TRI THỨC BẢN ĐỊA VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI,
TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở VƢỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN
TS. Đinh Thanh Sang
Khoa Khoa học Quản lý, Đại học Thủ Dầu Một
TĨM TẮT
Tri thức bản địa đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống đồng bào Châu Mạ
ở Vƣờn quốc gia Cát Tiên. Qua nhiều thế hệ sống phụ thuộc vào rừng, ngƣời dân ở
đây đã tích lũy cho mình một kho tàng tri thức phong phú. Trong đó, nổi bật hơn cả là
tri thức trong quản lý cộng đồng bản địa, sử dụng lâm sản ngồi gỗ, các nghề thủ cơng
mỹ nghệ, canh tác lúa nƣớc và sử dụng đất đồi. Tuy nhiên, trong quy hoạch sử dụng
đất tại địa phƣơng chƣa chú trọng đến việc vận dụng, duy trì và phát triển bền vững hệ
thống tri thức bản địa. Địa phƣơng cần vận dụng triệt để nguồn tri thức vô giá này
trong quy hoạch, sử dụng đất nhằm góp phần phát triển bền vững và bảo tồn đa dạng
sinh học. Đặc biệt, cần sớm xây dựng những làng nghề truyền thống, thiết lập các
―cánh đồng mẫu lớn‖ canh tác những cây trồng có giá trị kinh tế gắn liền với giá trị
văn hóa đồng bào Châu Mạ.
Từ khóa: đồng bào Châu Mạ, quy hoạch sử dụng đất, tri thức bản địa, Vuờn quốc
gia Cát Tiên.
1. MỞ ĐẦU
Với diện tích 70.548 ha nằm trên địa bàn Đồng Nai, Bình Phƣớc và Lâm Đồng,
Vƣờn quốc gia Cát Tiên bảo vệ một trong những diện tích rừng mƣa nhiệt đới lớn nhất
còn lại ở Việt Nam. Đây là vùng đất bảo tồn đƣợc nguồn gen nhiều lồi động thực vật
q hiếm, đồng thời lƣu giữ nhiều tập quán quý báu và giàu tính nhân văn của 11 dân
tộc anh em chung sống. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, cƣ dân nơi đây đã tích luỹ
đƣợc nhiều kinh nghiệm và tri thức quý báu giúp họ tồn tại và thích nghi với mơi
trƣờng.
Theo Lê Trọng Cúc (2002), ―Tri thức địa phƣơng hay còn gọi là tri thức bản địa là
hệ thống tri thức của các cộng đồng dân cƣ bản địa ở các quy mô lãnh thổ khác nhau.
Tri thức địa phƣơng đƣợc hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, qua kinh nghiệm
ứng xử với mơi trƣờng xã hội, đƣợc định hình dƣới nhiều dạng thức khác nhau, đƣợc
truyền từ đời nay sang đời khác qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã
hội. Nó hƣớng đến việc hƣớng dẫn và điều hòa các quan hệ xã hội, quan hệ giữa con
ngƣời và thiên nhiên‖ [3]. Qua rất nhiều thế hệ sống dựa vào rừng, cộng đồng dân tộc
thiểu số bản địa ở Vƣờn quốc gia Cát Tiên đã tạo cho mình tập quán săn bắt, hái lƣợm,
canh tác và các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Tuy vậy, nhiều nơi chƣa đánh
giá đúng mức và chƣa vận dụng tri thức bản địa vào công tác quản trị địa phƣơng, đặc
biệt trong công tác quy hoạch và sử dụng đất.
699
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu theo phƣơng pháp định tính trong nghiên cứu xã hội học và tiếp cận
nghiên cứu từ dƣới lên. Áp dụng phƣơng pháp đánh giá nơng thơn có sự tham gia. Các
cơng cụ chính sử dụng cho nghiên cứu là phỏng vấn nhóm và cá nhân.
Phƣơng pháp chọn mẫu có định hƣớng, mẫu đại diện cho cộng đồng nguời Châu
Mạ sống ở vùng đệm, vùng lõi và vùng chuyển tiếp của Vƣờn quốc gia Cát Tiên. Chọn
109 nông hộ thuộc 5 cộng đồng nguời Châu Mạ ở 5 thôn thuộc Vƣờn quốc gia Cát
Tiên ở Bình Phuớc, Đồng Nai và Lâm Ðồng. Đối tƣợng phỏng vấn là ngƣời lớn tuổi
của mỗi gia đình do già làng và trƣởng thôn giới thiệu.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.
