TIỂU LUẬN:
“TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” –
ÁNG HÙNG VĂN LẬP QUỐC
MANG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý
NGHĨA THỜI ĐẠI
Với tư cách bản Tuyên ngôn lập quốc của nước Việt Nam mới, trong suốt 65 năm
qua, “Tuyên ngôn độc lập” đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam với tư
cách lời tuyên bố đanh thép về quyền tự do, độc lập, quyền dân tộc tự quyết của dân
tộc Việt Nam, về các quyền cơ bản của con người mà nhân dân Việt Nam xứng đáng
được hưởng. Không chỉ thế,“Tuyên ngôn độc lập” còn được thừa nhận là nền tảng
chính trị - pháp lý của nước Việt Nam mới, hàm chứa những giá trị truyền thống và
đương đại, do vậy, nó luôn mang giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại và mãi trường tồn
cùng với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nhân kỷ niệm 65 năm Cách mạng
tháng Tám và Quốc khánh 2-9, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải giá
trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của “Tuyên ngôn độc lập”.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã đi vào lịch sử hào hùng với truyền thống hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam với tư cách ngày khai sinh ra
nước Việt Nam mới – nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông - Nam châu Á. Đó cũng là ngày mà cách đây vừa đúng 65 năm,
tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, giữa lòng thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt
Nam, người tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam –
đã thay mặt Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập để tuyên bố trước nhân dân toàn thế giới rằng, nước Việt Nam đã thực
sự trở thành nước tự do, độc lập; dân tộc Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam
xứng đáng có quyền hưởng tự do, độc lập ấy và các quyền cơ bản khác của con
người; vì các quyền xứng đáng được hưởng đó, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ và
giữ vững các quyền ấy.
(*)
65 năm qua, kể từ thời khắc lịch sử ấy, dân tộc Việt Nam ta đã trải qua một chặng
đường lịch sử đầy sóng gió, từ hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược đến khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 – đầu
những năm 80 của thế kỷ XX và những khó khăn, thử thách đầy cam go ở thời kỳ đổi
mới đất nước. Song, 65 năm đó cũng là chặng đường lịch sử hết sức hào hùng và rất
đỗi vẻ vang với những chiến công thần thánh, vang dội khắp năm châu bốn biển của
dân tộc Việt Nam ta, từ “Chiến thắng Điện Biên lẫy lừng thế giới” đến Đại thắng
mùa Xuân năm 1975 bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và giờ đây là những thành
công rất đáng tự hào của công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt chiều dài lịch sử 65 năm ấy, Tuyên ngôn Độc lập vẫn luôn khắc sâu vào
tâm khảm của bao thế hệ người Việt Nam chúng ta, vẫn sáng ngời giá trị lịch sử vĩnh
hằng và ý nghĩa thời đại lớn lao. Không chỉ thế, sau chặng đường 65 năm, giờ đây,
chúng ta hoàn toàn có quyền khẳng định và tin tưởng chắc chắn rằng,Tuyên ngôn
Độc lập mãi trường tồn với lịch sử dân tộc Việt Nam ta với tư cách ấy trong tương
lai. Không thể khác, bản Tuyên ngôn bất hủ này mãi đi cùng lịch sử dân tộc Việt
Nam ta không chỉ với tư cách một áng văn lập quốc vĩ đại, một kiệt tác về tư tưởng,
lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn với tư cách bản tổng kết những giá trị
tinh thần của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của dân tộc ta, nhân dân
ta; đồng thời cũng là lời Tuyên ngôn mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam
ta – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, trong 65 năm qua, nhiều chính khách, nhiều học giả trong giới nghiên cứu
và giảng dạy lý luận ở nước ta và trên thế giới đã đi đến một nhận định nhất quán
rằng, Tuyên ngôn Độc lậplà nền tảng chính trị - pháp lý của nước Việt Nam mới
(nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay), hàm chứa những giá trị truyền thống và đương đại, mang giá trị lịch
sử và ý nghĩa thời đại. Rằng, Tuyên ngôn Độc lập là lời tuyên bố về quyền lựa chọn
con đường độc lập, tự do của mỗi dân tộc, về quyền dân tộc tự quyết và các quyền cơ
bản của con người: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Khi trích dẫn lại những lời
bất hủ này trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ (công bố ngày 4 tháng
7 năm 1776), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa
là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(1) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T.). Tiếp
đó, khi trích dẫn lại một câu bất hủ nữa trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Dân chủ tư sản Pháp 1789 – 1794 (công bố ngày 26 tháng 8
năm 1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”(2) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T.).
Lời khẳng định đanh thép đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy,Tuyên ngôn Độc
lập của nước Việt Nam mới không chỉ là lời tuyên bố về quyền độc lập, tự do của
mỗi dân tộc, mà còn là lời tuyên bố về quyền độc lập, tự do của mỗi con người;
không chỉ là lời tuyên bố về quyền được sống, được tồn tại, được mưu cầu hạnh phúc
của mỗi dân tộc, mà còn là lời tuyên bố về quyền được sống, được tồn tại, được mưu
cầu hạnh phúc của mỗi con người; và khác với độc lập dân tộc giành được theo con
đường cách mạng dân chủ tư sản, ở đây, độc lập dân tộc gắn liền với lợi ích của nhân
dân lao động.
Không chỉ là lời tuyên bố về quyền độc lập, tự do, quyền được sống, được tồn tại và
mưu cầu hạnh phúc của mỗi dân tộc, mỗi con người, Tuyên ngôn Độc lập trước hết
và trên hết là lời tuyên bố về nền độc lập của nước Việt Nam mới, về quyền tự do,
dân chủ cho dân tộc Việt Nam, cho mỗi người dân của nước Việt Nam mới. Với
Cách mạng tháng Tám vĩ đại – thành quả của ba cao trào cách mạng do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo (cao trào 1930 – 1931 với đỉnh cao là Xôviết Nghệ tĩnh, cuộc
vận động dân chủ 1936 – 1939 và phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945), dân
tộc ta, nhân dân ta đã giành được nền độc lập cho dân tộc, quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân. Khi thực dân Pháp rút chạy, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, vua Bảo
Đại buộc phải thoái vị, chớp thời cơ lịch sử đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước
nhất tề đứng dậy giành chính quyền, “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100
năm… để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “đánh đổ chế độ quân chủ mấy
mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(3). Bởi vậy, nước Việt Nam mới
– nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn có quyền tuyên bố về quyền dân tộc
tự quyết, có quyền “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của
Pháp trên đất nước Việt Nam”. Và, “các nước Đồng minh đã công nhận những
nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn (Xan
Phanxixcô)”, cũng như các nước khác trên toàn thế giới “quyết không thể không công
nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”, bởi “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ
của Pháp hơn 80 năm…, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát
xít…, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(4). Với những lời
khẳng định đanh thép đó, thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
thay mặt toàn thể những người dân của nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Rằng, “toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”(5) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T.).
