hội là
khách thể bảo vệ của luật hình sự. Đối tợng tác
động của tội phạm có thể là con ngời, các đối
tợng vật chất (với ý nghĩa là khách thể của
quan hệ x hội) và hoạt động bình thờng của
chủ thể.
Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây

ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các
quan hệ x hội là khách thể bảo vệ của luật
hình sự, đều có thể gây ra sự biến đổi tình
trạng bình thờng của những đối tợng tác
động nhất định của tội phạm. Sự biến đổi
trạng thái bình thờng của đối tợng tác động
của tội phạm trớc hết là sự biến đổi tình
trạng bình thờng của thực thể tự nhiên của
con ngời. Sự biến đổi này thờng đợc gọi là
thiệt hại về thể chất và tinh thần của con
ngời. Các thiệt hại này bao gồm thiệt hại về
tính mạng (hậu quả chết ngời) nh tội giết


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 51

ngời (Điều 93 BLHS), thiệt hại về sức khỏe
(hậu quả thơng tích hoặc tổn hại cho sức
khỏe con ngời) nh tội cố ý gây thơng tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngời khác
(Điều 104 BLHS); thiệt hại về danh dự, nhân
phẩm của con ngời nh tội hiếp dâm (Điều
111 BLHS), tội làm nhục ngời khác (Điều
121 BLHS); Các thiệt hại này còn bao gồm cả
những thiệt hại gây ra xâm phạm quyền tự do,
dân chủ của công dân nh tội bắt giữ hoặc
giam ngời trái pháp luật (Điều 123 BLHS),
tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124
BLHS) Trong những trờng hợp này, con

ngời vừa là đối tợng tác động tội phạm vừa
chính là nạn nhân bị xâm phạm về thể chất,
tinh thần và các quyền tự do dân chủ. Ví dụ: A
thực hiện hành vi giết B (Điều 93 BLHS).
Trong tội phạm này, B vừa là đối tợng tác
động của hành vi phạm tội của A, vừa là nạn
nhân của tội giết ngời.
Sự biến đổi trạng thái bình thờng của đối
tợng tác động của tội phạm còn thể hiện ở sự
cản trở hoạt động bình thờng của con ngời
nh hành vi chống ngời thi hành công vụ
trong tội chống ngời thi hành công vụ (Điều
257 BLHS) hoặc hành vi ép buộc nhân viên t
pháp làm trái pháp luật trong tội ép buộc nhân
viên t pháp làm trái pháp luật (Điều 297
BLHS); sự làm biến dạng xử sự của ngời
khác nh hành vi đa hối lộ làm biến dạng xử
sự của ngời có chức vụ, quyền hạn làm cho
ngời đó làm hoặc không làm một việc theo
yêu cầu của ngời đa hối lộ (Điều 289
BLHS), hành vi xúi giục hoặc giúp ngời khác
tự sát trong tội xúi giục hoặc giúp ngời khác
tự sát (Điều 101 BLHS); hoặc sự tự làm biến
dạng xử sự của chính chủ thể nh hành vi trốn
tránh nghĩa vụ quân sự trong tội trốn tránh
nghĩa vụ quân sự (Điều 259 BLHS), hành vi
nhận hối lộ trong tội nhận hối lộ (Điều 279
BLHS). Những xử sự đ bị làm biến dạng này
có thể gây ra thiệt hại cho con ngời nh hành
vi tự sát trong các tội bức tử (Điều 100

BLHS), tội xúi giục hoặc giúp ngời khác tự
sát (Điều 101 BLHS) hoặc đó là hành vi phạm
tội, hành vi sống sa đọa trong tội dụ dỗ, ép
buộc ngời cha thành niên phạm pháp (Điều
252 BLHS). Trờng hợp sự biến dạng xử sự
của con ngời gây ra những thiệt hại về thể
chất của ngời đó thì đối tợng tác động của
tội phạm chính là nạn nhân của tội phạm. Ví
dụ: A có hành vi đối xử tàn ác, thờng xuyên
ức hiếp, ngợc đi làm cho B là ngời lệ thuộc
A có hành vi tự sát. Hành vi của A cấu thành
tội bức tử (Điều 100 BLHS), trong tội này, đối
tợng tác động của tội phạm và nạn nhân của
tội này đều là B.
Cũng có thể những xử sự đ bị làm biến
dạng này gây ra thiệt hại vật chất cho chủ sở
hữu nào đó nh hành vi nhận hối lộ để làm
một việc có lợi cho ngời đa hối lộ nhng lại
gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nớc (tội
nhận hối lộ Điều 279 BLHS). Khi đó, đối
tợng tác động của tội phạm là sự biến dạng
xử sự của con ngời, còn nạn nhân của tội
phạm là chủ sở hữu có tài sản bị thiệt hại. Ví
dụ: A là cán bộ tín dụng biết B lập hồ sơ giả
để vay vốn ngân hàng, do B đa hối lộ
cho A nên A vẫn xác nhận hồ sơ cho B.
Hành vi của A cấu thành tội nhận hối lộ
(Điều 279 BLHS). Trong tội phạm này, đối
tợng tác động là xử sự của A xác nhận cho B
đủ điều kiện vay vốn làm thiệt hại tài sản của

