Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Đề tài: Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Thực trạng pháp luật và giải pháp potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.7 KB, 41 trang )

Luận văn
Đề tài: Trách nhiệm của
doanh nghiệp trong việc bảo
vệ môi trường. Thực trạng
pháp luật và giải pháp
1
MỤC LỤC
Trang
A. Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………….3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài…………………………………………4
3. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………….5
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………….5
5. Bố cục đề tài………………………………………………………………………5
B.Nội dung
Chương I: Khái quát chung về môi trường
1.1. Khái quát chung về môi trường và bảo vệ môi trường……………………….6
1.2. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đối với những tác động của môi
trường……………………………………………………… 12
1.3. Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm của doanh nghiệp với bảo vệ môi
trường………………………………………………………………………….16
Chương II: Trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp
2.1. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường………………… 20
2.1.1. Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện các nội dung trong báo cáo các đánh giá tác
động môi trường………………………………………………………………………20
2.1.2. Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện các nội dung cam kết BVMT…… 24
2.1.3. Sử dụng các công nghệ, thiết bị thân thiện môi trường……………………… 25
2.1.4. Thực hiện các quy định về quản lý chất thải………………………………… 26
2.1.5. Nghĩa vụ nộp thues môi trường……………………………………………… 27
2.2. Trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong hệ thống pháp luật Việt


Nam…………………………………………………………………………… 31
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp
3.1. Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp……………………………………… 37
3.2. Nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp……………………… 38
3.3. Hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường tại doanh nghiệp…………… 38
C. Kết luận………………………………………………………………………… 40
D. Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………40
2
Bảng nội dung hoạt động nhóm 15
STT Họ tên Nhiệm vụ MSSV Thang
điểm
1 Mai văn xuân (NT) Chương 1và 2 1055032049 A
2 Vũ Huyền Trang Mục A và C 1055023724 A
3 Nguyễn Thị Trinh Chương 1 và 2 1055023437 A
4 Vương Đức Chính Chương 3 và C 1055036279 A
5 Dương Văn Ước Chương 1 và 3 1055036320 A
6 Nguyễn Thị Thái Chương 3 và A 1055036178 A
Nội dung hoạt động nhóm:
Sau khi chọn được đề tài nhóm 15 bao gồm các thành viên trên đã họp hai lần:
+ lần 1 vào ngày 10/04 tại phòng A4 201: số lượng đầy đủ
+ Lần 2 vào ngày 17/04 tại phòng A2 102: số lượng đầy đủ
Trong hai lần họp nhóm chúng tôi đã thống nhất đề cương và bắt đầu giao nhiệm vụ
cho từng cá nhân như bảng trên. Trong các mục lớn của từng chương chúng tôi cũng đã
phân cho mỗi cá nhân đảm nhận từng công việc cụ thể để tránh làm lạc đề.
Qua quá trình họp nhóm. Với tinh thần của toàn đội. Nhóm trưởng đã quyết định
chấm điểm cao nhất cho tất cả các thành viên trong nhóm.
A. LỜI NÓI ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay trên phạm vi toàn cầu, môi trường sinh thái đang bị ô nhiễm trầm trọng.
Đó là một trong những vấn đề toàn cầu của thế giới hiện nay; nó có tác động trực tiếp đến
mọi quốc gia, vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
của chúng ta. Ô nhiễm môi trường đã đang và sẽ là một vấn đề hết sức cấp bách, gây bức
xúc trong cộng động quốc tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động
sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra ngày càng trầm trọng, đe doạ đến sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của thế hệ hiện tại và tương lai. Để giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có sự hợp tác của toàn nhân loại. Nếu có sự
hiểu biết đúng đắn về môi trường, chúng ta sẽ có giải pháp hợp lý giúp chúng ta bảo vệ
môi trường thế giới ngày càng xanh, sạch đẹp.
Một trong những thủ phạm gây ra ô nhiễm môi trường chính là hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp trên thế giới và tình trạng ô nhiễm môi trường trong
họat động sản xuất kinh donh của các doanh nghiệp ở Việt Nam cũng không phải là ngoại
lệ. Những năm gần đây sự mở rộng và phát triển của quá trình đô thị hóa tăng nhanh đặc
biệt là trong hoạt động sản xuất của các nhà máy xí nghiệp , các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp trong nước phát triển nhanh cùng với đó là việc sản xuất lại không gắn
liền với việc bảo vệ môi trường nên đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng gây tác hại
lớn cho môi trường nước ta. Theo thống kê của cơ quan chức năng mỗi ngày hoạt động
kinh doanh, sản xuất của các doanh nghiệp thải ra môi trường hàng nghìn tấn nguyên liệu
thải chưa qua xử lý. Đấy là chưa kể đến các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các
nghành dịch vụ với lượng xả thải các chất thải chưa xử lý ra môi trường cũng là rất lớn.
Trong những năm gần đây đã xảy ra liên tiếp các vụ việc xả thải chất thải chưa qua
xử lý ra môi trường gây hoang mang trong xã hội, đó là hành vi xả thải chất thải chưa qua
xử lý của công ty VEDAN ra sông Thị Vải ( tỉnh Đồng Nai) và hành vi xả thải chất thải ra
sông Trà ( Quảng Ngãi) của nhà máy cồn - rượu Quảng Ngãi đã làm giấy lên mức độ
nghiêm trọng của môi trường do hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp ở nước ta và đã
đặt ra cho doanh nghiệp và nhà nước về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc bảo vệ
môi trường. Ở trên thế giới có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất gắn với việc
bảo vệ môi trường và coi đó là chiến lược trọng tâm quyết định đến sự phát triển bền
4