Như vậy, có thể nói, nếu Tuyên ngôn Độc lập của Cách mạng Mỹ và Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp chỉ đưa ra và khẳng định các quyền
cá nhân của con người như một sản phẩm tự nhiên mang tính tiền định, thì Tuyên
ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thay Chính phủ và
toàn thể nhân dân Việt Nam trịnh trọng tuyên bố với thế giới vừa đưa ra và khẳng
định quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, vừa đồng thời khẳng
định rằng, để đi tới các quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu sinh cho mỗi con người,
trước hết phải giành cho được quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Nói cách
khác, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới khẳng định nền độc lập tự do của
dân tộc là điều kiện đầu tiên, bao trùm và tiên quyết cho việc tạo dựng các quyền tự
do, dân chủ, quyền bình đẳng và mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc cho mỗi con người
và cho cả cộng đồng dân tộc. Rõ ràng, sự khẳng định đó được bắt nguồn từ truyền
thống vốn có của dân tộc Việt Nam ta – truyền thống đặt sự tồn tại của cả cộng đồng
dân tộc lên trên sự tồn tại của mỗi cá nhân con người, coi “quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy”(6).
Xuất phát từ truyền thống hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà xét, có thể nói, Tuyên ngôn Độc
lập của nước Việt Nam mới chính là sự kế thừa có sáng tạo để nâng lên tầm cao mới
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc – “Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước”(7). Vì những quyền thiêng liêng nhất ấy mà cả dân tộc ta,
hết thảy mọi người dân nước Việt “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(8) và cho “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn”, dân tộc Việt Nam cũng “kiên quyết giành cho được độc lập”, cũng quyết tâm
bảo vệ độc lập dân tộc, quyết tâm thực hiện bằng được độc lập, thống nhất trọn vẹn
cho dân tộc, cho đất nước.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta, ngay từ thế kỷ XI (năm 1077), anh hùng dân tộc
Lý Thường Kiệt, sau khi lãnh đạo quân dân nước Việt chống quân xâm lược nhà
Tống thắng lợi, đã viết “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” – áng văn bất hủ được nhân
dân truyền tụng và xem như bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Đến thế kỷ XV, sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh kéo
dài 10 năm (1418 – 1428) kết thúc thắng lợi, Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, người
cùng với Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) đã viết “Bình Ngô đại
cáo” – bản Tuyên ngôn Độc lập thứ hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam – để nêu cao
tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc ta và khẳng định đanh thép quyền
được sống, được tồn tại trong thái bình, thịnh vượng của người dân nước Việt. Tiếp
nối truyền thống hào hùng đó, sau Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh –
người không chỉ được tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, mà còn
được thừa nhận là người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ XX - đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập
thứ ba trong lịch sử dân tộc Việt Nam – Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới
để một lần nữa khẳng định nền độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam, sự toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc Việt Nam, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với các dân tộc
khác trên thế giới, khẳng định quyền thực sự làm chủ đất nước của mọi người dân
nước Việt và nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường, không bao giờ cam tâm làm nô
lệ của dân tộc ta, nhân dân ta.
(6)
Trong lịch sử thế giới, tính từ những thập niên cuối của thế kỷ XVIII, ngày 4 tháng 7
năm 1776, nhân loại toàn thế giới đã chứng kiến sự ra đời Tuyên ngôn Độc lập của
nước Mỹ. Đây không chỉ là lời tuyên bố về nền độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
sau khi kết thúc nội chiến, mà còn là lời tuyên bố về các quyền cơ bản của con
người, thể hiện nguyện vọng của các dân tộc thuộc địa ở Bắc Mỹ trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân Mỹ lúc bấy giờ. Sau đó 15 năm, ngày 26
tháng 8 năm 1791, nhân loại toàn thế giới lại được chứng kiến sự ra đời Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Dân
chủ tư sản. Bản Tuyên ngôn này đã công khai thừa nhận các quyền tự do, dân chủ
của con người, quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật, quyền chống áp bức,
bóc lột và do vậy, nó đã có ảnh hưởng lớn tới cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
đang chống chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Đầu thế kỷ XX, nhân loại toàn thế giới
lại một lần nữa được chứng kiến sự ra đời Tuyên ngôn về quyền của nhân dân lao
động bị áp bức của nước Nga Xôviết sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười vĩ đại
(ngày 7 tháng 11 năm 1917). Đây là bản Tuyên ngôn mở đầu một thời đại mới – thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thức
tỉnh giai cấp công nhân và toàn thể nhân loại bị áp bức, soi sáng con đường cho các
dân tộc bị nô dịch, áp bức đi tới cách mạng giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo bản Tuyên ngôn này của nước Nga Xôviết, Tuyên ngôn Độc lập của nước
Việt Nam mới đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại đương đại – thời kỳ
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa vùng lên giành độc lập, làm tan rã chế độ thực dân
cũ, đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội theo con đường quá độ gián tiếp, với phương
thức phát triển “rút ngắn”.
Sự ra đời Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới không phải là tự phát, mà đã
được suy ngẫm từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thanh niên yêu nước
Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An
Nam (ngày 18 tháng 1 năm 1919) gồm 8 điểm để đòi các quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân Việt Nam(9). Nó là kết quả của một sự khám phá lớn, của một quá trình
khảo nghiệm sâu sắc không chỉ những bản Tuyên ngôn lập quốc bất hủ trong lịch sử
nhân loại, mà cả những bản Tuyên ngôn lập quốc bất hủ và những bài học lịch sử
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc tự
quyết và các quyền cơ bản của con người đã gắn kết với nhau một cách nhuần
nhuyễn. Quyền dân tộc thiêng liêng và quyền cơ bản của con người – hai lĩnh vực
công pháp quốc tế và pháp luật quốc tế - đã được Người gắn kết hữu cơ với nhau,
hòa quyện với nhau làm một để từ đó, phát triển lên cùng với thực tiễn đấu tranh anh
dũng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm giành lại quyền
sống, quyền tồn tại cho dân tộc trong độc lập, tự do và bình đẳng với các dân tộc
khác, quyền tự do, dân chủ, quyền mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi
người dân nước Việt. Quyền dân tộc thiêng liêng mà Người đã khẳng định ở đây
cũng chính là quyền dân tộc cơ bản mà dân tộc ta hoàn toàn có quyền được hưởng.
Đó là sự độc lập về chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ. Độc lập cho
dân tộc mà Người khẳng định ở đây là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn của
một dân tộc. Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, văn hóa,
quốc phòng, an ninh… và toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập đó phải được thực hiện một
cách triệt để mà theo đó, nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc
chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nền độc lập đó
chỉ có ý nghĩa và giá trị thực sự, khi nó được thể hiện bằng quyền tự do, dân chủ và
hạnh phúc của nhân dân. Dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ và
hạnh phúc, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành không chỉ là
điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định khi trịnh trọng tuyên bố với thế
giới Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới, mà còn là hoài bão, là lý tưởng, là
ham muốn tột bậc, suốt đời của Người.
