Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài giảng kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.69 KB, 18 trang )

BÀI GIẢNG
KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
(Dành cho SV chuyên ngành Tài chính-ngân hàng)
Số ĐVHT: 04 (3.1)
Phần 1: Lý thuyết kiểm toán
1.1 Khái niệm kiểm toán
- Ở nước ta, thuật ngữ kiểm toán (KT) mới xuất hiện và sử dụng từ hơn một chục
năm cuối thế kỷ 20.
- Nhưng rất có cơ sở để phóng đoán rằng từ Kiểm toán đã xuất hiện rất sớm cùng
với nền văn minh Ai Cập La Mã cổ đại.
(Kiểm toán có gốc từ la tinh “Audit”), nguyên bản “Auditing” gắn với văn minh Ai
Cập, La Mã cổ đại. “Audit” có nguồn gốc từ là “Audrie” nghĩa là “nghe” gợi lên một hình
ảnh cổ điển về kiểm toán là: Các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng cách
người soạn thảo đọc to lên cho một bên độc lập nghe và chấp nhận.
* Ngày nay có rất nhiều định nghĩa về kiểm toán.
- Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (International Federation of
Accountants - IFAC) thì “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình
bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.
- Tiến sỹ RobertN. Anthor, Giáo sư trường đại học Harvatr cho rằng:
“Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các kế toán viên
công cộng, được thừa nhận bởi các tổ chức bên ngoài tổ chức kiểm tra”.
Điều này cũng phù hợp với định nghĩa được ghi ytong lời mở đầu giải thích về
chuẩn mực kế toán của Vương quốc Anh: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập, và là sự bày
tỏ ý kiến về những bản khia tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ
nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên
quan”.
Ở Pháp: “Kiểm toán là việc nghiên cứu kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định
rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình thực tế, không che giấu sự gian lận
và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
Ở nước ta: Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân Ban hành theo


nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của CHính phủ đã ghi rõ: “Kiểm toán độc lập là việc
kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc
lập về tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kê stoán và báo cáo quyết toán của các
1
doanh nghiệp, các cơ quan, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là đơn vị kế toán)
khi có yêu cầu của các đơn vị này”.
Các định nghĩa trên tuy khác nhau về từ ngữ, với ý nghĩa cụ thể xác định, song
chung quy đều bao hàm khái niệm kiểm toán đều bao hàm 7 yếu tố sau:
- Mục đích của kiểm toán: Xác nhận mức độ tin cậy của thông tin trình bày trong
báo cáo tài chính và các hồ sơ về tài chính kế toán.
- Chủ thể kiểm toán: Là những người kiểm toán viên (KTV) độc lập, có nghiệp vụ,
có thẩm quyền.
Độc lập: Độc lập về quan hệ tình cảm, kinh tế với lãnh đạo đơn vị được kiểm toán,
khi tham gia vào hoạt động kiểm toán, KTV có thái độ độc lập hay tính độc lập về nghiệp
vụ. Kiểm toán viên phải là người vô tư, khách quan trong công việc Kiểm toán (Tuy
nhiên độc lập của Kiểm toán viên không phải là một khái niệm tuyệt đối nhưng nó là mục
tiêu hướng tới và phải đạt được một mức độ nhất định nào đó).
- Khách thể của kiểm toán:
Là đơn vị được kiểm toán, có thể là một tổ chức kinh tế hay một đơn vị hành chính
sự nghiệp… có tư cách pháp nhân (1 DNNN, 1 công ty cổ phần, 1 công ty TNHH… hoặc
1 bộ phận, 1 đơn vị thành viên của DN → không đủ tư cách pháp nhân, hay một cá nhân,
hộ kinh doanh).
- Đối tượng trực tiếp của kiểm toán:
Là các báo cáo tài chính (hay tài khoản niên độ) của tổ chức, thực thể kinh tế.
Thường các báo cáo này là Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh,
thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Sẽ được nhắc đến trong các
chương sau).
- Chức năng của Kiểm toán:
Là xác minh, bày tỏ ý kiến. Đây là yếu tố cơ bản chi phối cả quá trình kiểm toán và
bộ máy Kiểm toán.