Tri thức bản địa trong quản lý cộng đồng với quy hoạch, sử dụng đất lâm
nghiệp
Trong cộng đồng Châu Mạ, già làng là nguời uy tín nhất, đóng vai trị giữ đoàn kết,
thống nhất trong bản. Họ là nguời kiểm sốt các quy ƣớc nhất định, trong đó có quy
uớc về bảo vệ rừng, sử dụng rừng đƣợc thông qua dân bản và bổ sung; việc chấp hành
quy ƣớc là sự tự nguyện trên cơ sở truyền thống cộng đồng. Tiếng nói của già làng có
vai trị rất quan trọng trong việc vận động đồng bào thực hiện tốt các chính sách của
nhà nuớc, trong đó có chính sách bảo tồn đa dạng sinh học. Minh chứng cho điều này
là nhờ vào uy tín của già làng, bản K‘Ít trong mẫu nghiên cứu đã đồng thuận di dời nơi
ở ra khỏi vùng lõi của Vuờn quốc gia Cát Tiên vào năm 2008. Thực hiện theo dự án
quy hoạch này, bà con phải từ bỏ nguồn thu nhập lớn hằng năm từ vuờn điều trong
vùng lõi. Vì vậy, địa phuơng và ban quản lý vuờn cần chú ý điểm mạnh này của cộng
đồng Châu Mạ mà nhân rộng, vận dụng linh hoat trong quy hoạch, triển khai chính
sách đất đai và bảo tồn đa dạng sinh học.
3.2.
Tri thức bản địa trong hoạt động hái lƣợm với quy hoạch, sử dụng đất
lâm nghiệp
Hoạt động hái lƣợm luôn gắn liền với đời sống hàng ngày của đồng bào Châu Mạ
từ xƣa đến nay nhƣ: kiếm củi, lấy măng, rau rừng, đọt mây, khai thác ƣơi, tre nứa,
song mây. Đồng bào Châu Mạ đã đúc kết tri thức phong phú về đặc điểm, phân bố,
công dụng và cách thức chế biến các lâm sản ngoài gỗ [2].
Tất cả các hộ đuợc phỏng vấn đều vào rừng lấy củi về sử dụng hàng ngày. Có hai
hình thức khai thác là chặt hạ cây rừng và thu luợm cành, nhánh khô. Địa điểm khai
thác, thu luợm là nƣơng rẫy và ngay cả vùng lõi của vƣờn quốc gia. Do vậy, cần
nghiêm cấm nghiêm ngặt việc chặt hạ cây đang sống để làm củi, khuyến khích ngƣời
dân áp dụng mơ hình nơng lâm kết hợp và tận dụng nguồn cành khô cây lâm nghiệp
làm chất đốt.
700
Rau rừng, măng và đọt mây thuờng xuyên xuất hiện trong bữa cơm hàng ngày của
đồng bào Châu Mạ. Qua nhiều thế hệ, họ đã đúc kết và truyền cho nhau khoảng 100
lồi thực vật rừng có thể ăn đƣợc, thuờng thì sử dụng lá, trái và ngay cả thân để làm
thực phẩm [1]. Đọt mây, lá nhíp trở thành món ăn khơng thể thiếu đuợc của đồng bào
Châu Mạ [1]. Hiện nay, măng trở thành hàng hoá quan trọng đem lại thu nhập cao cho
nguời dân địa phuơng. Nếu tình trạng khai thác các lồi thực vật ăn đuợc trên tiếp diễn
nhƣ vậy sẽ cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng. Vì vậy, mỗi ngƣời khai thác phải tự giác
trồng thêm mây vào mùa mƣa, trồng rau ở vƣờn hộ tạo nguồn thực phẩm cũng nhƣ
tăng thu nhập cho gia đình.