Tư tưởng độc lập cho dân tộc, tự do và dân chủ cho nhân dân, quyền cơ bản cho con
người mà, trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định, vẫn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay, khi mà giờ đây, chúng ta
và cả cộng đồng nhân loại tiến bộ trên thế giới đều nhận thức một cách rõ ràng rằng,
trong thời đại ngày nay, việc bảo vệ quyền con người phải được gắn kết với những
mục tiêu lớn của nhân loại: hòa bình và an ninh quốc tế, độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội. Thực tiễn lịch sử nhân loại nhiều thế kỷ qua cũng đã cho thấy, một dân tộc
không có chủ quyền thì ở đó, cũng không thể có con người tự do, dân chủ, bình
đẳng, hạnh phúc. Rằng, giờ đây, trong công cuộc đổi mới đất nước, việc chúng ta
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thực hiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa cũng chính là đang thực hiện và phát triển tư tưởng cơ bản đó
của Tuyên ngôn Độc lập.
Không chỉ khẳng định tư tưởng độc lập cho dân tộc, tự do và dân chủ cho nhân dân,
quyền cơ bản cho con người,Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới còn thể
hiện sâu sắc truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, ý chí độc
lập tự chủ, tự lực tự cường mà dân tộc ta đã hun đúc nên qua hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc Việt Nam, nhân
dân Việt Nam đã không phải một lần đối đầu với những thử thách khốc liệt và phải tự
mình lựa chọn hoặc là “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, chấp nhận hy sinh, mất mát cho dù có to lớn đến đâu
chăng nữa, kể cả tính mạng, xương máu, kể cả phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để
giữ vững quyền tự do, độc lập cho dân tộc, hoặc là chịu sự đồng hóa, nô dịch để rồi đi
đến chỗ diệt vong. Với những truyền thống quý báu, nhất là truyền thống yêu nước, đã
được hun đúc bởi chiều dài lịch sử, chiều sâu ý chí, bằng những cuộc đấu tranh kiên
cường, bất khuất, chấp nhận mọi hy sinh, mất mát, kể cả tính mạng, xương máu, dân
tộc ta, nhân dân ta đã đánh thắng nhiều thế lực xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp
bội, giữ vững quyền sống, quyền được tồn tại bình đẳng, quyền tự do và độc lập cho
dân tộc, “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” cho nhân dân với tư cách
những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, bảo vệ vững chắc cả ý chí lẫn khát vọng
được sống, được hạnh phúc trong độc lập, tự do cho cả cộng đồng dân tộc và cho mỗi
người dân nước Việt.
Không chỉ thể hiện sâu đậm truyền thống hào hùng, ý chí kiên cường, bất khuất xuyên
suốt lịch sử nhiều thế kỷ đó của dân tộc Việt Nam ta, của nhân dân Việt Nam
ta, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới còn phản ánh một tính cách, một tâm
thế cũng rất đặc thù Việt Nam – đó làsự đoàn kết, đồng tâm, nhất trí, cố kết dân tộc để
tạo nên sức mạnh cộng đồng và khát vọng vươn tới tự khẳng định mình với tư cách
một dân tộc, một quốc gia có chủ quyền với lòng tự tôn, tự hào chính đáng. Tính cách,
tâm thế đặc thù Việt Nam này đã trở thành một giá trị tinh thần mang sức mạnh vật
chất, có sức lôi cuốn, cổ vũ và nuôi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau, dù
trong máu lửa, đạn bom, dù có phải hy sinh cả tính mạng vẫn không đánh mất mình
với tư cách một dân tộc độc lập, không chấp nhận “trở thành cái bóng mờ của người
khác, của dân tộc khác”.
Thể hiện và phản ánh những truyền thống đó, những giá trị tinh thần đó của dân tộc ta,
nhân dân ta, trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đanh thép khẳng định, dù kẻ thù xâm lược có hùng mạnh đến mấy, kể cả khi
nó “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”,
hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”, “thi hành những luật pháp dã
man”, lập ra những chế độ khác nhau trên đất nước ta “để ngăn cản việc thống nhất
nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”, “lập ra nhà tù nhiều hơn trường
học”, “thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta”, “tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, “bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho
dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”, “làm cho nòi giống ta suy
nhược”(10),… thì khí phách anh hùng, tinh thần quật cường, ý chí bền bỉ, lòng quyết
tâm cao độ để giành lại độc lập, tự do, bình đẳng cho dân tộc, mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân của cả dân tộc ta, của mỗi người dân nước Việt
không những không hề bị mai một, mà càng được tôi luyện, hun đúc và nhân lên sức
mạnh vốn có của nó một cách mạnh mẽ. Và, chính là nhờ đó, chúng ta đã “dựng nên
nước Việt Nam độc lập”, “lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Lời khẳng định đanh
thép này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được minh chứng chẳng những bằng thắng lợi
hoàn toàn của Cách mạng tháng Tám vĩ đại, mà còn bằng “Chiến thắng Điện Biên lẫy
lừng thế giới”, bằng Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
(10)
Thêm nữa, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới còn là sự kết tinh cao đẹp
của bản lĩnh và phẩm giá con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Từ các bản Tuyên
ngôn dựng nước và giữ nước của các thế hệ cha ông chúng ta trong lịch sử đến Tuyên
ngôn Độc lập này, tiếng nói chung, ý chí chung của cả dân tộc ta đều được khẳng
định, được phản ánh và thể hiện một cách đậm nét, đanh thép. Dù cách diễn đạt, cách
thể hiện có khác nhau, nhưng các bản Tuyên ngôn ấy đều là những áng văn bất hủ và
trên hết, nội dung và ý tưởng vẫn là một. Dẫu cho khoảng cách về thời gian có thể
cách xa nhau hàng thiên niên kỷ, nhưng tư tưởng, quan điểm, quan niệm về quyền dân
tộc tự quyết, cơ bản và thiêng liêng của dân tộc Việt Nam với tư cách một quốc gia
độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, về các quyền con người của người Việt
Nam với tư cách con người theo đúng nghĩa của từ này đều được các bản Tuyên ngôn
ấy khẳng định một cách kiên quyết, tuyên bố một cách đanh thép mà “không ai chối
cãi được”, không ai “không thể không công nhận”.
Có thể nói, bản lĩnh và phẩm giá Việt Nam mà, trongTuyên ngôn Độc lập của nước Việt
Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh và thể hiện một cách sâu sắc là bản lĩnh và
phẩm giá của cả một dân tộc biết dựng xây và giữ gìn quyền sống, quyền tồn tại của cả
cộng đồng với tư cách một dân tộc; đồng thời cũng phản ánh một cách đậm nét khát
vọng sống, khát vọng tồn tại của con người Việt Nam; và hơn nữa, đó còn là khát vọng
được sống, được tồn tại trong độc lập, tự do với tư cách một động lực tinh thần mạnh
mẽ thúc đẩy mỗi con người Việt Nam và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam phát triển theo
hướng tiến bộ, văn minh.
Chúng ta đều biết, trong lịch sử nhân loại, “sự biến mất” trên bản đồ chính trị thế giới
của một số dân tộc nào đó, cộng đồng người nào đó đã được coi là sự kiện chứng tỏ
không ít dân tộc, không ít cộng đồng người, do những nguyên nhân khác nhau, đã
không vượt qua được sự nô dịch, đồng hóa của các thế lực xâm lăng. Xét trên bình
diện này, có thể khẳng định, việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mà, trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới chính là thành quả cao quý nhất trong lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, là thước đo sự trưởng thành vượt
bậc trong ý thức, tinh thần dân tộc, trong bản lĩnh và phẩm giá của người Việt Nam
chúng ta.