- Để xác minh, các KTV phải thu nhập và đánh giá các bằng chứng.
- Người Kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán để thu
thập bằng chứng và xét đoán bằng chứng. Xác định mức độ tương quan phù hợp giữa các
thông tin có để định lượng của đơn vị được kiểm toán với các chuẩn mực đã được xây
dựng, thiết lập, sö dông (các thông tin có thể định lượng và có dưới nhiều hình thức khác.
Những thông tin này có thể là thông tin tài chính và không tài chính, chẳng hạn thông tin
trong báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, một đơn vị, thông tin về lượng thời gian
một công nhân hao phí để hoàn thành một nhiệm vụ được giao, thông tin về giá cả vật tư,
về giá quyết toán một công trình xây dựng cơ bản…, về bản kê khai thuế của một đơn vị).
2
- Cơ sở thực hiện kiểm toán.
Là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực. Các chuẩn mực cũng rất đa dạng và
phong phú tuỳ thuộc từng loại kiểm toán và mục đích kiểm toán.
Thông thường các chuẩn mực này được quy định trong các văn bản pháp quy về các
lĩnh vực khác, có thể là một văn bản quy định của một ngành, một số ngành, một địa
phương.
Ví dụ:
- Thông tin quy định giá đền bù đất đai ở một địa phương.
- Quy định tính doanh thu, chi phí trong Nghị định của Chính phủ, các Thông tư của
Bộ Tài chính, chuẩn mực kế toán…
- Định mức trong đầu tư XDCB (do Bộ xây dựng, ban hành) đơn giá rtong XDCB
(UBND tỉnh ban hành).
- Khung giá, giá tính thuế, mức thuế, thuế suất (do Bộ Tài chính ban hành để tính
thuế).
- Báo cáo kết quả:
Giai đoạn cuối cùng của kiểm toán là báo cáo kết quả kiểm toán.
Tuỳ thuộc vào từng loại hình kiểm toán mà báo cáo có thể khác nhau về bản chất, về
nội dung. Nhưng trong mọi trường hợp báo cáo phải thông tin được cho người nghe mức
độ tương phản phù hợp giữa các thông tin đã được kiểm toán và các chuẩn mực chung đã
được xây dựng.

Với các nội dung trên, các định nghĩa đã nêu khá đây đủ các mặt đặc trưng cơ bản
của Kiểm toán. Tuy nhiên các quan điểm này chủ yếu phù với Kiểm toán tài chính với đối
tượng là báo cáo tài chính do các kiểm toán viên độc lập (được bổ nhiệm) tiến hành trên
cơ sở các chuẩn mực chung.
* Quan điểm khác.
Ngoài các quan điểm trên còn có quan điểm thứ hai, kiểm toán được đồng nghĩa với
Kiểm toán kế toán (Kiểm toán = Kiểm tra kế toán). Nội dung của hoạt động này là rà soát
các thông tin từ chứng từ kế toán đến tổng hợp cân đối kế toán.
- Đây là quan điểm truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa phát triển và trong
cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
- Trong cơ chế kế hoạch tập tập trung, Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa thực hiện
lãnh đạo nền kinh tế do đó chức năng kiểm tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với
mọi thực tế kinh tế - xã hội, thông qua nhiều khâu kể cả việc xét duyệt hoàn thành kế
hoạch, xét duyệt quyết toán, kiểm tra tài chính thường xuyên, thanh tra vụ việc…
3
- Nhưng khi chuyển đổi cơ chế với chủ trương đa phương hoá trong đầu tư đa dạng
hoá các thành phần kinh tế, Nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất. Việc can thiệp
của Nhà nước bằng kế hoạch, bằng kiểm tra trực tiếp không thể thực hiện thường xuyên
với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước… và sự can thiệp của Nhà nước không thể như
cũ.
- Nhiều nhà đầu tư, khách hàng, thậm chí người lao động trong doanh nghiệp cũng
muốn có thông tin kế toán nhưng họ không có đội ngũ kế toán trong tay… Vì vậy cần có
một tổ chức đứng ra độc lập thực hiện công tác kiểm toán kế toán một cách khách quan,
trung thực đủ sức thuyết phục và tạo niềm tin cho tất cả mọi người quan tâm đến tình hình
tài chính và số liệu kế toán của đơn vị.
* Ngoài ra cũng thấy rằng: Trong quá trình phát triển, kiểm toán không chỉ giới hạn
ở kiểm toán báo cáo tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực
khác nhau như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng của quản lý xã hội, hiệu lực của
hệ thống pháp lý trong từng hoạt động … vì vậy theo quan điểm hiện địa phạm vi của Kiểm
toán rất rộng gồm rất nhiều lĩnh vực sau:

- Kiểm toán về thông tin: Hướng vào việc đánh giá tính trung thực, hợp pháp của các
tài liệu (thông tin), làm cơ sở cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm
tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.
- Kiểm toán tính quy tắc: Hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các chế độ,
thể lệ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt động (trước hết với hoạt động tài
chính).
- Kiểm toán tính hiệu quả: Có đối tượng trực tiếp là các yếu tố các nguồn lực trong
từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán, sản xuất hay dịch vụ…
Kiểm toán này giúp ích trực tiếp cho việc hoạt động chính sách và phương hướng,
giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm
toán.
- Kiểm toán hiệu năng: Được quan tâm ở khu vực nhà nước chủ yếu ở các khu vực
công ích và chương trình đầu tư từ NSNN nơi mà lợi ích và hiệu quả của nó không giữ
nguyên vẹn ý nghĩa của nó như trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (ví dụ: Dịch vụ
tươi tiêu phục vụ NN, chương trình giống cây trồng, chương trình nước sạch…)
* Tất cả các quan điểm khác nhau kể trên về Kiểm toán không hoàn toàn đối lập
nhau, mà nó phản ánh quá trình phát triển (cả thực tế, cả lý luận) của kiểm toán.
Từ các quan niệm trên ta rút ra kết luận như sau:
“Kiểm toán là việc các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền có kỹ năng nghiệp vụ
tiến hành thu thập, đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của
4
một đơn vị được kiểm toán nhằm mục đích xác nhận và bày tỏ ý kiến về mức độ phù
hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng”.
1.2 Chức năng kiểm toán
1.2.1 Chức năng xác minh:
Nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các
nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính.
Đây là chức năng cơ bản gắn với việc ra đời, tồn tại và phát triển của Kiểm toán.
- Đối với các báo cáo tài chính việc thực hiện các chức năng xác minh này trước hết
được thực hiện ở sự xác nhận của người kiểm tra độc lập ở bên ngoài.

Việc xác minh báo cáo tài chính ngày nay có hai mặt:
+ Tính trung thực của các con số.
+ Tính hợp thức của các biểu mẫy phản ánh tình hình tài chính. Theo chuẩn mực của
kiểm toán tài chính chức năng xác minh được thực hiện ở “báo cáo kiểm toán”.
- Đối với các thông tin khác đã được lượng hoá, việc xác minh được thực hiện trước hết
qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để
có hệ thống thông tin tin cậy và lập các báo cáo tài chính.
- Đối với kiểm toán các nghiệp vụ (hoạt động).
Chức năng xác minh được thực hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản
phẩm của hoạt động xác minh này là những biên bản (biên bản kiểm tra, biên bản quản lý
sai phạm, bên bản thanh tra các nghiệp vụ cụ thể, biên bản kiểm kê…)
Hiện nay lĩnh vực này kiểm toán hướng vào việc bày tỏ ý kiến.
- Trong chức năng xác minh của kiểm toán, vấn đề đặt ra sôi động hiện nay là phát
hiện những gian lận và vi phạm trong tài chính. Trong kiểm toán vấn đề này đặt ra như
những “khác biệt kỳ vọng” giữa kiểm toán và quản lý.
Sự khác biệt này mang tính tất yếu do thường xuyên có khoảng cách giữa mong
muốn (phát hiện gian lận và vi phạm) với khả năng thực tế của tổ chức kiểm toán, cũng
như quan hệ giữa chi phí và hiệu quả của kiểm toán.
Hiện nay nhận thức còn có điều chưa thống nhất.
Quan điểm 1: Kiểm toán cần tạo niềm tin cho những người quan tâm, nói chung
không cho phép sai sót trọng yếu trong đó có gian lận và sai sót lớn.
Quan điểm 2: Kiểm toán viên không có nghĩa vụ phát hiện tất cả các gian lận và sai
sót. Thậm chí cũng có quan niệm cho rằng KTV không có trách nhiệm phát hiện gian lận
và sai sót coi đây là trách nhiệm của nhà quản lý.
5
Phương hướng chung là xóa bỏ sự cách biệt trên. Để đạt được mục têu này, người ta
hướng tới việc hoàn thiện các chuẩn mực, và vấn đề quan trọng hơn cả chính là chất lượng
toàn diện của kiểm toán viên (cả đạo đức và chuyên môn).
1.2.2. Chức năng bày tỏ ý kiến.
Được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả kết luận về

pháp lý, tư vấn qua xác minh.
Việc kết luận về chất lượng thông tin và kết luận về pháp lý hoặc tư vấn đều được
thể hiện trên “báo cáo kiểm toán” hoặc “Thư quản lý ”.
+ Ở khu vực công cộng (gồm các DNNN công ích và sản xuất kinh doanh, các đơn
vị sự nghiệp, các đơn vị và cá nhân thụ hưởng Ngân sách) đều đặt dưới sự kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước thì chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện qua “báo cáo kiểm
toán”.
+ Ở khu vực kinh doanh, các dự án ngoài ngân sách nhà nước thì chức năng bày tỏ ý
kiến còn được thể hiện qua phương thức tư vấn và sản phẩm của nó là “Thư quản lý”.
1.3 Phân loại kiểm toán
1.3.1. Phân loại kiểm toán theo chức năng.
Kiểm toán được phân biệt thành:
Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán báo cáo tài chính
* Kiểm toán hoạt động:
Là kiểm toán để xem xét và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động
của một đơn vị.
- Tính hiệu lực: Là khả năng hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu của đơn vị.
- Tính hiệu quả: Là việc đạt được hiệu quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.
Đối tượng của Kiểm toán này rất phong phú và đa dạng từ việc đánh giá toàn bộ
hoạt động của một đơn vị, một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một tài
sản, một thiết bị, mọt công trình xây dựng cơ bản đưa vào sử dụng … đến vệc tổ chức
luân chuyển chứng từ trong một đơn vị.
- Kiểm toán này phả sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: Kế toán, tài chính, kinh tế,
cơ khí, xây dựng, khoa học kỹ thuật…
- Kết thúc kiểm toán là một báo cáo giải trình, có nhận xét, phân tích, đánh giá gửi
cho các đơn vị có liên quan.
6
* Kiểm toán tuân thủ:

Là loại kiểm toán để xem xét bên được kiểm toán có tuân thủ các thủ tục, các
nguyên tắc, quy chế mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng nhà
nước đã đề ra hay không.
* Kiểm toán báo cáo tài chính
Là việc kiểm tra và xác nhận tính trung thực và tính hợp lý của báo cáo tài chính (do
các đơn vị kế toán lập ra) cũng như xem xét các báo cáo tài chính có phù hợp với các
nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và các yêu cầu của pháp luật hay không?
Các báo cáo tài chính thường được kiểm toán nhiều nhất là bảng cân đối kế toán;
báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ kể cả bản ghi
chú, bảng thuyết minh báo cáo tài chính.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển do tính phổ biến của Kiểm toán báo
cáo tài chính và do chủ thể Kiểm toán báo cáo tài chính thường là các Kiểm toán viên độc
lập ở các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện kiểm toán để phục vụ cho các nhà
quản lý, chính phủ, các ngân hàng, các nhà đầu tư nên đã có sự đồng nhất giữa “Kiểm
toán” với “Kiểm toán báo cáo tài chính”.
Đây là loại Kiểm toán phổ biến → sẽ được đề cập trong nội dung của môn học này.
1.3.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiếm toán
Được chia thành: Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán độc lập
*Kiểm toán nội bộ
Là việc kiểm toán do doanh nghiệp tự tổ chức và thực hiện do Kiểm toán viên nội
bộ của đơn vị tiến hành.
Phạm vi của Kiểm toán nội bộ xoay quanh một số lĩnh vực sau:
- Trước hết là kiểm tra việc hạch toán, lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã
đúng, trung thực chưa.
- Kiểm tra và đánh giá tính thích hợp và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và các
quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát, hoạt động của hệ thống này và tham gia
hoàn thiện chúng.
- Kiểm tra các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại

các phương tiện đã sử dụng để xác định, để tính toán, để phân loại và báo cáo những
thông tin này. Thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ,
các số liệu tài khoản…)
7
- Kiểm tra tính hiệu lực, tính kinh tế và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị.
Như vậy, lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động để đánh giá
tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Bên cạnh đó,
Kiểm toán nội bộ cũng tiến hành kiểm tra, tuân thủ để xem xét việc chấp hành các quy
chế, chính sách trong một đơn vị .
Kiểm toán nội bộ ra đời ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển như
(1941), pháp (1960) trước hết trong các đơn vị, các tổ chức thị trường chứng khoán, ngân
hàng và các công ty đa quốc gia.
- Hoạt động kinh tế nội bộ phát triển nhanh chóng ở Châu Âu năm 1960.
- Đào tạo và huấn luyện KTV nội ở các nước: ở Châu Âu không có bất kỳ một yêu
cầu nào về tuyển dụng kiểm toán viên nội bộ, Ban giám đốc có toàn quyền đánh giá phẩm
chất của các thí sinh dự tuyển trên cơ sở trình độ chuyên môn và phẩm chất cá nhân của
họ.
- Ở một số nước Châu Á: Hoạt động kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn nhiều so với
Mỹ và Châu Âu nhưng phát trển khá nhanh vào cuối những năm 80 đầu năm 90. Một số
theo mô hình của Mỹ như (Singapo, Thái Lan).
- Ở Việt Nam QĐ832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của BTC ban hành quy chế
kiểm toán nội bộ trong các DNNN.
Về mặt tổ chức, bộ phận Kiểm toán nội bộ thường trực thuộc Giám đốc và báo cáo
trực tiếp giám đốc. Ở những tổng công ty lớn, kiểm toán nộ bộ còn trực thuộc Hội đồng
quản trị để đảm bảo hoạt động được hữu hiệu.
Tuy được tổ chức độc lập với các tổ chức, bộ phận được kiểm tra nhưng kiểm toán
nội bộ là một bộ phận của đơn vị nên không thể độc lập hoàn toàn với đơn vị được. Báo
cáo của Kiểm toán nội bộ được người đứng đầu doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng ít có
giá trị pháp lý, chỉ có giá trị trong nội bộ doanh nghiệp. Việc tổ chức đơn vị kiểm toán nội
bộ hay không là do người đứng đầu doanh nghiệp quyết định. Nhà nước khuyến khích các