vững của mình. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, số lượng các doanh nghiệp chưa chú trọng
lắm trong việc coi trách nhiệm hoạt động của mình với việc bảo vệ môi trường. Mới chỉ
có được một số ít doanh nghiệp mà chủ yếu là những doanh nghiệp lớn đã và đang làm
điều này nhưng lại thiếu chiến lược phát triển bền vững và mới manh nha trong vấn đề
trên đấy là còn chưa kể ở nước ta hiện nay còn có hàng nghìn cơ sở sản xuất kinh doanh
quy mô vừa và nhỏ thì việc thực hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường
cũng không gặp không ít khó khăn mà cả toàn xã hội phải có trách nhiệm ra sức bảo vệ
môi trường ở nước ta hiện nay. Vụ việc về công ty VEDAN hay công ty cồn – rượu
Quảng Ngãi là một điều đáng báo động trong việc gắn chặt trách nhiệm của doanh nghiệp
với việc bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy mà vấn đề trách nhiệm môi trường phải được thực hiện quyết liệt,
triệt để trong toàn xã hội mà trong đó có một phần trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
vấn đề này để môi trường ở nước ta thêm trong sạch và bền vững, tránh được những tác
động của biến đổi khí hậu đang ngày một diễn ra phức tạp trên đất nước ta. Chính vì vậy
mà nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “ Trách nhiệm của doanh nghiệp trong
việc bảo vệ môi trường. Thực trạng pháp luật và giải pháp” làm đề tài bài tập nhóm
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: “ Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường.
Thực trạng pháp luật và giải pháp” là nhằm đưa đến cho người đọc có khái nhìn hách
quan về thực trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp trong cả nước từ đó gắn chặt trách nhiệm của doanh nghiệp với việc bảo vệ môi
trường thông qua những hành vi sản xuất, kinh doanh của mình. Đồng thời đề xuất và đưa
ra những giải pháp trên tinh thần nhóm đã nghiên cứu để hoạt động trên được thực hiện
một cách hiệu quả hơn.
Để đạt được mục đích nêu trên, bài làm dựa trên sự tìm tòi, nghiên cứu trên tinh
thần khách quan từ thực tế môi trường nước ta hiện nay và các quy định của pháp luật quy
định chi tiết, cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Dựa
vào kết quả đó nhóm nghiên cứu đã đưa ra và giải quyết những vấn đề sau đây:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản để làm rõ bản chất của vấn đề nêu trên