Trong lịch sử Việt Nam, lịch sử hào hùng của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,
dân tộc ta đã từng phải vượt qua không chỉ một lần nguy cơ bị đồng hóa, bị diệt vong
để rồi quật cường tự đứng lên, tự mình khẳng định quyền tồn tại, quyền tự quyết của
dân tộc mình. Thế nhưng, từ giữa thế kỷ XIX, vận mệnh dân tộc lại đứng trước một
thử thách mới, hết sức hiểm nghèo – đó là sự xâm lăng, nô dịch núp dưới chiêu bài
khai hóa văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng lại với ý đồ rất rõ ràng là xâm
chiếm vĩnh viễn, đồng hóa và xóa sổ Việt Nam trên bản đồ chính trị thế giới của một
cường quốc có tiềm lực kinh tế, khoa học – kỹ thuật, quân sự hùng mạnh hơn chúng ta
rất nhiều. Chính trong thử thách hiểm nghèo đó, bản lĩnh và phẩm giá con người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam được hun đúc suốt chiều dài lịch sử dân tộc lại một lần nữa
thức tỉnh, khơi dậy truyền thống hào hùng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước,
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Và, cũng chính bản lĩnh, phẩm giá cao quý đó đã
đưa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vượt qua lối mòn lịch sử đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin, kết hợp một cách tự nhiên tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin
để từ đó, bắt đầu sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người trên nền tảng lý luận cách mạng vô sản, lập trường, quan
điểm của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam, dẫn dắt Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhân dân Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam mới bằng Tuyên ngôn Độc lập bất hủ.
Ngày nay, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào mà nói rằng, Tuyên ngôn Độc lập – áng
hùng văn lập quốc vĩ đại - đã được cả dân tộc Việt Nam ta viết nên bằng xương máu,
bằng nghị lực, quyết tâm giành lại và bảo vệ, giữ gìn cho bằng được quyền sống,
quyền tồn tại trong độc lập, tự do, bình đẳng và dân chủ, trong hòa bình, hạnh phúc
của cả cộng đồng dân tộc và của mỗi người dân nước Việt. Rằng, “Tuyên ngôn Độc
lập là kết quả của bao nhiêu máu đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hy sinh của những con
người anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo
xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”(11). Rằng, Tuyên ngôn độc lập chính là sự
kết tinh, thể hiện và phản ánh truyền thống hào hùng, giá trị tinh thần bền vững, bản
lĩnh và phẩm giá cao đẹp của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong trường kỳ
lịch sử, chứa đựng cả giá trị lịch sử vĩnh hằng lẫn ý nghĩa thời đại to lớn. Bản Tuyên
ngôn Độc lập này còn là nền tảng chính trị - pháp lý của nước Việt Nam mới. Trên
bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế, Tuyên ngôn Độc lậpđều chứa
đựng những yếu tố vượt thời đại và với tư cách đó, nó mang sức sống mãnh liệt và
mãi trường tồn với thời gian.
Thật vậy, quyền dân tộc tự quyết, các quyền cơ bản của con người với tư cách những
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm mà, trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt
Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước nhân dân toàn thế giới
không chỉ là những giá trị bất hủ dành riêng cho dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt
Nam, mà còn là những giá trị bất hủ dành cho mọi dân tộc, cho cả nhân loại. Hướng
đến các quyền đó là xu thế tất yếu của mọi dân tộc, của tất cả mọi người trong cộng
đồng nhân loại ở thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó, khi Tuyên ngôn Độc lập được
công bố đã làm nức lòng các dân tộc và nhân dân các nước gần xa có chung cảnh ngộ
như dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam; nó báo hiệu một thời đại mới – thời đại
giải phóng các dân tộc và nhân dân các nước thuộc địa khỏi ách áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn cầu, thời đại phá tan xiềng xích của chủ nghĩa
thực dân, thời đại của các dân tộc và nhân dân các nước bị áp bức, bóc lột giành lại
quyền sống, quyền tồn tại trong độc lập, tự do, hòa bình và bình đẳng cho dân tộc
mình, quyền sống, quyền tự do, dân chủ và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân mình.
(11)
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và do vậy, phải “quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” là một giá trị
vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang ý nghĩa thời đại và do đó, là một giá trị vĩnh hằng
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã rút ra không chỉ từ thực tiễn đấu tranh của riêng
mình, của dân tộc Việt Nam, mà cả từ thực tiễn đấu tranh của nhiều vĩ nhân, nhiều dân
tộc trên thế giới trong suốt chiều dài lịch sử và đương đại. Giá trị này không chỉ luôn
được đặt ra trong thời kỳ chủ nghĩa thực dân đang thống trị thế giới, mà còn luôn được
đặt ra trong thời đại ngày nay, khi những kẻ đại diện cho quyền lợi ích kỷ của các
nước lớn, các cường quốc vẫn nhân danh quyền con người, ủng hộ dân chủ để can
thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các dân tộc khác, của các nước đang trên con
đường phát triển, tự khẳng định.
65 năm trước, trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bóc trần bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, hành động “trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa” của những kẻ nhân danh “lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” để áp bức, bóc
lột các dân tộc khác, can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của nước khác. Đó
không chỉ là vấn đề lịch sử, mà còn là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi, khi mà giờ
đây, các thế lực phản động quốc tế vẫn tiếp tục chiêu bài cũ và nhân danh quyền con
người, ủng hộ dân chủ để thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, can
thiệp thô bạo và ngày càng tinh vi vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc đang
trên con đường phát triển trong độc lập, tự chủ. Chính vì vậy mà giờ đây, đối với
chúng ta, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và bình đẳng, tiến bộ và công
bằng xã hội mà, trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng tuyên bố lại càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Cuộc đấu
tranh của chúng ta nhằm thực hiện cho kỳ được khát vọng đó còn gặp nhiều trở ngại,
thách thức to lớn, còn rất gian khổ và hết sức phức tạp. Song, có thể nói, thắng lợi của
cuộc đấu tranh này là tất yếu, bởi đó là quy luật phát triển của lịch sử, là nguyện vọng
và ý chí không chỉ của dân tộc ta, nhân dân ta, mà còn là nguyện vọng và ý chí của
các dân tộc, của nhân dân các nước trên phạm vi toàn thế giới, và do vậy, không một
thế lực nào, kể cả những thế lực có tiềm lực kinh tế, quân sự vào bậc nhất, có thể ngăn
cản được.