doanh nghiệp lớn, địa bàn rộng, nhiều loại hình kinh doanh nên tổ chức kiểm toán nội bộ
để tự xử lý các tồn tại về tài chính.
* Kiểm toán Nhà nước:
Là công việc kiểm toán do các cơ quan chức năng của Nhà nước (tài chính, thuế…)
và cơ quan kiểm toán nhà nước chuyên trách tiến hành. Hệ thống kiểm toán nhà nước do
nhà nước thành lập, quản lý, là một công cụ quan trọng nhằm tăng cường chức năng kiểm
tra giám sát việc chi tiêu, sử dụng tài nguyên, công sản quốc gia.
8
- Kiểm toán nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ xem xét việc
chấp hành các chính sách, luật lệ và các chế độ của nhà nước tại các đơn vị có sử dụng
kinh phí nhà nước.
- Ngoài ra kiểm toán nhà nước còn kiểm toán hoạt động để đánh giá tính hiệu lực,
hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan đơn vị kiểm toán.
Ở Việt Nam, đây là một tổ chức kiểm toán thuộc Chính phủ làm nhiệm vụ kiểm tra,
xác nhận tính đúng, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài chính của các cơ
quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, các đoàn thể xã hội
có sử dụng kinh phí nhà nước.
Đặc điểm hoạt động:
- Kiểm toán theo luật định, theo kế hoạch. Kế hoạch kiểm toán hàng năm do Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Có thể kiểm toán đột xuất do Tổng kiểm toán đệ trình Thủ
tương Chính Phủ.
- Kiểm toán theo mệnh lệnh, các đối tượng bị kiểm toán không được quyền từ chối.
- Kiểm toán nhà nước được quyền đề nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý các tổ chức và cá nhân vi phạm các chính sách kinh tế, tài chính được phát hiện qua
kiểm toán.
* Kiểm toán độc lập:
Là hoạt động của kiểm toán viên chuyên nghiệp độc lập hành nghề trong các Công
ty kiểm toán, làm nhiệm vụ kiểm toán và xác nhận sự trung thực, hợp lý của các tài liệu,
số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, cơ quan, các tổ chức kinh tế, xã
hội có yêu cầu. Qua đó tạo ra sự tin tưởng của người sử dụng các thông tin tài chính đã

được kiểm toán cũng như giúp các doanh nghiệp, cơ quan sự nghiệp phát hiện các sai sót
rủi ro và đề xuất các biện pháp giải quyết nhằm nâng cao hiệu qua kinh doanh của doanh
nghiệp, hiệu lực, hiệu quả quản lý của đơn vị.
Kiểm toán viên độc lập phải là người có năng lực chuyên môn và đạo đức hành
nghề được nhà nước thừa nhận bằng việc cấp chứng chỉ kiểm toán viên sau khi kỳ thi đạt
kỳ thi quốc gia kiểm toán viên.
Công ty kiểm toán là doanh nghiệp dược thành lập và hoạt động theo luật “Luật
doanh nghiệp Nhà nước” hoặc Luật doanh nghiệp hoặc Luật đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam.
Các công ty kiểm toán là một doanh nghiệp dịch vụ theo nguyên tắc tự trang trải chi
phí (được thu phí kiểm toán và hạch toán kinh doanh như một doanh nghiệp).
* Đối tượng kiểm toán: Ở Việt Nam tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân có nhu cầu kiểm toán đều có thể là đối tượng của kiểm
9
toán độc lập, trong đó đối tượng bắt buộc phải kiểm toán là các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường
chứng khoán.
* Đặc điểm hoạt động: Theo cơ chế dịch vụ dựa vào cơ chế tài chính, kế toán.
Những kiểm toán viên là những người làm thuê đặc biệt được quyền phê bình ông
chủ.
1.4 Đối tượng kiểm toán
* Đối tượng kiểm toán: là thực trạng tài chính cùng hiệu quả, hiệu năng của
các nghiệp vụ hay dự án cụ thể.
Cả thực trạng tài chính cũng như hiệu năng, hiệu quả phải được thể hiện trong
một đơn vị cụ thể (DN, đơn vị sự nghiệp, cơ quan kinh tế và hành chính) hoặc một
dự án, một công trình cụ thể. Trong quan hệ chủ sở hữu, các đơn vị đó thuộc sở
hữu nhà nước, sở hữu tư nhân hoặc hỗn hợp. Trong phạm vi một quốc gia, các đơn
vị này có thể hình thành từ nguồn đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài hoặc liên
doanh giữa trong và ngoài nước tổng hợp các tiêu thức trên có thể phân chia các
đơn vị thành các khách thể kiểm toán trong quan hệ với chủ thể kiểm toán.