5
+ Đánh giá đúng thực trạng hoạt động và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
việc bảo vệ môi trường
+ Đề xuất và đưa ra một số giải pháp nhằm năng cao trách nhiệm của doanh nghiệp
đối với việc bảo vệ môi trường
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp: phân tích
luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với phương pháp
phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Đảng trên tinh thần
các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11
năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình xã hội và
yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo
vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
5. Bố cục đề tài
Ngoài ba phần là phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo
thì trong phần nội dung của đề tài được phân thành ba chương như sau:
- Chương I: Khái quát chung về môi trường và hoạt động của doanh nghiệp trong việc
bảo vệ môi trường.
- Chương II: Thực trạng hoạt động và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ
môi trường.
- Chương III: Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp
trong việc bảo vệ môi trường.

6
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái quát chung về môi trường
1.1.1. Khái niệm môi trường
Thuật ngữ “môi trường” có thể được dùng trong rất nhiều các trường hợp khác
nhau như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường pháp lý,…Tất cả các thuật
ngữ trên đều có điểm chung là: “là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có một
ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện nào đó”.
Môi trường theo nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên
và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ hay
sinh vật ấy”, là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến
sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”, là “nơi chốn trong các nơi chốn, nhưng có
thể làm một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kỳ hay một xã
hội”.
Môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lý là một khái niệm được hiểu như là như
là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những
yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh con người. Khoản 1 điều 3 Luật Bảo vệ môi
trường được Quốc hội nước cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ hợp thứ 8 thông
qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường “bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất
nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự sống, sản xuất, sự tồn tại và phát
triển của con người và sinh vật”.
Theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm
trong mối quan hệ với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo
thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường.
Như vậy bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong một môi trường của
nó. Tuy nhiên môi trường, cái mà loài người hiện nay phải đối mặt và nghiên cứu bảo vệ
nó là môi trường sống bao quanh con người.
7
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh học, tồn

tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là
ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả không khí, động, thực vật, đất,nước… Môi trường tự
nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp
cho con người các loại tài nguyên khoáng cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng,
đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh để giải trí, làm cho cuộc sống con người
thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người với người, đó là những
luật lệ, thể chế, cam kết, quy định… Ở các cấp khác nhau như: Liên Hiệp Quốc, hiệp hội
các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức
tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo
một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho
cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và
phát triển.
1.1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới
góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó những yếu tố hóa
học, lý học của nó thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm
môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lí, hóa
học, sinh học mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con
người, các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Dưới góc độ pháp lý. ô nhiễm
môi trường là sự biến đổi của các thành môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi
trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (khoản 6 điều 3 Luật bảo vệ môi
trường năm 2005).
Có thể thấy điểm chung nhất giữa các định nghĩa nêu trên về ô nhiễm môi trường là
chúng đều đề cập đến sự biến đổi các thành phần môi trường theo hướng xấu, gây bất lợi
cho con người và sinh vật. Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm. Tuy nhiên,
8
môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ

các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật
liệu. Điều này có nghĩa là những nguyên tố tự nhiên nào đó do sự tác động của con người
dẫn đến nó bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi không còn phù hợp với những tiêu chuẩn
môi trường. Ví dụ như: Tại khu dân cư người ta tiến hành đo đạc và phân tích hàm lượng
khí SO
2
trong không khí thấy giá trị của nó là 0,5 mg/m
3
. Theo quy chuẩn Việt Nam
(QCVN) 05:2009 của Bộ tài nguyên môi trường thì giới hạn cho phép của thông số này là
0,3 mg/m
3
. Như vậy không khí khu dân cư đó đã bị ô nhiễm khí SO
2
.
1.1.3. Khái niệm bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động nhằm giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, ngăn chặn, khắc phục
những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Theo khoản 3 điều 6 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 có quy định: “Hoạt động
bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn
chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy
thối, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”.
Thế giới ngày càng phát triển đã gây nên tác động xấu đến môi trường, làm cho môi
trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn
của hành tinh chúng ta. Vì vậy vấn đề môi trường và phát triển đã trở thành vấn đề hết sức
cấp bách của chúng ta. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và
mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc

biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước” đã chỉ rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của
đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh
xóa đối giảm nghèo của mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên
phạm vi toàn thế giới”. Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường là “ngăn ngừa ô nhiễm
9
môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở các nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo
tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp,
đô thị và nông thôn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
1.1.4. Chức năng và vai trò của môi trường
a) Chức năng của môi trường
Môi trường là cái nôi sinh thành và phát triển của con người. Những yếu tố cấu
thành môi trường như không khí, nước, ánh sáng đều rất quan trọng đối với con người.
Không khí để thở, nước để ăn uống và sinh hoạt, không gian là nơi để con người sinh
sống… tất cả đều là những thành phần của môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự tồn
tại của con người. Sống trong môi trường, con người một mặt chịu ảnh hưởng của nhân tố
môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường và làm cho môi trương biến
đổi, sự ảnh hưởng của môi trường lại ảnh hưởng trở lại con người. Sự phát triển kinh tế -
xã hội, hay nói cách khác sự phát triển là một quá trình sử dụng các tài nguyên sống và
không sống để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát triển của
xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng sau:
Thứ nhất: Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của
con người. Chức năng đầu tiên của môi trường là nơi sinh sống và phát triển của xã hội
loài người. Với chức năng này môi trường là nơi cung cấp hệ sinh thái như yếu tố vật chất
cơ bản giúp sự tồn tại và phát triển của con người bao gồm không khí, nguồn nước, đất,

cây cối, rừng và sinh vật. Những yếu tố này bị tổn hại đến một mức độ nhất định thì hậu
quả của nó đe dọa đến sự sống của con người. Môi trường là không gian sống, là khung
cảnh lao động, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của con người.
Thứ hai: Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng
lao động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật
chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái
tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì
gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng đối với môi trường. Với chức
10
năng thứ hai này môi trường là nơi cung cấp nguyên liệu và năng lượng phục vụ hoạt
động sản xuất kinh tế và đời sống của con người. Để tồn tại và phát triển, con người phải
dựa vào các tài nguyên sẵn có trong tự nhiên và môi trường là nơi cung cấp các yếu tố đó.
Thứ ba: Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc
sống của con người và của quá trình sản xuất.
Trong quá trình sinh sống và phát triển xã hội, con người một mặt khai thác các
nguồn tài nguyên để sinh hoạt và sản xuất các loại hàng hóa khác nhau nhưng lại thải vào
môi trường các chất thải trong quá trình sinh hoạt và sản xuất.
b) Vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội
Từ việc nhận thức chức năng của môi trường cho thấy môi trường có vai trò đặc biệt
đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Môi trường là không gian chứa đựng các cơ thể sống bao hàm xã hội loài người, giới
sinh vật (động vật và thực vật). Mỗi cơ thể sống không thể tồn tại ở ngoài môi trường
được. Vì vậy nói tới vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội điều đầu tiên cần phải
nhấn mạnh: Môi trường là không gian sống của mọi loài sinh vật (kể cả con người),các
loài sinh vật sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tiêu vong đều ở trong môi trường. Nếu
không gian môi trường trong sạch sẽ làm cho chất lượng cuộc sống được nâng cao, mọi
loài sinh vật sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển tốt, ngược lại nếu không gian môi
trường bị ô nhiễm, môi trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
cuộc sống và như vậy sẽ cản trở sự phát triển bình thường của mọi loài sinh vật, trong đó
có xã hội loài người. Do đó bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường trong sạch có tác dụng