Hạt ƣơi là một lâm sản ngồi gỗ mang lại thu nhập quan trọng cho đồng bào Châu
Mạ. Theo kinh nghiệm, đồng bào thu hái ƣơi trong khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 và
định kì 3-4 năm khai thác một lần [2]. Trƣớc đây, khai thác ƣơi chủ yếu bằng cách hái
trái, nhƣng nay do áp lực tăng dân số ngƣời ta chặt cây để thu hoạch. Thực trạng này
sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến công tác bảo tồn loài cây này. Phải cấm chặt hạ cây và cành
mỗi khi khai thác, đồng thời ngƣời khai thác phải có trách nhiệm trồng mới vài cây
trong một mùa khai thác.
Tre nứa là vật liệu rất quan trọng trong đời sống đồng bào Châu Mạ. Trên 90% hộ
dân đuợc nghiên cứu tham gia khai thác và họat động này diễn ra quanh năm. Nhà sàn
của đồng bào Châu Mạ chủ yếu làm từ lồ ơ và mum nhờ vào tính bền, dẻo của chúng.
Hơn thế nữa, hai loài trên và nhiều loài khác đƣợc dùng nhiều để xây dựng chuồng
trại, hàng rào, đồ gia dụng, công cụ sản xuất, chất đốt, khung dệt thổ cẩm, cần câu cá,
cần uống rƣợu cần, ống điếu, ống sáo, ống tiêu, khèn bầu, đặc biệt là cơm lam. Cơm
lam là nét truyền thống đặc sắc của đồng bào nơi đây, thuờng hiện diện xuất hiện trong
các dịp lễ hội. Với tình trạng khai thác quá mức nhƣ hiện nay sẽ làm cạn kiệt rừng tre
và ảnh hƣởng đến bảo tồn sinh cảnh và đa dạng sinh học.
Song mây quen thuộc đến mức đồng bào Châu Mạ có thể nhận biết các lồi mây
khác nhau, đặc điểm phân bố, độ thành thục và công dụng của từng lồi. Theo kinh
nghiệm của họ thì những nơi cao ráo, rừng có độ che phủ cao là nơi thích hợp cho các
loài mây, nhƣng chiếm ƣu thế là song bột, song xanh, mây đỏ và mây tu [2]. Họ nhận
ra những loại mây có đọt ăn đƣợc nhƣ mây đọt đắng, song bột, mây cát, mây rả. Hơn
thế nữa, họ nhận ra tuổi thành thục của mây để khai thác là nhìn cây mây chỉ cịn lá ở
đọt, thân rụng lá và có màu đỏ nâu, vàng, trắng hoặc xanh. Các loại thƣờng đƣợc làm
gùi là song bột, mây chỉ, mây tu, mây cát, mây đọt đắng, mây ruột gà, mây rả. Ngày
nay, đồng bào ở đây khai thác các loại mây này để bán cho các doanh nghiệp chế biến
hàng thủ công mỹ nghệ. Do vậy, nguồn mây tại Vƣờn quốc gia Cát Tiên ngày càng cạn
kiệt.
Nghiên cứu cho thấy, đồng bào Châu Mạ sống dựa vào rừng và khơng thể thiếu
rừng. 98% những lâm sản ngồi gỗ gần gũi với đời sống đồng bào Châu Mạ ở trên chủ
yếu đuợc khai thác từ rừng tự nhiên, ảnh huởng rất lớn đến công tác bảo tồn. Đáp ứng
nhu cầu này, nhà nuớc đã có các chính sách thích hợp để nâng cao đời sống kinh tế 701
xã hội - văn hóa của nguời dân thơng qua Nghị định 01 bằng cách khoán đất rừng và
rừng cho hộ gia đình, Nghị định 02 có nội dung là giao đất rừng và rừng. Các địa
phuơng trong nghiên cứu này đã thực hiện chính sách giao, khốn nhƣng lại chƣa chú
trọng và vận dụng tri thức bản địa vào cơng tác quản trị. Chỉ đơn thuần là giao, khốn,
nhƣng không quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ đất rừng và rừng.