* Khách thể của kiểm toán:
-Khách thể của kiểm toán nhà nước: bao gồm tất cả các đơn vị, cá nhân có
sử dụng Ngân sách nhà nước như:
+Các dự án, công trình do Ngân sách nhà nước đầu tư.
+Các DNNN: 100% vốn NSNN
+Các xí nghiệp công cộng thuộc sở hữu nhà nước (100% vốn NSNN)
+Các cơ quan kinh tế, quản lý của Nhà nước và các đoàn thể xã hội
-Khách thể của kiểm toán độc lập:
+Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả công ty TNHH)
+Các DN 100% vốn đầu tư nước ngoài
+Các liên doanh giữa các tổ chức trong và ngoài nước
+Các HTX và DNCP
+Các chương trình, dự án có nguồn kinh phí từ bên ngoài NSNN
-Khách thể của kiểm toán nội bộ:
+Các bộ phận cấu thành trong đơn vị
+Các hoạt động, các chương trình, các dự án cụ thể trong đơn vị
10
+Các cá nhân trong đơn vị
1.5 Những khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
1.5.1 Gian lận và sai sót với việc xác định nội dung kiểm toán
* Gian lận:Là những hành vi chủ ý lừa dối, sửa đổi, xuyên tạc các thông tin kinh tế
tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhân viên
hoặc bên thứ ba thực hiện nhằm mục đích tham ô, biển thủ, che giấu tài sản, làm ảnh
hưởng đến báo cáo tài chính.
Gian lận biểu hiện dưới các dạng sau:
+ Ghi chép các nghiệp vụ không đúng sự thật.
+ Xử lý chứng từ theo ý muốn chủ quan, sửa đổi, xuyên tạc, làm giả chứng từ liên
quan đến báo cáo tài chính làm sai lệch báo cáo tài chính.
+ Che giấu, cố ý bỏ sót các thông tin, tài liệu nghiệp vụ kinh tế làm sai lệch báo cáo
tài chính.

+ Cố ý áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán,
chính sách tài chính.
+ Biển thủ tài sản.
+ Cố ý tính toán sai về số học.
* Sai sót: Là những nhầm lẫn và sai sót không cố ý có ảnh hưởng tới số liệu kế toán,
báo cáo tài chính như:
- Lỗi về tính toán số học hay ghi chép sai.
- Bỏ sót hay ghi trùng nghiệp vụ kinh tế.
- Áp dụng sai các nguyên tắc, phương pháp và chế độ kiểm toán.
- Hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế dẫn đến định khoản vào các
tài khoản sai không cố ý.
* Những nhân tố ảnh hưởng đến mực độ gian lận và sai sót:
- Giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn
ngừa, phát hiện và xử lý các gian lận và sai sót trong đơn vị thông qua việc xây dựng và
duy trì thực hiện thường xuyên hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp.
(M06/240)
- Do hạn chế vốn có của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ nên khó có
thể loại trừ hoàn toàn khả năng xảy ra gian lận và sai sót.
- Ngoài các hạn chế trong thiết kế và thực hiện hệ thống kế toán, hệ thống kiểm toán
nội bộ còn có những tình huống hoặc sự kiện làm tăng rủi ro do gian lận và sai sót gồm:
+ Những vấn đề liên quan đến tính chính trực hoặc năng lực của Ban Giám đốc.
11
+ Các sức ép bất thường đối với đơn vị.
+ Các nghiệp vụ và sự kiện không bình thường.
+Những khó khăn liên quan đến thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
+ Những nhân tố từ môi trường tin học liên quan đến các tình huống và sự kiện trên.
Ví dụ về những tình huống mà các sự kiện này được nêu ở phụ lục số 01-CMKT số
240.
Những vấn đề liên quan đến tính chính trực hoặc năng lực của Ban giám đốc.
Các ví dụ thuộc lĩnh vực này gồm:

- Công tác quản lý bị một hay một nhóm người độc quyền nắm giữ, thiếu sự giám
sát có hiệu lực của Ban giám đốc hoặc Hội đồng Quản trị.
- Cơ cấu tổ chức của đơn vị Kiểm toán phức tạp và có những rắc rối không cần thiết.
- Có sự bất lực trong sửa chữa những yếu kém của hệ thống kế toán và hệ thống
Kiểm toán nội trong trong khi những yếu kém này hoàn toàn có thể sửa chữa được.
- Thay đổi thường xuyên Kế toán trưởng hoặc người có trách nhiệm của bộ phận kế
toán tài chính.
- Thiếu nhiều nhân viên kế toán trong một thời gian dài.
- Bố trí người làm kế toán không đúng chuyên môn hoặc người bị pháp luật nghiêm
cấm.
- Có sự thay đổi thường xuyên chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc Kiểm toán viên.
- Cán bộ quản lý, cán bộ tài chính kế toán có thu nhập cao.
Các sức ép bất thường trong đơn vị hoặc từ bên ngoài:
- Ngành nghề kinh doanh gặp khó khăn, số đơn vị phá sản ngày càng tăng.
- Thiếu vốn kinh doanh do lỗ hoặc do mở rộng quy mô doanh nghiệp quá nhanh.
- Mức thu nhập giảm sút.
- Doanh nghiệp cố ý hạch toán tăng lợi nhuận nhằm khuyếch trương hoạt động.
- Đầu tư quá nhanh vào ngành nghề mới hoặc loại sản phẩm mới làm mất cân đối tài
chính.
- Doanh nghiệp bị lệ thuộc quá nhiều vào một số sản phẩm, một số khách hàng.
- Sức ép về tài chính từ những nhà đầu tư hoặc các cấp quản lý đơn vị.
- Sức ép đối với nhân viên kế toán phải hoàn tất báo cáo tài chính trong một thời
gian quá ngắn.
Các nghiệp vụ và sự kiện bất thường:
- Các nghiệp vụ đột xuất, đặc biệt xảy ra vào cuối niên độ kế toán có tác động đến
doanh thu, chi phí và kết quả.
- Các nghiệp vụ hoặc phương pháp xử lý kế toán phức tạp.
12
- Các nghiệp vụ đối với các bên hữu quan (các bên được coi là hữu quan nếu một có
khả năng điều hành kiểm soát bên kia hoặc có ảnh hưởng nhiều đến bên kia trong quá

trình quyết định điều hành hoặc quyết định về tài chính).
- Chi trả cho các dịch vụ quá cao so với những dịch vụ được cung cấp. (Ví dụ: phí
luật sư, tư vấn, đại lý, quảng cáo…)
Các vấn đề liên quan đến thu nhập bằng chứng kiếm toán.
- Tài liệu kế toán không đầy đủ hoặc không được cung cấp kịp thời. Ví dụ không
thu thập đủ chứng từ, phát sinh chênh lệch lớn giữa sổ và báo cáo, những nghiệp vụ ghi
chép sai hoặc để ngoài sổ sách kế toán.
- Lưu trữ tài liệu không đầy đủ về các sự kiện và các nghiệp vụ kinh tế. Ví dụ:
chứng từ không được phê duyệt, thiếu những tài liệu hỗ trợ cho những nghiệp vụ lớn và
bất thường.
- Có chênh lệch lớn giữa sổ kế toán của đơn vị với xác nhận của bên thứ ba, mâu
thuẫn giữa những bằng chứng Kiểm toán không giải thích được sự thay đổi của các chỉ số
hoạt động.
- Ban Giám đốc từ chối cung cấp giải trình hoặc giải trình không thoả mãn yêu cầu
của kiểm toán viên.
Nhân tố từ môi trường tin học:
- Không lấy được thông tin từ máy tính.
- Có thay đổi trong chương trình máy tính nhưng không lưu tài liệu, không được phê
duyệt và không được kiểm tra.
- Thông tin tài liệu in từ máy vi tính không phù hợp với báo cáo tài chính.
- Các thông tin inh ra từ máy vi tính mỗi lần một khác nhau.
1.5.2 Trọng yếu và rủi ro với việc lựa chọn nội dung kiểm toán cụ thể
*Trọng yếu:(Theo CMKT số 320): Trọng yếu là một thuật ngữ dùng để thể hiện
tầm quan trọng của một thông tin hoặc của một số liệu kế toán trong báo cáo tài chính.
Thông tin dược coi là trọng yếu có nghĩa là thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác
của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính.
Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay tâm cỡ và bản
chất của các sai sót trong các thông tin tài chính được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể,
nếu dựa vào các thông tin sai sót này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc sẽ rút ra
những kết luận sai lầm.

13
Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung trong
thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định
lượng và định tính.
*Rủi ro: (Quy định tại CM 400- Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ).
- Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro mà Kiểm toán viên và Công ty Kiểm
toán có thể mắc phải khi đưa ra những ý kiến nhận xét không thích hợp về tính hợp lý
trung thực về báo cáo tài chính của đơn vị.
Chẳng hạn: KTV có thể đưa ra ý kiến nhận xét hoàn hảo về một báo cáo tài chính,
rằng báo cáo tài chính là trung thực, là hợp lý trong khi báo cáo tài chính này có những
sai sót nghiêm trọng.
- RRKT bao gồm 3 bộ phận rủi ro.
Rủi ro tiềm tàng
Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng của từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có
hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Rủi ro kiểm soát.
Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo
cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát
nội bộ của doanh nghiệp không phát hiện ra được và không ngăn chặn dược những gian
lận và sai sót, không sửa chữa kịp thời.
Rủi ro phát hiện:
Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo
cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, Kiểm toán viên
đã không phát hiện được những gian lận và sai sót nghiêm trọng hiện có trong số dư tài
khoản hoặc các loại nghiệp vụ (Điểm 06-CM 400) (Thể hiện sự yếu kém của Kiểm toán
viên).
*Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro.
Là quan hệ tỷ lệ nghịch: Nếu mức trọng yếu được chấp nhận cao, rủi ro trong Kiểm
toán thấp và ngược lại.