trực tiếp đến việc bảo tồn và duy trì sự sống của mọi sinh vật ở trong môi trường.
Môi trường là nơi cung cấp các yếu tố cần thiết, các điều kiện cần thiết cho sự sống
của tất cả các loài sinh vật. Ăngghen nói “con người là sản phẩm của tự nhiên”, con người
tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát triển với môi trường tự nhiên, vật chất trong
cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí mà con người hít thở, nước
mà con người uống… cũng đều từ môi trường tự nhiên và thức ăn của con người xét cho
cùng cũng từ môi trường tự nhiên: lúa gạo, hoa màu, rau xanh, trái cây đều mọc từ đất,
tôm cá lớn lên từ ao nước sông, hồ, biển… Con người và môi trường luôn thống nhất với
nhau, sống trong môi trường con người một mặt chịu sự ảnh hưởng của môi trường, mặt
11
khác con người lại tác động vào môi trường làm cho môi trường biến đổi, sự biến đổi của
môi trường lại ảnh hưởng trở lại đối với con người. Những thứ mà môi trường tự nhiên
cung cấp cho con người bao gồm những thứ có khả năng tái tạo được và những thứ không
có khả năng không có khả năng tái tạo. Vì vậy, để đảm bảo cho xã hội phát triển con
người cần phải biết giữ gìn những nguồn lực của tự nhiên để sử dụng lâu dài trong tương
lai.
Môi trường là nơi diễn ra mọi quá trình lao động sản xuất, dù đó là sản xuất công
nghiệp hay nông nghiệp cũng đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Các hoạt động
văn hóa, xã hội, nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật… cũng phải dựa vào môi
trường, sử dụng các “chất liệu” do môi trường cung cấp.
Nói tóm lại mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con người đều
được tiến hành trong môi trường, đều dựa vào môi trường và sử dụng các yếu tố có sẵn
của môi trường. Xuất phát từ nhận thức đó chúng ta môi trường có vai trò to lớn, quyết
định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi loài sinh vật sống trong môi trường.
1.1.5. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân tạo nên sự phát triển của kinh tế
- xã hội: đó là sự ra đời của máy móc, công cụ khoa học kỹ thuật, đó là sự thông minh
cùng với óc sáng tạo và khả năng lao động của con người… nhưng hơn tất cả đó là môi
trường. Tự bản thân máy móc, công cụ sẽ không phát huy tác dụng nếu không có nguyên
vật liệu, nhiên liệu; con người dù thông minh sáng tạo đến bao nhiêu cũng sẽ không thể

có không gian để tồn tại và sản xuất nếu không có môi trường. Không thể tách sự phát
triển kinh tế - xã hội khỏi môi trường, môi trường và phát triển có mối quan hệ khăng khít
với nhau. “Nếu không bảo vệ môi trường một cách chính đáng, phát triển sẽ bị yếu dần.
Ngược lại, không có phát triển, bảo vệ môi trường sẽ thất bại”
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần
của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất
lượng văn hóa. Phát triển là xu hướng chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá
trình sống, giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: Môi trường là
địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi
tích cực và tiêu cực đối với môi trường. triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài
12
người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi
trường, do vậy ở đây nảy sinh mâu thuẫn giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường.
Trong phạm vi một quốc gia, cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn tồn tại hai hệ
thống: Hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường. Hệ thống kinh tế - xã hội cấu
thành bởi các khâu: Sản xuất, lưu thông phân phối, tiêu thụ, tạo nên một dòng luân
chuyển nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải giữa các phần tử của hệ thống. Hệ
thống môi trường với các thành phần thiên nhiên và xã hội cùng tồn tại trên một địa bàn
với hệ thống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ hay mâu thuẫn đều được biểu hiện rất rõ ràng.
Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ hệ thống môi trường. Đây là một
chức năng của môi trường: cung cấp nguyên, nhiên liệu cho cuộc sống con người. Nếu vì
phát triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được hoặc
khai thác quá khả năng phục hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ dẫn tới không còn
nguyên liệu, năng lượng, từ đó phải đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống
kinh tế. Chất thải là thứ mà cuộc sống sinh hoạt của con người và các hoạt động kinh tế
thải ra môi trường nhều nhất. Hầu hết các phế thải đều độc hại đối với sức khỏe và sinh
mệnh con người, tác động xấu đến không khí, nước, đất, các nhân tố môi trường và tài
nguyên thiên nhiên khác. Những chất độc hại đó làm tổn hại chất lượng môi trường khiến
cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động một cách bình thường được.