Nhân Kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 – 9 trong bối cảnh
nhân dân cả nước, cả dân tộc Việt Nam ta đang sôi nổi trong những hoạt động xã hội
rộng lớn hướng tới Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –Hà Nội, chúng tôi muốn
nói thêm rằng, Tuyên ngôn Độc lậphoàn toàn có cơ sở, cả lý luận lẫn thực tiễn, để mãi
trường tồn cùng thời gian với tư cách một áng văn lập quốc vĩ đại, bản hùng văn
mang đầy hào khí của một dân tộc anh hùng. Với những lập luận chặt chẽ, ý tứ sâu
xa, vừa đanh thép về luật pháp quốc tế, vừa nồng nàn tình cảm của một dân tộc vốn
luôn giữ vững “một thái độ khoan hồng và độ lượng”,Tuyên ngôn này hoàn toàn xứng
đáng được thừa nhận là một áng văn bất hủ không chỉ thể hiện và phản ánh được khí
phách hào hùng của các thế hệ người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc,
mà còn thâu tóm được cả tinh thần của thời đại chúng ta hôm nay.
Tuyên ngôn Độc lập này của nước Việt Nam mới còn hoàn toàn xứng đáng được coi
là một kiệt tác về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn, nhà hiền triết của thời đại chúng ta. Không chỉ thế, Tuyên
ngônnày còn thể hiện tình cảm yêu nước nồng nàn, lòng tự hào với truyền thống anh
hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam vốn đã in đậm dấu ấn ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ý chí sắt đá trong bản hùng văn này, độ nhạy cảm, tinh tế về chính trị, sự am hiểu sâu
sắc về nền văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, tính nhân đạo và nhân văn trong lối
sống, trong phong cách ứng xử, cộng với trí tuệ sắc sảo trong tư duy và tài hành văn,
sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đến độ tinh tế, trong sáng và uyển chuyển của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đem lại cho Tuyên ngôn Độc lập quyền mãi trường tồn cùng thời
gian không chỉ với tư cách một văn bản chính trị, một bản Tuyên ngôn lập quốc vĩ đại,
hoàn toàn xứng đáng như một áng hùng văn lập quốc mang giá trị lịch sử và ý nghĩa
thời đại, mà còn với tư cách nỗi niềm sâu lắng, khát vọng cháy bỏng của một dân tộc
mới hồi sinh và thực sự đã hồi sinh, là tiếng nói từ đáy lòng của một anh hùng dân tộc
suốt đời phấn đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc mình, dân tộc mình, cho
hạnh phúc của nhân dân mình – Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt
Nam. q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.1.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.1.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.3.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.3.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.4.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr.198.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.469.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.480.
(9) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.435 - 436.
(10) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.1 - 2.
(11) Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb Văn
học, Hà Nội, 1970, tr.116.
VỀ THÀNH TỐ "VĂN MINH" TRONG M
ỤC TIÊU CHUNG CỦA TOÀN
DÂN TỘC
LÊ HỮU TẦNG
(*)
Phân tích quan điểm của Đảng về mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta - “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, khi đặt thành tố “văn minh” trong mục tiêu chung của toàn dân tộc, trong bài
viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải tiến trình hình thành và phát triển của khái
niệm “văn minh”trong lịch sử tư tưởng nhân loại, cũng như những quan niệm khác
nhau về khái niệm này. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra và luận giải quan niệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự do, dân chủ, về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân
Việt Nam. Từ những luận giải đó, tác giả kiến nghị: nếu chúng ta vẫn giữ “văn
minh” như một thành tố trong mục tiêu chung, thì Đảng và Nhà nước nên có một văn
bản chính thức xác định rõ nội hàm của nó; hoặc thay thế nó bằng thành tố “tự
do” cho phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và với mục tiêu mà Người cùng toàn
Đảng, toàn dân tộc ta luôn kiên trì đấu tranh để thực hiện.
Cách đây gần nửa thế kỷ, ngày 01/12/1961, tại Đại hội đảng bộ Hà Nội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói:
“Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?
Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động(1).
Hơn 30 năm sau, vào tháng 1/1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng đã cụ thể hóa thêm quan điểm ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi khẳng
định: “Có ý kiến cho rằng hình thức sở hữu là phương tiện, không nên coi là mục
tiêu. Chỉ có tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân mới là mục tiêu.
Cần có nhận thức đầy đủ hơn và thống nhất hơn về vấn đề này.
Đúng là phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng,văn minh mới là mục đích cuối cùng”(2) (chúng tôi
nhấn mạnh - L.H.T.) của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định một cách cụ thể, rõ ràng mục đích cuối
cùng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó “dân giàu”, “nước
mạnh”, “công bằng”,“văn minh” đều được coi là các thành tố của mục đích cuối
cùng mà dứt khoát chúng ta phải đạt tới khi hoàn thành sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ấy(3).
Nhưng “văn minh” là gì?
“Văn minh” là khái niệm được nhà dân tộc học Mỹ - Lewis H. Morgan (1818 - 1881)
dùng để chỉ một trình độ phát triển của xã hội loài người với một phương thức sống
đối lập với tình trạng dã man. Theo sự trình bày lại một cách rất khái quát của
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” thì trong cuốn “Xã hội cổ đại ” của Morgan được xuất bản năm
1877, Morgan đã phân chia xã hội cổ đại ra thành các thời đại sau: “Thời đại mông
muội - thời đại trong đó việc chiếm hữu những sản vật tự nhiên sẵn có chiếm ưu thế;
những sản phẩm do con người tạo ra thì chủ yếu đều là những công cụ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chiếm hữu kia. Thời đại dã man - thời đại trong đó con người học
được cách chăn nuôi súc vật và làm ruộng, học được những phương pháp thông qua
hoạt động của con người để tăng việc sản xuất các sản vật tự nhiên. Thời đại văn
minh - thời đại trong đó con người học được cách tinh chế thêm những sản vật tự
nhiên, thời đại của công nghiệp - hiểu theo nghĩa đích thực của từ này - và của nghệ
thuật”(4).
Ph.Ăngghen đánh giá rất cao cuốn “Xã hội cổ đại” này của Morgan, coi đó là “một
trong số ít trước tác trong thời chúng ta tạo ra cả một thời đại”(5). Đáng chú ý là,
theo Ph.Ăngghen, “ở châu Mỹ, Morgan đã phát hiện lại, theo cách của ông, quan
điểm duy vật lịch sử mà Mác đã phát hiện ra cách đây bốn mươi năm, và tuân theo
quan điểm đó khi so sánh thời đại dã man với thời đại văn minh thì trên những điểm
chủ yếu ông cũng đã đi đến những kết quả giống như Mác”(6). Không những thế,
Ph.Ăngghen còn viết: “Morgan lại còn đi xa quá mức, bằng cách không những chỉ
phê phán nền văn minh - tức là xã hội của nền sản xuất hàng hóa (chúng tôi nhấn
mạnh - L.H.T.), hình thức cơ bản của xã hội hiện nay của chúng ta - một cách làm
cho người ta nhớ tới Furiê, mà lại còn nói đến một sự cải tạo sau này đối với xã hội
đó, với những lời lẽ giống như là của Các Mác”(7). Trong “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước”, ở chương IX, với tiêu đề “Thời đại dã man và
thời đại văn minh”, Ph.Ăngghen đã nói cụ thể hơn như sau: “Thời đại văn minh
là giai đoạn phát triển của xã hội trong đó sự phân công, sự trao đổi - do phân công
lao động đẻ ra - giữa những cá nhân, và nền sản xuất hàng hóa liên kết cả hai quá
trình đó, đều đạt tới mức toàn thịnh của chúng (chúng tôi nhấn mạnh - L.H.T.) và tạo
ra một cuộc đảo lộn trong toàn bộ xã hội trước đây”(8).