Nhà nớc. Nạn nhân của tội phạm sẽ là Nhà
nớc với t cách là chủ sở hữu tài sản XHCN
bị hành vi phạm tội xâm hại.


nghiên cứu - trao đổi
52 - Tạp chí luật học

Sự biến dạng xử sự của con ngời trong một
số trờng hợp lại không gây ra thiệt hại cho cá
nhân, tổ chức cụ thể nào. Trong trờng hợp này,
tội phạm chỉ có đối tợng tác động là sự biến
dạng xử sự của con ngời mà không có nạn
nhân. Ví dụ: Vụ án Phạm Văn Luống nguyên
trạm trởng Trạm hải quan Hng Điền tỉnh
Long An do có quan hệ sinh lí với Lê Thị Mạnh
- chủ hàng lậu nên đ không xử lí 5 chuyến tàu
chở hàng của Mạnh với tổng số hàng lậu là 730
kiện quần áo cũ nặng 70 tấn. Lê Thị Mạnh bị
khởi tố tội buôn lậu, Phạm Văn Luống bị khởi
tố tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ.
(5)
Trong vụ án này, hành vi phạm
tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ của Phạm Văn Luống có đối
tợng tác động là hành vi của Luống không xử
lí số hàng buôn lậu của Mạnh, còn tội phạm này
không có nạn nhân.
Hành vi phạm tội còn gây ra sự biến đổi

tình trạng bình thờng của các đối tợng vật
chất là khách thể của quan hệ x hội. Sự biến
đổi này thờng đợc gọi là những thiệt hại vật
chất. Các thiệt hại này thể hiện dới các dạng
nh tài sản bị chiếm đoạt, tài sản bị hủy hoại,
tài sản bị sử dụng, chiếm giữ trái phép
Trong những trờng hợp này, đối tợng tác
động của tội phạm chính là các đối tợng vật
chất (tài sản) bị biến đổi tình trạng bình
thờng, còn nạn nhân của tội phạm lại là các
chủ sở hữu hoặc chiếm hữu hợp pháp các tài
sản này. Ví dụ: A trộm cắp chiếc xe máy của
B. Trong tội phạm này chiếc xe máy là đối
tợng tác động của tội trộm cắp. B là nạn
nhân của tội trộm cắp (Điều138 BLHS).
Thứ hai, khái niệm nạn nhân của tội phạm
đợc phân biệt với khái niệm hậu quả của tội
phạm. Hậu quả của tội phạm là những thiệt
hại mà hành vi phạm tội gây ra cho các quan
hệ x hội là khách thể bảo vệ của pháp luật.
Bất cứ tội phạm nào cũng đều có thể gây ra
hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nguy hiểm
cho x hội, những thiệt hại cho các quan hệ x
hội thông qua việc làm biến đổi tình trạng
bình thờng của đối tợng tác động của tội
phạm. Nhng không phải tất cả các CTTP đều
có các dấu hiệu phản ánh hậu quả nguy hiểm
cho x hội. Chỉ có các CTTP vật chất mới có
các dấu hiệu phản ánh về hậu quả của tội
phạm. Trong các CTTP hình thức dấu hiệu

hậu quả của tội phạm không đợc mô tả.
Nh vậy, dấu hiệu hậu quả của tội phạm
có thể đợc mô tả hoặc không đợc mô tả
trong CTTP (phụ thuộc vào kĩ thuật lập
pháp). Còn nạn nhân của tội phạm lại phụ
thuộc vào hành vi phạm tội có gây ra thiệt
hại về thể chất, tinh thần cho cá nhân, tổ chức
nào không.
Trong một số trờng hợp hậu quả của tội
phạm chính là các nạn nhân. Đó là các trờng
hợp mà đối tợng tác động của tội phạm chính
là các nạn nhân nh hậu quả chết ngời trong
tội giết ngời (Điều 93 BLHS), hậu quả
thơng tích trong tội cố ý gây thơng tích
(Điều 104 BLHS). Trong một số trờng hợp
khác, hậu quả của tội phạm lại không phải là
các nạn nhân. Đó là các trờng hợp mà đối
tợng tác động của tội phạm không phải là nạn
nhân của tội phạm nh các tội xâm phạm sở hữu
hoặc trong các tội không có nạn nhân.
Trong một số tội phạm, có thể hậu quả tội
phạm cha xảy ra nhng những hành vi phạm
tội này vẫn có nạn nhân. Đó là các trờng hợp
chuẩn bị phạm tội (Điều 17 BLHS) và phạm