Để cho sự phát triển được bền vững, việc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước
đòi hỏi mỗi quốc gia phải có tính toán, phải căn cứ vào tình hình tài nguyên và trình độ
phát triển của đất nước mà định ra chiến lược chung của quốc gia. Môi trường và phát
triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ khắng khít bền chặt và bao hàm cả mâu thuẫn gay
gắt. Vấn đề quan trọng là phải giải quyết được mâu thuẫn đó một cách hợp lý và có lợi
nhất.
1.2. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với môi trường
1.2.1. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến môi trường. Nếu chúng ta
đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường thì
chắc chắn không có bất kỳ hoạt động kinh tế nào xảy ra.
13
Việc thực hiện chính sách và pháp luật bảo vệ môi trường, hay trách nhiệm với xã
hội tại các doanh nghiệp ở nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn và bất cập do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Trong đó có nguyên nhân là do bản thân các doanh nghiệp chưa nhận
thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ giữa hoạt động kinh doanh sản
xuất của mình với vấn đề môi trường. Vì vậy chúng ta cần làm rõ mối quan hệ này nhằm
phần nào góp phần thay đổi nhận thức của doanh nghiệp, vì chỉ có thay đổi được nhận
thức thì mới thay đổi được hành động của chính bản thân mình.
Trước hết, đây là mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Hoạt động của doanh
nghiệp có những tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề môi trường và ngược lại môi
trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay khó khăn trong việc sản xuất. Đồng
thời, chúng ta cũng phải khẳng định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng
đến môi trường. Nếu đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn không ảnh hưởng
đến môi trường thì chắc chắn sẽ không có bất kỳ một hoạt động kinh tế nào xảy ra. Vấn
đề cần quan tâm ở đây là mức độ tác động như thế nào (nguy cơ gây hủy hoại, tàn phá
môi trường; khả năng hồi phục của môi trường; sự ảnh hưởng bất lợi so với hiệu quả đem
lại…).
1.2.2. Tác động của hoạt động doanh nghiệp đến môi trường
a) Tác động của hoạt động doanh nghiệp đến môi trường

 Tác động tích cực:
Thứ nhất, trong chừng mực nhất định, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
chẳng hạn như hoạt động du lịch có thể việc xây dựng các công viên vui chơi giải trí,
công viên cây xanh, hồ nước nhân tạo, các làng văn hóa du lịch có thể tạo nên môi
trường mới hay góp phần cải thiện môi trường.
Thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện các
hoạt động động bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nguồn đóng góp cho
ngân sách nhà nước, là một nguồn tài chính quan trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường.
Một số lĩnh vực kinh doanh, như hoạt động nhập khẩu và sản xuất thiết bị phục vụ công
tác bảo vệ môi trường, có tác động tích cực cho việc giải quyết các vấn đề môi trường. Ví
dụ như sự phát triển của công nghệ sinh học và gia tăng thương mại các sảm phẩm của nó
14
sẽ góp phần tích cực giúp làm giảm áp lực lên khai thác và sử dụng các sản phẩm có
nguồn gốc thiên nhiên.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải góp phần cải thiện chất
lượng môi trường và giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải.
 Tác động tiêu cực:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên, nhiên, vật liệu trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh
hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền công nghệ cũ thì
việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một hệ quả tất yếu.
Thứ hai, Hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu tố
ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải công nghiệp này dễ
gây suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi trường đất, môi trường nước, ảnh
hưởng lớn tới sức khỏe của con người.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh
những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa
không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, trong đó có thể là những chất thải độc

