Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG TIN (TRỤ CỘT 3) TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.5 KB, 36 trang )



BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam











NHÓM 37:
1. Lê Mỹ Oanh K094040585
2. Dương Thị Tú Trinh K094040625
3. Nguyễn Thị Trúc Vy K094040642


TP. Hồ Chí Minh , 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG


ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG
TIN (TRỤ CỘT 3) TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN


HÀNG TẠI VIỆT NAM

Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

2


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VỐN BASEL II VÀ CÁC QUY ĐỊNH
ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM 4
1.1 Giới thiệu chung về hệ thống tiêu chuẩn vốn basel 4
1.2 Hệ thống tiêu chuẩn vốn basel II 6
1.3 Các quy định áp dụng basel- trụ cột 3 tại Việt Nam 8

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT
THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG TIN (TRỤ CỘT 3) TRONG HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 11

2.1 Thực trạng về mức độ đáp ứng các quy định về kỷ luật thị trường, minh bạch
thông tin (trụ cột 3) trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam 11
2.2 Đánh giá thực trạng áp dụng lý thuyết trụ cột thứ ba của Basel của các NH
tại Việt Nam 22
2.2.1 Những thành quả đạt được 22
2.2.2 Những mặt còn tồn tại 27
2.2.3 Nhận xét chung 29
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG TIN (TRỤ
CỘT 3) TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 30
3.1 Khuyến khích tính chủ động, giám sát và minh bạch thông tin của hệ thống

ngân hàng 30
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

3


3.2 Thực hiện bổ sung báo cáo vốn chủ sở hữu 31
3.3 Quy định chặt chẽ và chi tiết về việc thực hiện các báo cáo tài chính 32
3.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý trong việc đánh giá mức độ an toàn của
các TCTD 33
3.5 Xây dựng hệ thống thông tin 34
3.6 Phát triển đội ngũ giám sát ngân hàng 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO












Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

4



CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VỐN BASEL II VÀ CÁC QUY
ĐỊNH ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
1.1 Giới thiệu chung về hệ thống tiêu chuẩn vốn basel

Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc Ngân hàng Trung
Ương (NHTW) của nhóm 10 nước (G10). Thành viên của Ủy ban này bao gồm các
nước : Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban
Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Ý.

Các quốc gia được đại diện bởi NHTW hay cơ quan giám sát hoạt động ngân
hàng, vì không phải ở quốc gia nào NHTW cũng đồng thời cũng là cơ quan giám sát
hoạt động ngân hàng. Ví dụ ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
đồng thời phụ trách việc giám sát hoạt động hệ thống ngân hàng thương mai
(NHTM).

Ủy ban basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan
giám sát ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ cơ quan nào và
những kết luận của nó không có tính pháp lý. Thay vào đó, Ủy ban này chỉ xây dựng
và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời, giới
thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng
thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ.
Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận vào các tiêu chuẩn
chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.

Một mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách
giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản: (1) Không ngân hàng nước ngoài nào
được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; (2) Việc giám sát phải tương xứng tại mỗi
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam

2013

5


quốc gia cũng như trên toàn hệ thống. Để đạt được mục tiêu đề ra, năm 1988, Ủy ban
đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước
vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.

Basel I là điểm ngoặt quan trọng khi lần đầu tiên có sự nghiên cứu và đưa vào
như một khung đo lường chung rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.

Với nổ lực liên tục của mình, những nguyên tắc giám sát của Ủy ban Basel ngày
càng được phát triển rộng rãi và được nhiều nước trên thế giới đưa vào áp dụng như
một nguyên tắc cốt lõi trong công tác giám sát. Vào năm 1977, Ủy ban Basel đã phát
triển một tập hợp “ Các nguyên tắc nồng cốt cho việc giám sát hoạt động ngân hàng
hiệu quả” mà nó cung cấp một khuôn khổ cho hệ thống giám sát hiệu quả. Lần lượt
cùng với những thay đổi, sửa đổi, bổ sung sau này cho phù hợp với điều kiện thực tế,
có thể nói những nguyên tắc giám sát của Basel đã trở thành tiêu chuẩn giám sát rộng
rãi trên toàn cầu. Tiếp sau Basel I là một sự tiến bộ, một đại cải cách khi Basel II được
phát triển từ những nghiên cứu khiếm khuyết của hệ thống Basel I. Hiện nay, Hiệp
ước mới nhất là Basel III đã được đề cập phát triển với cuộc khủng hoảng tài chính,
chủ yếu tập trung vào các rủi ro tín dụng.

Hiện nay, với trình độ cũng như là điều kiện thị trường vẫn còn gặp phải nhiều
khó khăn, Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình thực hiện Basel II. Vì thế, với đề tài
này, nhóm chúng tôi xin được đánh giá hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua hệ
thống tiêu chuẩn vốn Basel II.




Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

6


1.2 Hệ thống tiêu chuẩn vốn basel II

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không
đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng
tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.

Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế
cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II)
đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II
đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:

Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang
trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường
và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng
có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới
đối với rủi ro tác nghiệp.

Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những
loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể
đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ
này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:


+ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ
theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn
đó.
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

7



+ Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ
cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và
đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số
hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.

+ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.

+ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức
nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.

Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh
sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về
cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm
của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình
đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.

Trụ cột 3- Kỷ luật thị trường và tính minh bạch thông tin bổ sung cho các yêu

cầu vốn tối thiểu (trụ cột 1) và quá trình kiểm tra giám sát (trụ cột 2). Ủy ban Basel
khuyến khích nguyên tắc thị trường bằng việc phát triển một bộ các yêu cầu minh
bạch, cho phép người tham gia thị trường đánh giá các thông tin chủ chốt, đánh giá độ
rủi ro của các ngân hàng thương mại. Kỉ luật thị trường có thể góp phần cho môi
trường hoạt động ngân hàng an toàn và lành mạnh hơn, các tổ chức giám sát ngân
hàng có thể yêu cầu các NHTM phải cung cấp thông tin cho thị trường. Điều này giúp
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

8


cho các chủ thể liên quan giám sát hoạt động NHTM-một yếu tố cấu thành của hệ
thống giám sát ngân hàng. Kỷ luật thị trường cũng đã được Ông Lê Xuân Nghĩa – Phó
chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia trong khuyến nghị về tái cấu trúc hệ
thống Giám sát tài chính nhắc đến. Ông cho rằng “thế kiềng ba chân” (1. Quản trị
doanh nghiệp tốt; 2. Cơ chế kỉ luật thị trường phát huy tác dụng đầy đủ; 3. Các cơ
quan quản lý, giám sát thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả) cần được phát triển
cân bằng.

Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh
bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.

1.3 Các quy định áp dụng basel- trụ cột 3 tại Việt Nam

Như đã nói ở phần trên, hệ thống tiêu chuẩn vốn Basel chỉ đưa ra các tiêu chuẩn
chung cho các ngân hàng trên thế giới, tuy nhiên việc thực thi các quy định là tùy
thuộc vào từng quốc gia với các quy định riêng của mình dựa trên các tiêu chuẩn của

Basel. Hiện nay, tại Việt Nam, các tiêu chuẩn của Basel sẽ được áp dụng thông qua
các quy định, thông tư do NHNN ban hành.

NHNN đã ban hành Thông tư số 35/2011/TT-NHNN quy định việc công bố và
cung cấp thông tin bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/04/2012 về công bố định kỳ các
thông tin quan trọng về thực trạng hoạt động của ngành Ngân hàng.
Theo như lý thuyết trụ cột thứ ba thì ta có thể nhận thấy các thông tin các NH
cần công bố bao gồm: Rủi ro chứng khoán nắm giữ; tài trợ cho các khoản mục ngoại
bảng; giải thích cách tính toán tỷ lệ vốn và chi tiết hóa các thành phần của vốn. Số lần
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

9


tính vốn trong chu kỳ suy thoái tối thiểu sẽ tương đương với số lần tính vốn tối thiểu.
Điều kiện kinh tế tính toán vốn phải tương ứng điều kiện tính toán vốn tối thiểu.
Trong các giai đoạn chuyển tiếp phải công bố thông tin về vốn. Quy mô và năng lực
tài chính cuả toàn hệ thống được củng cố và tăng trưởng.

- Về vấn đề vốn: NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham
gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất,
sáp nhập nếu cần. NHNN cũng sẽ tham gia giám sát chặt chẽ quá trình này. Theo
Thống đốc NHNN, tái cấu trúc là việc làm tự nguyện của các ngân hàng nhỏ, yếu
kém, nhưng nếu các ngân hàng không thể tự tái cấu trúc thì NHNN sẽ can thiệp và
thậm chí tính đến việc hợp nhất hoặc sáp nhập. Trên thực tế, các ngân hàng nhỏ đều
có một thực trạng chung là có vốn điều lệ dưới mức quy định tối thiểu (3000 tỷ đồng)
vì vậy các ngân hàng này không thể tự mình tái cấu trúc nếu không có sự giúp đỡ từ
bên ngoài. Vì vậy, NHNN cùng với các cơ quan giám sát và theo dõi của cơ quan
quản lý để giúp các ngân hàng nhỏ tìm kiếm các đối tác nâng cao năng lực vốn, năng

lực quản trị, đảm bảo thanh khoản và an toàn vốn.

- Về vấn đề xử lý nợ xấu: NHNN đã ban hành các quyết định và văn bản sau:
+ Quyết định số 780/QÐ-NHNN ngày 23/04/2012 cho phép “các khoản nợ được
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh
giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả
năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ được giữ nguyên nhóm nợ
như đã được phân loại theo quy định trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ”.
+ Văn bản số 2871/NHNN-TD yêu cầu 14 ngân hàng (G14) gồm: Agribank,
BIDV, Vietinbank, Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, MB,
MSB, VPBank, VIB, SeaBank và SHB chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp xử
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

10


lý nợ theo các quy định hiện hành; thực hiện mua, bán nợ theo quy định tại Quyết
định số 59/2006/QÐ-NHNN ngày 21/02/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy
chế mua, bán nợ của TCTD trong đó cho phép 14 ngân hàng mua bán nợ dưới dạng
cho doanh nghiệp vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về thanh khoản: NHNN đã phối hợp với các ngân hàng mạnh để cung cấp
thanh khoản cho các ngân hàng yếu để giảm thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống.
Ðồng thời, NHNN đã cho các ngân hàng gia hạn nợ đối với doanh nghiệp và cho phép
các ngân hàng trong nhóm “G14” mua bán nợ dưới dạng cho doanh nghiệp vay và nợ
của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về quản trị ngân hàng: NHNN đã ban hành một số văn bản liên quan đến vấn
đề này, đặc biệt là các thông tư thay thế Thông tư 13 và Quyết định 493. Theo Ðề án
cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, thì cuối năm 2015, TCTD sẽ phải đạt mức
vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy

định của Basel II.








Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

11



CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỶ
LUẬT THỊ TRƯỜNG, MINH BẠCH THÔNG TIN (TRỤ CỘT 3) TRONG
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng về mức độ đáp ứng các quy định về kỷ luật thị trường, minh
bạch thông tin (trụ cột 3) trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Ở Việt Nam, chỉ vài năm gần đây cùng với việc ra đời Basel II, và việc cam kết
thực hiện giám sát ngân hàng theo hiệp ước Basel II năm 2004, chúng ta mới biết đến
kỷ luật thị trường, minh bạch thông tin như là một trong ba trụ cột của hiệp ước Basel
II. Do vậy việc nghiên cứu kỷ luật thị trường ở khía cạnh định tính cũng như định
lượng còn chưa được phát triển.
Quan điểm của người dân về quy tắc Too big to fail ( Ngân hàng lớn không thể
đổ vỡ) ở Việt Nam vẫn đang tồn tại. Vì sự ổn định của xã hội và cả nền kinh tế, Nhà
nước sẽ không thể để cho các NHTM nhà nước sụp đổ. Quan điểm này đã thấm sâu
vào trong suy nghĩ của mọi người, vì vậy loại bảo hiểm tiền gửi hầu như không quan

tâm đến các chỉ tiêu rủi ro của các NHTM nhà nước. Còn đối với các NHTM cổ phần,
họ là các doanh nghiệp thực sự, họ hiểu rằng phải tự chịu trách nhiệm kinh doanh và
mục tiêu lợi nhuận của mình, và chỉ nhận được sự đảm bảo tín dụng và giúp đỡ từ nhà
nước có giới hạn. Đã có những NHTM cổ phần sụp đổ, đóng cửa hay sáp nhập, vì vậy
người dân cũng cần phải quan tâm hơn đến các chỉ tiêu rủi ro. Nhưng xét trên tổng thể
mà nói, kỷ luật thị trường của ngành ngân hàng Việt Nam trong một nền kinh tế toàn
cầu là rất yếu, chưa thể xem đó là một bộ phận cấu thành trong hệ thống giám sát tài
chính - Ngân hàng Việt Nam.
Việc áp dụng lý thuyết trụ cột thứ ba của Basel tại Việt Nam được xem là yêu
cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các
NHTM. Theo như lý thuyết về trụ cột thứ ba thì các NH cần phải công khai thông tin
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

12


ra thị trường một cách minh bạch. Hệ thống Basel đưa ra danh sách một loạt các yêu
cầu buộc các NH phải công khai thông tin từ những thông tin về vốn đến mức độ
nhạy cảm của NH với các rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, để các NH có thể hoạt
động một cách minh bạch và hiệu quả hơn.








Bảng 2.1 Bảng xếp hạng minh bạch của Việt Nam từ 2000-2010

Nguồn: Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI)
Chỉ số minh bạch thông tin của Việt Nam là khá thấp so với các nước trên thế
giới và trong khu vực, đặc biệt hệ thống cung cấp thông tin trên hệ thống tài chính
ngân hàng vẫn còn yếu. Do đó, trong quá trình áp dụng Hiệp ước Basel thì việc thực
hiện trụ cột 3 về minh bạch, công khai thông tin hoạt động ngân hàng để hỗ trợ tốt
cho công tác đáp ứng hiệu quả trụ cột 1 và trụ cột 2 cần phải thực hiện song song.
Những điểm chưa đáp ứng trong việc áp dụng trụ cột 3 Hiệp ước Basel
Thứ nhất, Chưa có chính sách công khai rõ ràng và quy trình đánh giá sự chính
xác trong các báo cáo của ngân hàng. Các thông tin ngân hàng đưa ra trong các báo
cáo của mình khó có thể kiểm tra tính chính xác vì phương pháp và cơ sở hình thành
thông tin không được cung cấp rõ ràng và cụ thể. Một phần nguyên nhân là do các
Năm
Chỉ số minh bạch
Xếp hạng
2000
2.5
76/90 ( quốc gia)
2001
2.6
75/91
2002
2.4
85/102
2003
2.4
100/133
2004
2.6
102/145
2005

2.6
107/159
2006
2.6
111/163
2007
2.6
123/179
2008
2.7
121/180
2009
2.7
120/180
2010
2.7
116/178
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