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 53

tội cha đạt (Điều 18 BLHS) mà các hành vi

phạm tội này đ gây ra thiệt hại cho cá nhân,
tổ chức nào đó.
Thứ ba, khái niệm nạn nhân của tội phạm
còn đợc phân biệt với khái niệm ngời bị hại,
nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự.
Ngời bị hại là ngời bị thiệt hại về thể chất,
về tinh thần hay tài sản do tội phạm gây ra.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc
tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây
ra và có đơn yêu cầu bồi thờng thiệt hại.
(6)

Nh vậy, về cơ bản khái niệm ngời bị hại
và nguyên đơn dân sự có nội dung tơng tự khái
niệm nạn nhân của tội phạm nhng có một số
điểm khác nhau. Thứ nhất, theo quy định của
luật TTHS thì ngời bị hại luôn luôn là cá nhân,
còn nạn nhân của tội phạm có thể là cá nhân , có
thể là tổ chức. Chỉ các nạn nhân là cá nhân khi
tham gia tố tụng hình sự mới có địa vị pháp lí
của ngời bị hại, còn nạn nhân là tổ chức khi
tham gia tố tụng hình sự có địa vị pháp lí của
nguyên đơn dân sự. Một số cá nhân không phải
là nạn nhân của tội phạm nhng vẫn có thể là
nguyên đơn dân sự nếu các cá nhân này bị
gây thiệt hại không lớn về tài sản do
hành vi phạm tội gây ra. Do thiệt hại
không lớn nên hành vi gây thiệt hại này
cha cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm h
hỏng tài sản (Điều 143 BLHS 1999). Ví dụ: A

gây thơng tích cho B ở trong quán ăn của C đ
làm đổ vỡ một số cốc, chén, bát Trờng hợp
này nếu thiệt hại A gây ra cho C không lớn,
cha cấu thành tội hủy hoại tài sản (Điều
143 BLHS 1999) thì trong tội này, chỉ có B là
nạn nhân của tội cố ý gây thơng tích (Điều 104
BLHS 1999) còn C sẽ là nguyên đơn dân sự.
Nạn nhân của tội phạm là cá nhân, tổ chức
chỉ trở thành ngời bị hại, nguyên đơn dân sự
nếu những cá nhân, tổ chức là nạn nhân của
tội phạm này tham gia vào quá trình tố tụng.
Chỉ khi đó, họ mới có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lí đợc quy định trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam tại các Điều 39, 40
BLTTHS. Nếu các nạn nhân của tội phạm
không tham gia quá trình tố tụng thì họ không
phải là ngời bị hại hoặc nguyên đơn dân sự.
Họ chỉ là nạn nhân của tội phạm./.

(1).Xem: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học x hội,
H.1994, tr. 635.
(2).Xem: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông
tin, H. 1998, tr. 1165.
(3). Cũng có quan điểm cho rằng: Nạn nhân của tội
phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội
xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp về thể chất, tinh thần,
tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Ví dụ:
hành vi A giết B thì B là nạn nhân trực tiếp của hành vi
phạm tội của A còn những ngời thân của B nh cha,
mẹ, vợ, chồng, con, cháu của B là các nạn nhân gián

tiếp vì họ cũng bị thiệt hại về tinh thần. Nếu hành vi
giết ngời của A có tính chất man rợ, gây hoang mang
trong d luận x hội thì những ngời bị hoang mang, lo
sợ về hành vi phạm tội của A gây ra đều là nạn nhân
gián tiếp của hành vi phạm tội của A. Quan điểm của
chúng tôi cho rằng chỉ những cá nhân tổ chức bị hành
vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài
sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác mới là nạn
nhân của tội phạm bởi vì hành vi phạm tội ở các tội với
lỗi cố ý là nhằm gây thiệt hại cho chính các cá nhân tổ
chức bị hành vi phạm tội xâm hại. Hơn nữa, việc xác
định những cá nhân, tổ chức bị ảnh hởng của hành vi
phạm tội gây ra trên thực tế là rất khó xác định.
(4).Xem: Hiến pháp nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam
năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995. Điều 12.
(5).Xem: Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, số 43,
ngày 30/3/1999, tr. 6.
(6).Xem: Điều 39, Điều 40 Bộ luật tố tụng hình sự của
nớc Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, H. 2000.


nghiªn cøu - trao ®æi
54 - T¹p chÝ luËt häc



×