Từ những nhận định trên đây của Ph.Ăngghen, có thể thấy,Ph.Ăngghen không chỉ
tán thành quan niệm về "văn minh" của Morgan, mà còn coi biểu hiện cụ thể của nền
văn minh đương thời - thế kỷ XVIII - chính là xã hội của nền sản xuất hàng hóa.
Cũng trong thế kỷ XVIII, khái niệm “văn minh” được dùng với tính cách là một
thuật ngữ độc lập, có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm văn hóa. Các nhà triết học
Khai sáng Pháp gọi xã hội văn minh là xã hội được xây dựng trên các nguyên tắc
của lý tính và công bằng(9) (Vônte và các tác giả khác).
Theo cách phiên âm và theo truyền thống Anh - Pháp thì nghĩa của các thuật ngữ văn
hóa và văn minh là trùng nhau, nhưng ở Đức lại khác. Ở Đức, văn hóa là lĩnh vực
các giá trị tinh thần, còn văn minh bao gồm lĩnh vực các giá trị vật chất(10). Nhà văn
hóa học Hữu Ngọc cũng nhấn mạnh rằng: “Văn hóa bao gồm hệ thống những giá trị
để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay
trái…) theo cộng đồng ấy. Còn văn minhthì chỉ toàn bộ những phương tiện vật chất
và kỹ thuật phục vụ cho những mục đích lợi ích của đời sống con người trong quan
hệ của nó với môi trường”(11). TheoS.Hungtington - tác giả cuốn sách “Sự va chạm
của các nền văn minh” - thì các tư tưởng gia người Đức đã vạch một ranh giới rõ nét
giữa văn minh (là cái gì thuộc về công nghiệp, công nghệ, cả các yếu tố vật chất)
và văn hóa (là cái gì liên quan đến giá trị, lý tưởng và các phẩm chất trí tuệ, nghệ
thuật và đạo đức cao siêu của xã hội). “Quan niệm này không được ở đâu chấp
nhận”(12). Trong tài liệu mácxít trước đây thì khái niệm văn minh cũng được dùng
để chỉ nền văn hóa vật chất. Tuy nhiên, những cố gắng không mệt mỏi nhằm hạn chế
nội dung và ý nghĩa của khái niệm văn minh chỉ trong lĩnh vực các giá trị vật chất,
những phát kiến mới trong lĩnh vực kỹ thuật và những thành tựu trong lĩnh vực tạo ra
những tiện nghi mới cho cuộc sống của con người đang vấp phải sự phản đối có lý.
Những người phản bác lưu ý rằng, trong số các phát minh vĩ đại góp phần tạo nên
văn minh có những hiện tượng, như tổ chức nhà nước, thị trường, tiền tệ, luật pháp,
nền dân chủ, máy in, các phương tiện thông tin hiện đại, v.v Rõ ràng là, khoa học
và kỹ thuật hiện đại đang đưa lại và tiếp tục đảm bảo sự tiến bộ vật chất của xã hội,
nhưng không nên vì thế mà coi nội dung của văn minh chỉ bao gồm lĩnh vực các giá
trị vật chất(13).
Ngược lại với khuynh hướng tách bạch văn minh với văn hóa trên đây, lại còn có
khuynh hướng gắn văn minh với văn hóa, thậm chí đồng nhất chúng với nhau.
TheoS.Hungtington, ở ngoài nước Đức, nhiều người đồng ý với nhận định
của Braudel rằng, “muốn tách biệt văn hóa ra khỏi nền móng của nó là văn
minh theo cách người Đức thì thật là ngớ ngẩn”(14).
Đối với Braudel, một nền văn minh là “một không gian, một vùng văn hóa”, “một
tập hợp các hiện tượng và đặc điểm văn hóa”. Wallerstein định nghĩa văn minh là
một “tổng thể nhất định nào đó gồm nhãn quan thế giới, phong tục, cấu trúc và văn
hóa (cả văn hóa vật chất và phi vật chất) mà hình thành nên một tổng thể lịch sử nào
đó và cùng tồn tại (nếu không phải là luôn song song) với các biến thể khác của hiện
tượng này”. Còn theo Dawson, văn minh là sản phẩm của “một quá trình có cội
nguồn nào đó có tính sáng tạo văn hóa”, trong khi đó Durkheim và Mauss cho văn
minh là “một không gian đạo đức bao bọc một số dân tộc”. Với Spengler, văn minh
là “số mệnh tất yếu của văn hóa… Văn hóa là chủ đề chung có trong mọi định nghĩa
về văn minh”(15). Trong công trình “Lịch sử văn minh thế giới” của tập thể tác giả
do Vũ Dương Ninh chủ biên, (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008), các tác giả cũng định
nghĩa: “Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội
loài người, tức là trạng thái phát triển của nền văn hóa… Văn hóa là toàn bộ những
giá trị mà loài người sáng tạo ra từ khi loài người ra đời cho đến nay, còn văn minh
chỉ là những giá trị mà loài người sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã
hội. Vậy thì giai đoạn phát triển cao đó là giai đoạn nào? Đó là giai đoạn có Nhà
nước”(16).
Hai cách giải thích trên đây (hoặc tách biệt văn minh với văn hóa, hoặc đồng
nhất văn minh với văn hóa) được dùng khá rộng rãi trong triết học, xã hội học hiện
đại và được phản ánh trong sự đa nghĩa về văn hóa và văn minh trong các Từ điển và
các bộ Bách khoa thư. Tình trạng đa nghĩađó trầm trọng đến mức bộ “Bách khoa thư
triết học mới” gồm 4 tập do Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa
liên bang Nga chủ trì biên soạn, Nhà xuất bản “Tư tưởng” xuất bản tại Mátxcơva
trong các năm 2000 - 2001 đã buộc phải nhận xét rằng: “Tình trạng đa nghĩa trên đây
khi dùng thuật ngữ văn minh đã tạo nên ấn tượng rằng thuật ngữ này thiếu chặt
chẽ”(17) (chúng tôi nhấn mạnh - L.H.T.).
Sự thực, không phải chỉ khái niệm văn minh mới đa nghĩa, mà khái niệm văn
hóa còn đa nghĩa hơn. Theo nhà văn hóa học Hữu Ngọc, “có hàng trăm định nghĩa
khác nhau về Văn minh (civilisation) và Văn hóa (culture)” và một Giáo sư đại học
Inđônêxia cho biết trên thế giới có tới 160 định nghĩa từ văn hóa(18). Theo công
trình “Phương pháp luận và vai trò của văn hóa trong phát triển” do các Giáo
sư Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh đồng chủ biên, (Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1993), thì năm 1967, nhà văn hóa học Pháp - Abraham Moles cho biết đã có
250 định nghĩa về văn hóa. Năm 1992, nhà văn hóa học Phan Ngọc thông báo: Theo
một nhà dân tộc học Mỹ, “đã có ngót 400 định nghĩa khác nhau về cái từ văn
hóa”(19).