13


quy định về việc cung cấp thông tin chưa thực sự chi tiết, chặt chẽ. Bên cạnh đó các
quy định về tính toán các chỉ tiêu hoạt động ngân hàng chưa thống nhất và hiệu quả.
Trong các báo cáo tài chính hoặc bản cáo bạch của ngân hàng, tính minh bạch
thông tin cung cấp cho cơ quan quản lý và nhà đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu
thông tin. Đối với một số thông tin quan trọng như tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu,
đánh giá rủi ro kinh doanh thì phương pháp tính toán và giả định cũng như cơ sở đưa
ra thông tin của các ngân hàng chưa được trình bày rõ ràng. Để hiểu rõ hơn ta đưa ra

ví dụ về số liệu nợ xấu, việc gia tăng nợ xấu cao gần đây nguyên nhân cũng do thiếu
minh bạch trong việc công khai tỷ lệ nợ xấu.
Thực tiễn hoạt động ngành ngân hàng những năm gần đây cho thấy sự giảm sút
chất lượng tín dụng ngày một trầm trọng, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm đã tăng tới
66% so với cuối năm 2011. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là 8.82%
trên tổng dư nợ và ước cả năm vào khoảng 8.5% - 10%
Nợ xấu (NPLs) là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 được quy định tại điều 6
(tiêu chí định lượng) hoặc điều 7(tiêu chí định tính) theo “Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005. Tiêu chí định tính là tiêu chí được sử dụng
ngay từ khi phê duyệt hồ sơ, còn gọi là bộ xếp hạng tín dụng nội bộ của các TCTD,
tiêu chí định tính phát huy hiệu quả nhiều hơn, giúp cho TCTD có đầy đủ cơ sở để
đánh giá tiềm lực và khả năng thanh toán nợ của khách hàng một cách chính xác và
đầy đủ hơn. Tuy nhiên, tại Việt Nam: Thứ nhất, chưa có một quy chuẩn chung về tiêu
chí định tính, còn gọi là bộ xếp hạng tín dụng nội bộ của các TCTD; Thứ hai, Ngân
hàng Nhà nước vẫn còn quy định khá chung chung, không có các hướng dẫn rõ ràng
về việc áp dụng phương pháp định tính; Thứ ba, việc xây dựng một hệ thống đánh
giá, xếp hạng tín nhiệm nội bộ đối với khách hàng không dễ thực hiện và đòi hỏi phải
tốn nhiều thời gian, công sức; và Thứ tư, việc phân loại nợ theo cả hai phương pháp
có thể đẩy lượng nợ xấu hiện nay lên mức cao hơn, dẫn đến các TCTD phải trích lập
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

14


dự phòng nhiều hơn. Vì vậy, vẫn còn ít TCTD thực hiện phân loại nợ theo tiêu chí
định tính, hoặc sử dụng cả 2 phương pháp mặc dù đây là tiêu chí khá toàn diện.
Tùy theo chính sách của ngân hàng mà việc áp dụng phương pháp định lượng
hay định tính hoặc cả hai, nhưng hiện nay đa số các ngân hàng vẫn còn áp dụng
phương pháp định lượng, nhược điểm của phương pháp định lượng là không chủ động

được chất lượng của danh mục tín dụng và tính chính xác thấp, không hoàn toàn phù
hợp. Điều này dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá nợ xấu của ngân hàng
Chỉ có một số ít ngân hàng thực hiện theo phương pháp định tính hoặc kết hợp
cả hai phương pháp để đánh giá đầy đủ về quy mô nợ xấu cũng như chủ động hơn
trong việc phân loại trích lập dự phòng danh mục. BIDV là một trong những
ngân hàng tiên phong trong việc áp dụng phân loại nợ theo phương pháp định tính đạt
được kết quả tốt, song việc công bố thông tin về phân loại nợ cụ thể của các ngân
hàng như thể nào, tính chính xác của việc phân loại nợ vẫn còn mơ hồ.






Biểu đồ 2.1 Tỷ lệ nợ xấu từ năm 2002 đến quý 2 năm 2012
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

15


Việc các ngân hàng không minh bạch trong việc đưa ra phương pháp xác định
nợ xấu đã gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động tin dụng tín dụng, điều này cho
thấy có sự khác biệt về số liệu về tình hình thanh khoản, đánh giá rủi ro trong các báo
cáo của ngân hàng. Hậu quả là nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng mất thanh khoản và
các vụ sáp nhập, hợp nhất đối với các ngân hàng yếu kém.
Thứ hai, sự thiếu minh bạch trong cấu trúc vốn, đặc biệt là các NHTM nhà nước.
Theo trụ cột 1 về yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thì vốn tự có được tính phía
trên tử số, trụ cột 3 yêu cầu ngân hàng cần minh bạch về thành phần vốn được tính
đến trong công thức vì sự thay đổi thành phần vốn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mức độ