Phân tích: Vì khi giá trị sai sót có thể bỏ qua tăng lên thì khả năng xảy ra sai sót có
thể giảm xuống. Ngược lại, giảm mức trọng yếu có thể chấp nhận được, rủi ro trong Kiểm
toán có thể tăng lên.
Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi và
thời gian của các thủ tục Kiểm toán. Chẳng hạn, khi lập xong chương trình kiểm toán chi
tiết, Kiểm toán viên phát hiện ra rằng mức trọng yếu phải thấp hơn, do đó rủi ro kiểm toán
14
sẽ tăng lên. Để bù lại, kiểm toán viên phải tăng cường phạm vi kiểm toán và lựa chọn các
phương pháp kiểm toán hữu hiệu hơn để có thể giảm rủi ro phát hiện xuống mức có thể
chấp nhận được.
CMKT 320 (Điểm 10) ghi rõ: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm toán viên phải
xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài
chính. Đánh giá của Kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản
và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp kiểm toán viên xác định được những khoản mục cần
được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hau thủ tục phân tích”. Việc
đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ
giúp kiểm toán viên lựa chọn dược những thủ tục kiểm toán thích hợp và việc kết hợp các
thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm rủi ro kiểm toán tới mức độ có thể
chấp nhận được.
1.5.3 Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ
kiểm toán
*Chứng từ kiểm toán:Chứng từ kiểm toán là nguồn tư liệu sẵn có, cung cấp
cho kiểm toán viên. Cụ thể, chứng từ kiểm toán bao gồm:
(1)Các tài liệu kế toán:
-Chứng từ kế toán
-Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ gốc
-Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán
-Các bảng cân đối-tổng hợp kế toán
(2)Các tài liệu khác:
-Tài liệu hạch toán ban đầu

-Các biên bản xử lý vi phạm hợp đồng, vi phạm khác
-Các đơn từ khiếu tố
*Cơ sở dẫn liệu với việc xác định mục tiêu kiểm toán: (CMKT VN số 500)
Cơ sở dẫn liệu là căn cứ của các khoản mục và thông tin trình bày trong
BCTC do Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị chịu trách nhiệm lập trên cơ sở
các chuẩn mực và chế độ kế toán quy định phải được thể hiện rõ ràng hoặc có cơ sở
đối với tổng chỉ tiêu trong BCTC
*Bằng chứng kiểm toán: (CMKT VN số 500)
Bằng chứng Kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được
liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý
15
kiến của mình. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng
kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về BCTC của đơn vị được kiểm
toán.
-Bằng chứng kiểm toán phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản: đầy đủ và thích hợp
Yêu cầu về tính đầy đủ: số lượng bằng chứng cần thu thập phải đủ để đưa ra kết luận
kiểm toán. Yêu cầu đầy đủ không đặt ra một số lượng cụ thể mà đòi hỏi sự xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên trong mối quan hệ với các nhân tố quyết định số lượng bằng
chứng kiểm toán (tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán cụ thể, mức độ rủi ro của đối
tượng kiểm toán, tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán, tính kinh tế)
Yêu cầu về tính thích hợp: chất lượng hay độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán. Đối
với bằng chứng thích hợp thì nó phải đáng tin cậy và có liên quan tới mục tiêu kiểm toán.
1.6 Phương pháp kiểm toán
Hệ thống phương pháp kiểm toán bao gồm hai phân hệ:
1.6.1 Phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ:
-Kiểm toán các cân đối kế toán: phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và
các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành quan hệ
cân đối đó.
VD: Với Bảng CĐKT: TS=Vcsh+Nợ phải trả
-Đối chiếu trực tiếp: là đối chiếu 1 chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu khác nhau

VD: Đối chiếu giữa số cuối kỳ với số đầu năm hoặc giữa các kỳ trong Bảng
CĐKT để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu đó
(đối chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bổ từng
quần thể (đối chiếu dọc)
-Đối chiếu logic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có quan
hệ với nhau.
VD: Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn đến hàng hóa vật tư tăng hoặc các khoản
phải trả giảm
1.6.1 Phân hệ phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ:
-Kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các loại tài sản
-Điều tra: là dùng các cách khác nhau để tiếp cận và đánh giá đối tượng kiểm
toán
VD: Gửi thư xác nhận số dư các khoản phải thu, phải trả của các bên liên quan
16
-Thực nghiệm: là việc tái diễn các hoạt động, hoạt động để xác minh lại kết
quả của một quá trình, một sự việc đã qua
17
18

×