hại.
b) Tác động của môi trường lên hoạt động sản xuất của doanh nghiệp
 Tác động tích cực
Môi trường có những tác động tích cực đến hoạt động của doanh nghiệp như:
Thứ nhất, các thành phần môi trường, đặc biệt là các nguồn tài nguyên, là một trong
những điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nguồn tài nguyên đó là
nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy vào nguồn tài nguyên ở từng vùng mà ở đó
sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Quảng
Ninh, ngành công nghiệp khai thác than phát triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ than với trữ
lượng lớn
15
Thứ hai, chất lượng môi trường phù hợp sẽ bảo đảm cho hoạt động kinh doanh ổn
định và bền vững thông qua sự ổn định về chất lượng sức lao động, chất lượng nguồn
nguyên, nhiên, vật liệu.
 Tác động tiêu cực
Thứ nhất, chất lượng môi trường có thể làm phát sinh những chi phí cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh thông qua những vấn đề liên quan đến sức lao động, chi phí ngoại
ứng đối với nguồn nguyên, vật liệu và làm tăng giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả
năng cạnh tranh.
Thứ hai, chất lượng môi trường không bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững trong
hoạt động kinh doanh. Những bất ổn này có thể là sự bất ổn về nguồn cung cho sản xuất
kinh doanh, những bất ổn phát sinh từ thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra cho các chủ
thể kinh doanh.
1.2.3. Thực hiện bảo vệ môi trường thông qua hành vi của doanh nghiệp
Lợi nhuận là yếu tố quyết định hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Lợi nhuận được tạo ra thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp đó hay nói cách khác là thông qua hành vi hoạt động thương mại của công
ty để tạo ra lợi nhuận. Việc tạo ra lợi nhuân đó vừ có yếu tố tích cự là giúp cho các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển, đồng thời kép theo sự phát triển chung của nền kinh tế đất
nước, tọa công ăn việc làm cho người lao động,…Tuy nhiên chính hành vi đó của doanh

nghiệp đã kéo theo những tác động xấu cho môi trường. Hoạt động công nghiệp, sản xuất
hàng hóa, khai thác và sử dụng nhiều năng nượng và tài nghuyên thiên nhiên,… là những
hoạt động chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay.
Các hành vi tác động xấu đến môi trương hiện nay của doanh nghiệp thông qua các
hoạt động sau đây:
+ Hoạt động khai thác nguyên vật liệu để tiến hành cho quá trình sản xuất ở
các khu công nghiệp, các khu chế xuất
+ Hoạt động xả thải chất thải chưa qua xử lý ra môi trường
+ Hoạt động của các doanh nghiệp có hành vi kinh doanh, sản xuất có hoạt
động trái với các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, vi phạm về hệ thống quản
lý ISO 14001 về quản lý môi trường.
16
+ Các hoạt động khác mà không cam kết bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp như hoạt động tái chế, xử lý chất thải trong các nhà máy, xí nghiệp, các khu công
nghiệp, các khu chế xuất, các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác gây nguy hại cho môi
trường.
Chính vì vậy để bảo vệ môi trường các doanh nghiệp cần phải có trách nhiệm với
cộng đồng trong việc cam kết bảo vệ môi trường, gắn trách nhiệm bảo vệ môi trường vòa
mục tiêu phát triển của công ty bảo đảm sự bề vững cho toàn xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm của doanh nghiệp với bảo vệ môi trường
Hiện nay có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm của
doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường ngoài Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và
Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định một số điều về hoạt động của doanh nghiệp trong
vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội trong đó có trách nhiệm về bỏa vệ môi trường.
Theo quyết định số 52/2008/ QĐ – BTC ngày 30/12/2009 của Bộ Công Thương có
quy định tại điều 12 về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường như
sau:
“1. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về bảo vệ môi trường và các quy định của quy
chế này.
2. Tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường cho người lao động