an toàn hoạt động của ngân hàng về mặt định tính.
Hiện nay, hệ thống tài chính đang tồn tại cấu trúc cổ phần chồng chéo giữa các
doanh nghiệp nhà nước, tư nhân với các tổ chức tín dụng. Ví dụ: Masan, HSBC Hàng
không Việt Nam trực tiếp sở hữu lần lượt 19.7%, 19.6% và 2.8% cổ phần của
Techcombank. Công ty chứng khoán ACB và Thăng Long cũng sở hữu lần lượt 3.4%
và 2.6% cổ phần của Techcombank. Vậy ACB và Ngân hàng Quân đội cũng là chủ sở
hữu của Techcombank.
Năm 2010, Vietcombank đã góp vốn vào 5 ngân hàng với tỷ lệ nắm giữ xấp xỉ
hoặc trên mức cổ đông chi phối bao gồm: Eximbank (8,19%), Sài Gòn công thương
(5,29%), Ngân hàng Quân đội (11%), Gia Định (3,83%) và Phương Đông
(4,67%). Eximbank cũng đầu tư dài hạn vào 3 ngân hàng là Nhà Hà Nội (0,15%), Gia
Định (0,87%), Sài Gòn Công thương (0,03%). Cũng trong năm 2010, tỷ lệ đầu tư dài
hạn của Vietinbank vào 2 ngân hàng Sài Gòn Công Thương và Gia Định lần lượt là
11% và 0,69%; Trong năm 2011, ACB quyết định duy trì tỷ lệ cổ phần ở mức từ 5-
11% trong 3 ngân hàng là Việt Á, Đại Á, và Kiên Long với tổng vốn đầu tư khoảng
170 tỷ đồng.
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

16


Cấu trúc này cho phép các công ty đảm bảo nguồn tài trợ từ các ngân hàng mà
họ sở hữu cổ phần thông qua việc cho các công ty con của họ để lách các quy định
trong việc cho vay, công tác thẩm định và giám sát lỏng lẻo đối với các khoản vay này
là nguyên nhân của các khoản nợ xấu lớn. Thực tế, trên thị trường có những ngân
hàng cho vay nội bộ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ, đặc biệt khi phần lớn vốn này
lại đầu tư vào các dự án bất động sản. Do vậy, một khi kinh tế, bất động sản gặp khó
khăn thì điều tất yếu nợ xấu sẽ tăng mạnh. Tình trạng tương tự đối với các ngân hàng
nhà nước khi phải cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước và kể cả chính phủ

nhiều dự án kém hiệu quả cũng như doanh nghiệp ốm yếu vẫn được vay vốn. Bên
cạnh đó thì việc sử dụng nguồn vốn không được kiểm soát một cách chặt chẽ nên gây
tham ô, lãng phí lớn nguồn vốn vay. Hậu quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp, dự án
không đủ khả năng để trả nợ.
Đặc biệt nguy hại nếu sở hữu chéo bị lạm dụng và biến tướng thành sự lũng loạn
để thiết kế bộ máy lãnh đạo DN và NH tham gia sở hữu chéo chỉ bao gồm những
“người trong cuộc” và họ có quyền, có cách chi phối, vô hiệu hóa các cơ chế kiểm
soát nội bộ và kiểm toán bên ngoài, khiến hoạt động tài chính nội bộ bị méo mó
nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ phá sản của DN và NH, đồng thời đe dọa đổ vỡ lớn
cho hệ thống chung. Khi bị lạm dụng có chủ đích với quy mô lớn và thường xuyên, sở
hữu chéo tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng, vô hiệu hóa các giới hạn
và nguyên tắc an toàn tín dụng theo quy định hiện hành, nguồn vốn và các dòng tiền
của các ngân hàng không được đánh giá đúng và giám sát chặt chẽ, sự thâu tóm bất
hợp pháp thậm chí biến ngân hàng thành công ty gia đình hay chỉ của một vài cá
nhân. Các mối quan hệ sở hữu chéo càng phức tạp bao nhiêu thì hiểm họa rủi ro hệ
thống càng tăng lên bấy nhiêu, đặc biệt khi chúng bị cộng hưởng bởi các khoản đầu tư
chéo đều thua lỗ và thị trường trầm lắng ngoài dự đoán ban đầu. Việc đầu tư chồng
chéo giữa các ngân hàng hàm chứa những nguy cơ rủi ro cho toàn bộ hệ thống, cho
thị trường vốn và cho cả nền kinh tế. Bởi vì nguồn lực của các tổ chức tín dụng không
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

17


được đánh giá đúng hay nói cách khác là nguồn vốn đầu tư vào các ngân hàng trở nên
kém thực chất và tổng vốn thực của cả hệ thống ngân hàng là thấp hơn nhiều so với
con số báo cáo. Điều này có thể gây nên những sai lầm trong dự báo và đánh giá sai
“khả năng chịu đựng” của hệ thống ngân hàng trước những cú sốc.



Hình 2.1 Mô hình cổ phần chéo
Nguồn : Structural Reform for Growth, Equity and National Sovereignty,
Harvard Kennedy school, 2012
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