Tuy có quá nhiều định nghĩa về văn hóa, nhưng vào tháng 11 năm 2001, Đại hội
đồng UNESCO lần thứ 31 đã thông qua được “Tuyên bố toàn cầu về văn hóa”, trong
đó có đưa ra được một định nghĩa về văn hóa đáng chú ý: “Văn hóanên được
xem (chúng tôi nhấn mạnh - L.H.T.) là một tập hợp (the set) các đặc điểm nổi bật về
tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, và ngoài văn
học, nghệ thuật, nó còn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống
giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng”(20). Còn về văn minh thì bản
thânS.Hungtington ở gần cuối cuốn sách “Sự va chạm của các nền văn minh” đã viết
một cách dè dặt: “Văn minh có thể là (người trích nhấn mạnh) một sự hòa trộn phức
tạp các mức cao của đạo đức, tôn giáo, học vấn, nghệ thuật, triết học, công nghệ,
phồn thịnh, và có thể còn nhiều tố chất khác”(21).
Những điều vừa trình bày ở trên cho thấy cả khái niệm văn minh lẫn khái niệm văn
hóa đều là những khái niệm đa nghĩa, mặc dầu mức độ có khác nhau. Vì vậy,
dù đồng nhấtvăn minh với văn hóa hay phân biệt văn minh với văn hóa thì trên thực
tế, nghĩa của khái niệm văn minh vẫn không rõ ràng.
Tuy bất đồng trong các định nghĩa về văn minh, nhưng theo S.Hungtington, các học
giả nói chung đồng ý với nhau trong cách xác định các nền văn minh lớn trong lịch sử
đã từng tồn tại trên thế giới. Tuy nhiên, họ lại bất đồng về tổng số nền văn minh đã
tồn tại trong lịch sử. Quigleykhẳng định có 16 trường hợp và có thể có 8 trường hợp
bổ sung. Toynbee cho con số 21 rồi 23. Spengler cho con số 8 nền văn minh
lớn. McNeill đưa ra con số 9 nền văn minh trong toàn bộ lịch sử. Bagby cũng cho
cùng con số đó hoặc 11, nếu Nhật Bản được tính tách biệt khỏi văn minh Trung Hoa
và Chính thống giáo được tính tách khỏi châu Âu.Braudel có số 9, còn
theo Rostovanyi thì có 7 nền văn minh đương thời. Sau khi phục hồi thư tịch có liên
quan, Melkokết luận là “có sự nhất trí tương đối” cho ít nhất 12 nền văn minh lớn, 7
trong số đó không còn tồn tại (Lưỡng Hà, Ai Cập, Cretan, Cổ Đại, Byzantin, Trung
Mỹ, Andes thuộc Nam Mỹ) và 5 nền văn minh vẫn tồn tại (Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ,
Hồi giáo và Phương Tây). Cùng với 5 nền văn minh này cần bổ sung các nền văn
minh đương đại là Chính thống giáo Mỹ La tinh và có thể là châu Phi(22).
Ngoài ra, cũng có cách phân loại khác các nền văn minh. Căn cứ vào trình độ, giai
đoạn phát triển và những đặc điểm phát triển của mỗi vùng, miền, thời kỳ, v.v. người
ta phân ra, chẳng hạn, nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh công nghiệp, nền
văn minh hậu công nghiệp, rồi nền văn minh cổ đại, nền văn minh trung thế kỷ, nền
văn minh phương Đông, nền văn minh phương Tây, hoặc như ở Việt Nam, các nhà
nghiên cứu cũng nhắc đến không ít lần những nền văn minh được cho là đã tồn tại ở
nước ta, như nền văn minh Đại Việt, nền văn minh lúa nước, nền văn minh sông
Hồng, nền văn minh Sa Huỳnh, v.v
Các cách phân loại trên đây được tiến hành trong khi ở trên thế giới, nội hàm của
khái niệm văn minh vẫn chưa được rõ ràng, còn ở Việt Nam thì có lẽ lại càng chưa
được rõ ràng hơn. Tác giả Hữu Ngọc có kể lại trong mục Thắc mắc về "Văn
minh" được viết năm 1997 và được in trong cuốn “Lãng du trong văn hóa
Việt Nam”, được xuất bản năm 2008:
Một hôm, chị bạn Diane, nhà báo và nhà dịch thuật Mỹ, hớt hải đến tìm tôi ở văn
phòng, nét mặt băn khoăn. Chị bảo: “Trên báo chí Việt Nam và ở các bản tuyên bố
chính thức, tôi luôn luôn thấy khẩu hiệu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh”. Cứ mỗi lần phải hạ bút dịch từ “văn minh là civilized”, tôi lại tự hỏi: Tại
sao các bạn luôn luôn nói là dân tộc mình có ba bốn nghìn năm “văn hiến, văn minh”
mà bây giờ mới bắt đầu xây dựng một xã hội văn minh? Tôi cho là có lẽ các bạn
dùng từ “văn minh” với một nghĩa đặc biệt cho một thời kỳ lịch sử. Vậy nội dung
khái niệm ấy là gì?
Tôi rất cảm kích khi nghe tâm sự của Diane, một người bạn thân thiết đã ủng hộ Việt
Nam trong cuộc chiến tranh chống xâm lược.
Chị Diane suy nghĩ mông lung về từ “văn minh” và đi hỏi các bạn Việt Nam. Các
bạn Việt trả lời mỗi người một cách như sau:
- Xã hội văn minh có nghĩa là khi ăn trầu, không nhổ nước bọt đỏ lòm ra phố.
- Ứng xử văn minh ư? Thí dụ, ra ngoài đường đi xe đạp, xe máy, đi bộ, v.v. theo
đúng luật lệ giao thông.
- Văn minh còn có nghĩa là hành động theo lẽ phải, làm đúng không phải chỉ vì luật
pháp hay có ai đó bắt buộc mình phải làm.
- Văn minh có nghĩa là cố gắng làm cái gì tốt, đẹp, thật.
- Văn minh nghĩa là phải hiện đại như ở Âu, Mỹ hay ở các nước châu Á phát triển
khác.
- Văn minh có nghĩa là không đánh vợ; không đẻ ra một đàn con để chúng nhếch
nhác; không dùng ma túy,…
- “Xây dựng một xã hội văn minh” chủ yếu là nhằm chống lại “sinh hoạt nông thôn
lạc hậu”.
- Văn minh không có nghĩa là học vấn kiểu hàn lâm, mà là các mối quan hệ nhân sự,
ứng xử. Một người có thể hiểu biết về khoa học uyên bác mà vẫn thiếu văn minh.
- Văn minh là không ích kỷ, nghĩ đến tập thể.
- Có vị giáo sư đại học trình bày: “Có nhiều nền văn minh. Việt Nam có nền văn
minh lúa nước đã mang lại những giá trị văn hóa nhân văn, đạo đức, lễ độ, là sức
mạnh của dân tộc Việt Nam, cần bảo vệ chống lại những yếu tố dã man của hiện đại”
v.v (23).