Mặt khác, còn nhiều bất cập làm giảm hiệu quả việc vận dụng chính sách nhƣ rừng
đuợc giao bị chặt phá, xa nơi ở, mức khoán bảo vệ thấp. Các địa phuơng cần sớm đƣa
ra các quy hoạch và công tác khuyến lâm nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hình
thành những vùng cây lâm nghiệp có giá trị kinh tế gắn với đời sống văn hóa truyền
thống của nguời Châu Mạ. Địa phuơng cần gấp rút thuần hóa, quy hoạch, định huớng
trồng các lồi cây lá nhíp, mây đọt đắng, uơi, tre lồ ô, mum trên đất đuợc giao cho hộ
gia đình hay đất quy hoạch vùng trồng cây đặc sản tạo thế mạnh cho vùng.
3.3.
Tri thức bản địa trong canh tác nƣơng rẫy với quy hoạch, sử dụng đất lâm
nghiệp
Với truyền thống du canh du cƣ, nguồn lƣơng thực chủ yếu truớc đây của đồng bào
Châu Mạ nhờ vào rừng và canh tác nuơng rẫy. Kinh nghiệm chọn đất rẫy của đồng bào
là khu vực rừng già có nhiều cây tạp, ƣu tiên gần nguồn nuớc, tránh nơi có cây họ dầu
và tre nứa vì đất ở đó xấu [2]. Họ có kinh nghiệm trong canh tác xen canh và luân
canh. Nhờ chƣơng trình tái định canh định cƣ năm 1982, tình trạng du canh cƣ giảm
hẳn và hiện nay khơng cịn nữa. Tuy nhiên, tồn bộ diện tích canh tác (96% là đất đồi
trồng cây điều) và cƣ trú của thôn 4 Phuớc Cát, Lâm Đồng nằm trọn giữa vùng lõi
Vuờn quốc gia Cát Tiên. Địa phuơng và ban quản lý vuờn quốc gia cần sớm tiến hành
việc di dời thôn này ra khỏi vùng lõi, tái định cƣ họ tại vùng lân cận có sinh cảnh là
rừng và canh tác nuơng rẫy. Quy hoạch vùng chuyên canh cây điều, có thể xen canh
cây nông nghiệp ngắn ngày. Đồng thời cần có sự hỗ trợ về kỹ thuật, giống có năng suất
cao thông qua các trạm khuyến nông, đào tạo nghề phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả
canh tác, bảo tồn đa dạng sinh học.
3.4.
Tập quán canh tác lúa nƣớc với quy hoạch, sử dụng đất
Địa bàn cƣ trú đồng bào Châu Mạ Vƣờn quốc gia Cát Tiên dọc theo lƣu vực sơng
Đồng Nai, họ có tập qn lâu đời trong canh tác lúa nƣớc. Mỗi nơng hộ có một hoặc
vài mảnh ruộng với diện tích khoảng. Diện tích thừa kế cho đời sau nhỏ hơn do phải
phân chia cho các con. Đầu vụ, nƣớc đƣợc dẫn vào ruộng để làm mềm đất, sau đó cuốc
và san bằng mặt ruộng, làm phẳng đất bằng tấm ván dài khoảng 2m có hai ngƣời kéo
và một ngƣời đi sau điều khiển tấm ván lên cao hay xuống thấp theo mặt ruộng [2],
hiện nay thì chỉ một ngƣời dùng trâu hoặc bị để làm công việc này. Tiếp theo tiến
hành tháo nuớc và phơi đất khoảng hai tuần. Sau đó tiến hành gieo lúa theo phƣơng
thức: một ngƣời đi trƣớc cầm hai cọc nhọn có bịt sắt thọt lỗ, hai ngƣời đi sau gieo lúa
[2].
702
Thực tế sản xuất nông nghiệp của bà con Châu Mạ nhỏ lẻ, manh mún, kỹ thuật
canh tác thấp, thiếu cơ giới hóa, thiếu vốn. Địa phuơng cần mạnh dạn có cơ chế
khuyến khích bà con liên kết, hợp tác, góp vốn, tích tụ ruộng đất để tăng hiệu quả sản
xuất. Đặc biệt, địa phuơng cần có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho nhƣng hộ áp dụng mơ
hình này. Địa phuơng cần sớm nhân rộng mơ hình đã có ở Lâm Đồng, triển khai thực
hiện nhiều chính sách, hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân phát
triển sản xuất theo hƣớng canh tác tập trung, cụ thể là thu hút doanh nghiệp đầu tƣ cho
sản xuất nơng nghiệp, triển khai thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại, khuyến khích phát triển các hình thức liên kết trong sản xuất [4]. Truớc tiên,
trạm khuyến nông ở các địa phƣơng nên tổ chức hội thảo, hƣớng dẫn đồng bào cải tiến
kỹ thuật sản xuất, đầu tƣ vật tƣ hiệu quả; giới thiệu hay hỗ trợ bà con giống lúa mới có
năng suất và chất luợng cao; cải tạo, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi.