18


Thông tin về vốn chủ sở hữu cũng như vốn an toàn tối thiểu của ngân hàng
không được công bố chi tiết và rõ ràng, khi có sự thay đổi sẽ tác động đến hoạt động,
chức năng của ngân hàng thương mại thì nhà đầu tư và cơ quan quản lý khó có thể
nhận biết và theo dõi.
Ngoài ra, do những vấn đề về sở hữu chéo kéo theo cơ cấu quản lý tại các
NHTM cũng trở nên phức tạp. Sự thiếu rõ ràng và minh bạch trong mối quan hệ giữa
Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm soát cũng chưa có được những cơ chế
giải quyết triệt để.
Thứ ba, thiếu thông tin về mô tả rủi ro hoạt động và chính sách quản trị đối với
ngành kinh doanh, nhất là các ngân hàng hoạt động quốc tế.
Rủi ro hoạt động bao gồm :
+ Rủi ro con người : rủi ro liên quan đến mức độ chuyên nghiệp và đạo đức nghề
nghiệp của nhân viên ngân hàng.
+ Rủi ro pháp lý : rủi ro từ sự không rõ ràng của các hoạt động pháp lý hoặc
không rõ ràng trong việc áp dụng và hiểu các hợp đồng, luật hay quy chế.
+ Rủi ro hệ thống : rủi ro có thể xảy ra như nhập dữ liệu sai, kiểm soát thay đổi
kém, kiểm soát dự án kém, lỗi lập trình, lỗi dịch vụ, an ninh hệ thống, sự không phù
hợp của hệ thống.
+ Rủi ro bên ngoài : rủi ro xảy ra ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.
Tại Việt Nam, hầu như chưa có một vụ việc nào liên quan đến rủi ro hoạt động

gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng mà đa số là các vụ việc đều nhỏ, ngân hàng hoàn
toàn có thể bù đắp bằng lợi nhuận. Nguyên nhân khá rõ ràng, đó là do hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu là cho vay, hoạt
động trong nước là chính. Tuy nhiên không vì thế mà các ngân hàng không quan tâm
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

19


đến công tác quản trị rủi ro hoạt động. Bởi vì, rủi ro hoạt động có thể ảnh hưởng tới
uy tín và kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Các ngân hàng thường tập trung vào việc mô tả và đưa ra các chính sách quản trị
rủi ro liên quan đến rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, tỷ giá và giá cả, nhưng chưa đưa ra
cái nhìn cụ thể vể rủi ro hoạt động liên quan đến ngành kinh doanh chủ yếu của mình,
các ngân hàng thương mại đều có những điểm chung về rủi ro hoạt động, nhưng mỗi
ngân hàng lại có đặc thù hoạt động khác nhau vì thế việc mô tả rủi ro hoạt động đối
với ngành kinh doanh là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thông tin của thị trường về mức
độ rủi ro. Hơn thế nữa các ngân hàng hoạt động mạnh trên thị trường quốc tế càng
phải đẩy mạnh hoạt động quản trị rủi ro hoạt động để tạo uy tín và niềm tin cho khách
hàng.
Thứ tư, minh bạch thông tin về các khoản mục tài trợ ngoại bảng.
Hầu hết các ngân hàng đều mô tả rủi ro các hoạt động tài trợ ngoại bảg bằng
cách so sánh mức độ rủi ro với các tài sản nội bảng với mức độ rủi ro bằng hoặc thấp
hơn mà chưa đưa ra tính chất rủi ro của tài sản ngoại bảng một cách chính xác.
Ví dụ : Bảo lãnh tài chính là các cam kết có điều kiện mà ngân hàng cấp cho
khách hàng để giao dịch với một bên thứ ba trong các hoạt động về bảo lãnh vay vốn,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh dự thầu. Rủi ro tín dụng
liên quan đến việc cấp bảo lãnh về cơ bản giống rủi ro cho vay khách hàng hoặc Giao
dịch thư tín dụng thương mại trả ngay là loại giao dịch trong đó ngân hàng cung cấp

tài chính cho khách hàng của mình, thông thường người mua/nhà nhập khẩu hàng hoá
và bên thụ hưởng là người bán/nhà xuất khẩu. Rủi ro tín dụng trong thư tín dụng trả
ngay thường thấp do hàng hoá nhập khẩu được dùng để thế chấp cho loại giao dịch
này.
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

20


Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí
trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển
các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì
ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát
hành. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động
ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể phá sản.
Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng. Trong khi một số
hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro
ngoại hối và rủi ro tín dụng thì nếu việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc
không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng có thể dẫn đến
những tổn thất to lớn.
Thứ năm, minh bạch thông tin liên quan đến rủi ro chứng khoán của ngân hàng.
Thông tin liên quan đến mục đích kinh doanh chứng khoán, mức độ tham gia
vào hoạt động kinh doanh chứng khoán, phương pháp kế toán ghi nhận về hoạt động
chứng khoán, phân loại chứng khoán theo mức độ rủi ro điều chính.
Các định chế thị trường chứng khoán vẫn trong giai đoạn hoàn thiện, suy thoái
kinh tế thế giới năm 2008 đã làm đóng băng nhiếu thị trường hàng hóa, thị trường
chứng khoán cũng rơi vào tình trạng khó khăn, mà ngân hàng đóng vai trò là trung
gian tài chính, việc nắm giữ kinh doanh chứng khoản với rủi ro tăng cao sẽ ảnh hưởng

trầm trọng đến chức năng trung gian tài chính của ngân hàng.
Trong các báo cáo tài chính của ngân hàng thông tin rủi ro chứng khoán ít được
đề cập đến và cũng rất ít các báo cáo tài chính thuyết minh về các khoản đầu tư tài
chính lớn của mình. Các báo cáo chỉ công khai lãi lỗ từ hoạt động kinh doanh chứng
khoán, chứ không đề cập chi tiết các thông tin về phương pháp kế toán ghi nhận. Sự
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