Chắc những câu trả lời tương tự những câu được tác giảHữu Ngọc kể lại trên đây
cũng còn không ít kể từ năm 1994 - năm mà khẩu hiệu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh” được coi là mục tiêu cuối cùng của chúng ta và lần đầu tiên
được chính thức ghi vào một trong những văn kiện rất quan trọng của Đảng - Văn
kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Mặc dầu vậy, cho đến nay,
kể từ năm 1994, vẫn chưa có một văn kiện nào của Đảng giải thích rõ thuật ngữ “văn
minh” trongmục tiêu cuối cùng kể trên được dùng theo nghĩa nào?
Trong tình hình không chỉ ở Việt Nam, mà cả ở nhiều nơi trên thế giới, thậm chí
ngay trong giới học giả, nội hàm của khái niệm "văn minh" vẫn chưa rõ ràng thì để
cho thành tố"văn minh" trong "mục tiêu cuối cùng" có thể thực sự đi vào cuộc sống,
thực sự trở thành một thành tố trong "mục tiêu chung của toàn dân tộc” là “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì có lẽ, ít nhất cũng nên có một
văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta xác định rõ nội hàm của khái niệm
“văn minh” mà chúng ta dùng ở đây gồm những đặc trưng nào, những tiêu chí nào và
mức độ của mỗi tiêu chí ấy ra sao? Đây là một việc làm cần thiết vì một lẽ rất giản
đơn là, nếu mọi thành viên trong cộng đồng đều không có ai biết “văn minh” là gì thì
cả cộng đồng cũng sẽ không biết phải làm thế nào để đạt được nó, để biến nó thành
hiện thực.
Trong trường hợp chưa nên hoặc chưa thể thực hiện được yêu cầu nói trên vì còn có
những khó khăn nhất định thì nên chăng tính tới khả năng thay thế thành tố văn
minhtrong “mục tiêu cuối cùng” bằng thành tố “tự do” - một trong những khát vọng
cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của cả dân tộc ta trong suốt cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do cho toàn dân tộc.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở
Pháp trong “Hội liên hiệp thuộc địa” và tờ báo “Người cùng khổ”, Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh đã viết:
“Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc.
Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta.
Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ rađấu tranh giành tự do độc lập”(24) (chúng tôi nhấn
mạnh - L.H.T.).
Gần 10 năm sau, dưới sự chủ trì trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, sau khi Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập, Đảng đã thông qua “Chánh cương vắn tắt”, “Sách
lược vắn tắt của Đảng” và "Chương trình vắn tắt của Đảng", trong đó ghi rõ: “Về
phương diện xã hội thì: Dân chúng được tự do tổ chức”, Đảng phổ biến khẩu hiệu
“Việt Nam tự do”, còn trong “Lời kêu gọi”, Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi mọi người
bị áp bức bóc lột hãy gia nhập Đảng và đi theo Đảng để “đem lại mọi quyền tự do
cho nhân dân”(25).
Gần 10 năm sau nữa, vào năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng, Mặt trận “Việt Nam độc lập đồng minh”
(gọi tắt là Việt Minh) đã ra đời. Tháng 10/1941, Tổng bộ Việt Minh đã công
bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình là liên hiệp
tất cả các tầng lớp nhân dân đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt
Nam hoàn toàn độc lập. Trong Chương trình của Việt Minh ngay từ khi ấy đã có ghi
rõ, về chính trị: “Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước, tự do xuất
dương”(26).
Tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập do Người khởi thảo tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, sau khi nhắc lại những “lời bất hủ trong
bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Và, trong bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791”:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(27).
Chính vì những lẽ phải không ai chối cãi được đó mà nhân dân Việt Nam, cũng như
nhân dân các nước khác, có quyền và phải được sống trong tự do. Chiều 16/1/1946,
trả lời các nhà báo trong và ngoài nước về Liên bang Đông Dương, Hồ Chí Minh
nói: “Nếu người ta muốn dùng chữ Liên bang Đông Dương để làm thành một cái gì
giam trói, ràng buộc quyền tự do, quyền sinh hoạt của chúng tôi, nhất định không thể
xong được. Bởi vì ai cũng muốn sống tự do”(28). Xuất phát từ tinh thần ấy, ngày
19/9/1945, Hồ Chí Minh xác định: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào
một mục đích duy nhất (chúng tôi nhấn mạnh - L.H.T.) làmưu tự do hạnh
phúc cho mọi người”(29). Ngày 17/10/1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các Kỳ,
Tỉnh, Huyện và Làng, Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”(30). Ngày 21/01/1946, trả lời
các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh đã bộc bạch tâm tư sâu kín của mình: “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành (chúng tôi nhấn mạnh - L.H.T.). Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho
nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ
già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”(31). Với ham
muốn tột bậc đó, khi thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn ngày 23/9/1945 mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam một lần nữa, Hồ Chí Minh đã kiên cường tuyên bố:
“Dân chúng Việt Nam quyết rỏ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho sự tự do”(32).
Ngày 21/12/1946, Hồ Chí Minh một lần nữa tuyên bố: “Dân tộc Việt Nam thà chết
chứ không chịu mất độc lập và tự do”(33). Và sau này, không bao lâu trước lúc đi xa,
khi đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang ném bom miền Bắc, kể cả vùng đông dân ngoại
ô Hà Nội và Hải Phòng, Hồ Chí Minh đã tuyên bố ngày 17/7/1966: “Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không
sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”(34)
Có thể nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là một trong những sợi chỉ đỏ xuyên
suốt tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở nhiều nơi, nhiều lúc, khi có dịp, Người đều bày tỏ lòng
mong muốn “kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ,
tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”(35), “xây dựng một xã hội mới,
một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính”(36). Mục đích của
cách mạng Việt Nam là “xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do,
giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung
sướng vẻ vang”(37). “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là
thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lí. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”(38). Tự do,
theo Ph.Ăngghen, là năng lực hành động trên cơ sở nắm được cái tất yếu, còn theo
một tác giả khác thì tự do là có thể làm bất cứ điều gì không hại đến người khác,
không vi phạm quyền tự do của người khác. Mức độ phức tạp của các quan niệm trên
đây về tự do có thể khác nhau, nhưng những cách giải thích ấy ít nhiều người dân có
thể hiểu được, có thể tiếp nhận được. Trong khi đó, khái niệm văn minh quá đa nghĩa.
Vì vậy, theo chúng tôi, ta nên nghĩ đến phương án thay thành tố “văn minh” bằng
thành tố “tự do”. Việc thay này sẽ giúp người dân dễ hiểu hơn và do đó dễ làm hơn.
Và, việc thay thế này thực ra không phải là một việc gì quá mới vì ngay từ năm 1946,
giữa lúc ở trong nước thù trong không ít mà giặc ngoài cũng nhiều, đang câu kết với
nhau gây cho ta rất nhiều khó khăn, có những khó khăn tưởng như không thể vượt qua
được, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa những quyền tự do ấy vào “Hiến pháp nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa” - văn bản pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất của Nhà nước
ta - lúc bấy giờ. Còn hiện nay, thế và lực của ta mạnh nhiều gấp bội so với 64 năm
trước.