3.5.
Tri thức bản địa trong săn bắt và quy hoạch chăn nuôi, bảo tồn đa dạng
sinh học
Đồng bào Châu Mạ có kiến thức rất phong phú trong họat động săn bắn. Truớc đây
họ dung chủ yếu dùng cung tên để săn bắn. Ngày nay họ dùng bẫy để bắt thú, với các
loại bẫy nhƣ bẫy tròng chân, bẫy thòng lọng cổ, bẫy kẹp. Họ hiểu rõ tập tính của từng
lồi động vật nhƣ nơi uống nƣớc, nơi kiếm ăn, nơi ngủ và mùa sinh sản của chúng [2].
Nhƣng do số lƣợng thú ngày càng cạn kiệt và sự bảo vệ nghiêm ngặt của kiểm lâm
cũng nhƣ chính quyền địa phƣơng nên việc săn bắt động vật rừng diễn ra ít hơn truớc.
Thay vì đi săn thú thì đa số ngƣời dân đi bắt và tát cá ở các khe, suối, đồng ruộng gần
nơi họ sinh sống, trong rừng tự nhiên để cho gia đình sử dụng hàng ngày, đồng thời
phơi khô để ăn dần [2].
Để giảm bớt họat động săn bắt, ngồi cơng tác bảo tồn, chúng ta cần quy hoạch,
xây dựng các trang trại nhằm thuần hóa, phát triển chăn ni một số lồi phổ biến nhƣ
heo rừng, nhím. Khuyến khích nơng hộ ni trồng một số lồi cá nuớc ngọt nhƣ cá lóc,
cá trê nhằm nâng cao thu nhập và cải thiện bữa ăn gia đình, đồng thời đảm bảo đƣợc
mục tiêu bảo tồn động vật hoang dã. Hơn nữa, Vƣờn quốc gia Cát Tiên cần có cơ chế
ƣu tiên tuyển dụng những đồng bào có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về sinh vật hoang
dã vào làm ở trung tâm cứu hộ động vật, trung tâm du lịch sinh thái. Ngồi ra, đồng
bào Châu Mạ có truyền thống ni trâu bị thả rừng, đây là hình thức khơng đuợc
khuyến khích vì sẽ lây bệnh cho thú hoang và phá vỡ hệ gen trong khu bảo tồn.
3.6.
Tri thức bản địa về nghề thủ công mỹ nghệ với quy hoạch vùng nguyên
liệu
Dệt thổ cẩm, đan lát là nghề truyền thống của ngƣời Châu Mạ. Truớc kia, nguyên
liệu dệt thổ cẩm lấy từ bơng vải do họ trồng, cịn chất nhuộm thì lấy từ thân, lá, vỏ của
các loại cây rừng. Những sản phẩm họ làm ra nhƣ gùi, áo, váy, khăn, mền chủ yếu cho
gia đình sử dụng và làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng. Ngày nay, trang phục
của họ cũng giống nhƣ ngƣời Kinh, chỉ màu phục vụ cho dệt thổ cẩm phải mua từ Đà
703
Lạt do đó nghề dệt thổ cẩm bị mai một [2]. Các sản phẩm đan lát nhƣ gùi, giát giuờng,
rổ, rá, lồng gà đuợc làm từ mây, tre, nứa lấy từ rừng tự nhiên. Nghề dệt thổ cẩm, đan
lát của đồng bào Châu Mạ hiện nay chỉ mang tính nhỏ lẻ, khơng có tính chun mơn
hóa.