21


phân biệt về rủi ro giữa các loại chứng khoán đối với chứng khoán kinh doanh, chứng
khoán đầu tư sẵn sàng bán, chứng khoán giữ đến đáo hạn và tỷ trọng giữa các loại
chứng khoán sẽ ảnh hưởng khác nhau đến mức độ rủi ro trong hoạt động chứng khoán
của ngân hàng.
Thứ sáu, chênh lệch thông tin và rủi ro đạo đức
Thông tin được công bố trên thị trường của các NHTM hiện nay vẫn còn mang
nhiều tính chất đối phó, các ngân hàng công bố thông tin nhưng những thông tin đó
chưa hẳn là những thông tin chính xác, chính vì thế đã dẫn đến sự chênh lệch về thông
tin trên thị trường. Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay
vốn luôn đối phó với Ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực,
mặc dù những số liệu này đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Điều này gây
rất nhiều khó khăn cho Ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh,
cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị. Nhiều khi các Ngân hàng thương mại có
những quyết định đầu tư không căn cứ vào số liệu báo cáo của đơn vị mà thường dựa
vào những cảm nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất nguy hiểm, đây
cũng chính là nguyên nhân của các khoản nợ xấu. Chính vì sự chênh lệch thông tin này
đã kéo theo những vấn đề về rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng.

Tại Agribank, tháng 5/2012, cơ quan công an cũng đã khởi tố, bắt giam nguyên

Giám đốc, Trưởng, Phó Phòng Tín dụng CN Hồng Hà khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
ký khống 8 bảo lãnh không hồ sơ, không hạch toán, không thu phí.

Theo số liệu của Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội, năm 2011, các cơ quan
pháp luật của thành phố đã xử lý 22 vụ tham nhũng thì có tới 10 vụ liên quan đến các
cán bộ ngân hàng, khởi tố 27 bị can là nhân viên các nhà băng.

Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

22


Thao Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, trong năm 2010 và 9 tháng đầu
năm 2011, cơ quan này đã xử lý 69 vụ, khởi tố 40 vụ, khởi tố bị can 70 cán bộ ngân
hàng, thiệt hại 8.000 tỷ, thu hồi được có 2.000 tỷ.

Ngân hàng là ngành nghề kinh doanh gắn chặt với tiền, rất nhiều tiền nên bị các
vấn đề đạo đức bủa vây là hiển nhiên. Mấu chốt của vấn đề là kiểm soát, kiềm chế thế
nào các vấn đề này thôi. Tuy nhiên, đây là chuyện không dễ nhất là khi các ngân hàng
Việt Nam còn yếu kém về kiểm soát, chủ quan và dễ dãi trong quản lý. Đặc biệt, mặc
dù đã áp dụng quy định của trụ cột 3 – Basel II trong việc giám sát ngân hàng nhưng
các điều luật vẫn còn chưa quy định rõ ràng, điều đó dẫn đến các cán bộ ngân hàng có
thể lợi dụng khe hở để lách luật, làm sai thông tin.

Hiện nay, tình hình tham ô, chiếm đoạt công quỹ tại các ngân hàng cũng đang là
một vấn đề lớn trong cơ cấu tái cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam, các nhà
quản lý sử dụng các kiến thức chuyên môn của mình để tạo ra các thông tin giả để
chiếm đoạt tài sản. Vì thế, ngoài kĩ năng chuyên môn các nhà quản lý cũng cần nâng
cao đạo đức nghề nghiệp của mình.


2.2 Đánh giá thực trạng áp dụng lý thuyết trụ cột thứ ba của Basel của các
NH tại Việt Nam:
Kỷ luật thị trường và minh bạch thông tin đã bắt đầu hình thành trong ngành
Ngân hàng Việt Nam, nhưng hoạt động còn yếu, trong đó thì các NHTM nhà nước
hoạt động yếu hơn so với các NHTM cổ phần.
2.2.1 Những thành quả đạt được
Để vấn đề thông tin ngày càng được minh bạch và đảm bảo tính chính xác,
NHNN đã có những cải tiến trong hoạt động đo lường rủi ro của các NHTM , NHNN
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

23


đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm để ấn định mức rủi ro. Cụ thể, hệ
thống NHTM Việt Nam được phân thành 3 nhóm lớn:
+ Nhóm thứ 1: gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực
và quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh
tranh với khu vực và quốc tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này chiếm
khoảng 80% thị phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
+ Nhóm thứ 2: nhóm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có
quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn
nữa. NHNN sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường
để đảm bảo cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả.
+ Nhóm thứ 3: nhóm ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải
cấu trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng lớn sẽ tham
gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư;
mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần.
- Về giải quyết nợ xấu: Qua một năm thực hiện các chính sách về tái cấu trúc của

NHNN và việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng cho đến tháng 11/2012, NHNN đã
giải quyết 252.000 tỷ đồng nợ được cơ cấu lại, tương ứng 8% dư nợ tín dụng. Cùng
với những nỗ lực của NHNN thì các ngân hàng cũng đã hy sinh ngắn hạn trong việc
giảm lợi nhuận để tăng dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu, đến nay các ngân hàng đã xử
lý được 39.000 tỷ nợ xấu. Chẳng hạn, Vietcombank đã phải trích lập 1.088 tỷ đồng
khiến lợi nhuận quí II/2012 chỉ còn 1.124 tỷ đồng, giảm 10% so với quí II/2011.
Tương tự, Vietinbank đã trích lập dự phòng 1.453 tỷ đồng nên lãi sau thuế quí II/2012
chỉ còn 5.645 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm trước. Eximbank và ACB cũng
phải trích lập dự phòng lớn khiến cho lợi nhuận bị suy giảm đáng kể. Việc thực hiện
giải quyết nợ xấu của ngân hàng là đúng đắn và điều này được thể hiện rõ khi chưa có
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

24


quyết định, chỉ thị để cơ cấu nợ, khắc phục xử lý nợ xấu, tốc độ tăng của nợ xấu lên
tới 8% - 9% mỗi tháng, nhưng cho đến nay, nợ xấu chỉ tăng trung bình 3% một tháng.
Bên cạnh chủ động xử lý nợ xấu bằng trích lập dự phòng, các NHTM đã tiến hành hỗ
trợ doanh nghiệp và tăng cường quản trị rủi ro tín dụng, mua, bán nợ thông qua công
ty mua, bán nợ của các ngân hàng và công ty mua, bán nợ của Bộ Tài chính.
- Về thanh khoản: Năm 2012, vấn đề thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng
đã được củng cố và ổn định. Ðiều này được thể hiện dựa trên các dấu hiệu sau đây: (i)
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng khá ổn định và giảm mạnh từ mức trên 20%
xuống còn 10% - 12% tùy thuộc vào kỳ hạn, đặc biệt các giao dịch qua đêm đã tạm
thời lắng dịu; (ii) Không có dấu hiệu sụt giảm tiền gửi trong khi các kênh đầu tư khác
như bất động sản, chứng khoán đang yên ắng; (iii) Thị trường không xuất hiện các
cuộc đua lãi suất huy động tiền gửi công khai.
NHNN đã giảm thiểu được rủi ro thanh khoản của hệ thống bằng cách phối hợp
với các ngân hàng mạnh hơn để cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng yếu hơn.

Chẳng hạn, tình trạng mất thanh khoản tạm thời liên quan đến các biến động trong
ngân hàng như thay đổi nhân sự cấp cao của ACB, STB… đã được NHNN hỗ trợ kịp
thời qua thị trường mở và thanh khoản của các ngân hàng này đã dần ổn định. Một số
ngân hàng nhỏ khác có nguy cơ mất khả năng thanh khoản đã được ngăn chặn và
đang hoạt động ổn định trở lại. Những sự kiện gần đây của một số ngân hàng như
Sacombank, Tienphongbank càng chứng tỏ sức đề kháng của toàn hệ thống khá tốt
và khả năng xử lý cú sốc của các NHTM và của NHNN đáng tin cậy. Hoạt động thị
trường liên ngân hàng đã được chấn chỉnh theo hướng minh bạch hơn. Nhiều NHTM quy
mô vừa trở lên đều có dự trữ vốn khả dụng tốt. Tăng trưởng huy động vốn từ dân cư khá
cao, kể cả nội tệ và ngoại tệ.
Cải thiện tình hình nguồn vốn của các NHTM phải đảm bảo hoạt động hiệu quả
và lành mạnh, cơ cấu vốn được công bố rõ ràng hơn. Từ cuối năm 2011 và trong năm
Đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam
2013

25


2012 đã chứng kiến nhiều sự kiện sáp nhập, hợp nhất, mua lại trong ngành Ngân
hàng. Cụ thể:
+ Ngày 01/01/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (Ngân hàng hợp
nhất) chính thức đi vào hoạt động sau khi hợp nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng thương
mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Ðệ Nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt
Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank).
+ Ngày 09/01/2012, Giadinhbank chính thức thay đổi hệ thống nhận diện thương
hiệu, với tên gọi mới là Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt sau khi được Quỹ
Ðầu tư Bản Việt mua lại toàn bộ.
+ Ngày 28/08/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank)
chính thức sáp nhập vào Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB).
Ðể thực hiện mục tiêu của NHNN, nhiều ngân hàng đã chọn cách liên kết một

phần để nâng cao tiêu chuẩn chất lượng ngân hàng. Có thể kể đến một số trường hợp
điển hình sau đây:
+ Ngân hàng ACB đã ký kết biên bản ghi nhớ với ngân hàng Standard Chartered
(SCB nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng VIP và chủ thẻ Visa Platium của ACB.
Theo đó, khách hàng cá nhân của ACB sẽ được hưởng thêm rất nhiều quyền lợi và
dịch vụ của SCB với 9 trung tâm dịch vụ khách hàng ưu tiên tại Malaysia và 3 trung
tâm dịch vụ khách hàng ưu tiên tại Singapore.
+ Ngân hàng BIDV đã ký thỏa thuận hợp tác với hai ngân hàng GPBank và
BacABank trong các lĩnh vực nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ
thương mại, thanh toán trong nước và quốc tế, hợp đồng tài trợ, hoạt động ngân hàng
bán lẻ ). BIDV cũng đã ký thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với SCB.

×