Địa phuơng cần sớm quy hoạch làng nghề dệt thổ cẩm, đan lát cùng với quy hoạch,
xây dựng rừng trồng nguyên liệu nhằm chủ động đuợc đầu vào, giảm sức ép lên rừng
tự nhiên. Kết hợp với phát triển du lịch sinh thái ở Vƣờn quốc gia Cát Tiên, các sản
phẩm dệt thổ cẩm, đan lát sẽ có tiềm năng tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa. Để làm
đuợc điều này, cần có một đề án quy hoạch tích hợp, liên ngành. Thúc đẩy việc xây
dựng làng nghề truyền thống và xây dựng thuơng hiệu dệt thổ cẩm, đan lát Châu Mạ sẽ
tận dụng lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập cho nguời dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc. Điều này mang lại một hiệu quả rất lớn trong việc giảm nạn phá rừng.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Cộng đồng Châu Mạ sống ở vƣờn Quốc Gia Cát Tiên qua nhiều thế hệ đã tạo cho
mình truyền thống quản lý cộng đồng bản địa, tập quán canh tác, săn bắt, hái lƣợm và
nghề thủ công mỹ nghệ. Tuy vậy, qua thời gian, thay đổi không gian và xu huớng phát
triển của kinh tế - xã hội, nhiều nội dung tri thức đã và đang bị xói mịn, mai một. Một
số nội dung khơng còn phù hợp với yêu cầu mới của quy hoạch phát triển quỹ đất cũng
nhƣ chính sách bảo tồn đa dạng sinh học.
Địa phuơng và ban quản lý Vƣờn quốc gia Cát Tiên cần có nhiều nghiên cứu, cải
tiến, vận dụng linh họat và tận dụng triệt để các điểm mạnh của tri thức bản địa đồng
bào Châu Mạ nhằm đem lại hiệu quả trong công tác báo tồn đa dạng sinh học bền vững
của hệ sinh thái và nâng cao chất luợng đời sống nguời dân. Điều đó địi hỏi sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa mặt tích cực của kiến thức bản địa với các tiến bộ trong khoa học
kỹ thuật. Đặc biệt, khuyến khích sự tham gia của những cá nhân trong cộng đồng có
nhiều kinh nghiệm, uy tín vào trong cơng tác quy hoạch, sử dụng đất ở địa phuơng.
Huớng tới việc sớm xây dựng những làng nghề truyền thống, thiết lập các ―cánh đồng
mẫu lớn‖ trồng những loài cây bản địa mang đậm nét giá trị văn hóa đồng bào Châu
Mạ và có giá trị kinh tế cao, phát huy thế mạnh địa phuơng và tham gia vào chuỗi giá
trị hàng hóa cho vùng Đơng Nam Bộ.
Cần nghiên cứu sâu hơn kiến thức bản địa của đồng bào Châu Mạ trong việc sử
dụng tài nguyên rừng và đời sống sản xuất. Cần phải dựa vào những giá trị truyền
thống và phát huy thế mạnh, đồng thời điều chỉnh những bất hợp lý. Điều đó có ý
nghĩa rất lớn trong việc bảo tồn đƣợc bản sắc văn hoá ngƣời Châu Mạ, bảo tồn đa dạng
sinh học và nâng cao đƣợc đời sống kinh tế của cộng đồng. Thấy đƣợc tầm quan trọng
của tri thức bản địa nhƣ vậy, khi quy hoạch, thực hiện chính sách về đất đai ở địa
phuơng nói chung, Vƣờn quốc gia Cát Tiên nói riêng chúng ta cần chú trọng đến
nguồn lực xã hội này.
704
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dinh Thanh Sang, Kazuo Ogata, Nobuya Mizoue (2012), Use of edible forest
plants among indigenous ethnic minorities in Cat Tien Biosphere Reserve, Vietnam,
Tạp chí khoa học Asian Journal of Biodiversity số 3.
[2] Đinh Thanh Sang, Đinh Quang Diệp (2007), Kiến thức bản địa về sử dụng tài
nguyên rừng của đồng bảo Châu Mạ Vƣờn quốc gia Cát Tiên, Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Nơng Lâm Nghiệp, Đại học Nơng lâm thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Lê Trọng Cúc (2002), Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội.
[4] Phạm Việt Dũng (2017), Tích tụ, tập trung ruộng đất - từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng,
Tạp chí Cộng sản.
705