trong cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của mình.
3. Thành lập cán bộ, bộ phận chuyên trách bảo vệ môi trường trong Tập đoàn, Tổng
công ty, Công ty. Thông báo về Bộ các thông tin liên quan tới mạng lưới chuyên trách
bảo vệ môi trường của đơn vị.
4. Chịu trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra và giám sát các vấn đề môi trường phát sinh trong
nôi bộ của đơn vị.
5. Hướng dẫn các đơn vị thành viên xây dựng Báo cáo môi trường theo mẫu được quy
định tại Phụ lục 2.
6. Xây dựng quy định, quy chế bảo vệ môi trường áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân
thuộc quyền quản lý của mình.
7. Chấp hành chế độ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, báo cáo về bảo vệ môi trường
theo quy định của pháp luật và của quy chế này.
17
8. Phối hợp với cộng đồng dân cư và chính quyền địa phương xử lý các vấn đề môi
trường phát sinh do hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị gây ra.
9. Phòng ngừa các tác động tiêu cực đối với môi trường từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ của mình.”
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đánh giá một cách khách quan các
nguy cơ và thách thức đối với môi trường, đề ra các quan điểm, mục tiêu cụ thể và các
giải pháp hết sức quan trọng nhằm bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trong tiến
trình công nghiệp hóa và hiện đại đất nước.
Tiếp theo là quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê
duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020. Chiến lược xác định các thách thức đối với môi trường Việt Nam trong những năm
tới là: Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết; thách thức trong việc lựa
chọn các lợi ích phát triển kinh tế và môi trường; cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; gia tăng
dân số, di dân và đói nghèo; nhận thức về môi trường còn thấp; tổ chức và năng lực quản
lý chưa đáp ứng yêu cầu; hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của các vần đề môi trường
khu vực và toàn cầu.

Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ với bảo vệ môi trường;
bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội; phòng ngừa là chủ yếu và bảo vệ môi
trường phải kết hợp giữa nội lực và hợp tác quốc tế, chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm
2010 là hạn chế tốc độ gia tăng ô nhiễm và định hướng mục tiêu đến 2020 là ngăn chặn
về cơ bản tốc độ gia tăng ô nhiễm, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức ổn định và đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu về môi trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia có
hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa.
Những giải pháp chiến lược then chốt được lựa chọn bao gồm: Nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường; tăng cường quản lý Nhà nước; pháp luật về bảo vệ môi trường; áp dụng các
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường; tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội
hóa công tác bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
18
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới
đất nước và ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của đât nước ta.
Theo tổng cục thống kê vừa công bố kết quả rà soát số lượng doanh ngiệp năm 2012.
Theo đó cả nước có trên 375.000 doang nghiệp đang hoạt động thực tế, chiếm 83,7% số
doanh nghiệp hiện có.Trong những năm qua doanh nghiệp đã tạo lập được cơ sở sản xuất,
trang bị những dây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại với công suất lớn nên sản phẩm
làm ra có chất lượng cao. Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận ISO
9002 đây là điều kiện thuận lơi cho các doanh nghiệp phát triển, bên cạnh đó thì các
doanh nghiêp cũng gặp không ít những khó khăn vướng mắc về môi trường hầu như các
doanh nghệp chưa có hệ thống xử lý nước thải hợp vệ sinh môi trường. Theo báo cáo
giám sát của Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường Quốc hội thì tỉ lệ các khu công
nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp có nơi chỉ đạt
15-20%. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng
hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp hoạt
động đã có trạm xử lý nước thải tập trung. Bình quân mỗi ngày các khu, cụm, điểm công
nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng khí, và cất thải độc hại chưa qua xử lý

ra môi trường gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước. Ở các nơi hoạt động của nhà máy
trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thủy lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập
úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại cho cho việc sản xuất nông nghiệp của bà
con nông dân.
Trong những năm qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã đóng
góp tới 12,7% GDP.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, chúng ta cũng
đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình sản xuất và khai thác, sử
dụng các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình, con người đã làm thay
đổi môi trường xung quanh. Yếu tố chính gây tác động đến môi trường là hoạt động xả
thải chất thải độc hại chưa qua xử lý ra môi trường, các hoạt động công nghiệp đã làm
hủy hoại môi trường thải các khí độc hại, bụi và nước thải… làm phá vỡ cân bằng điều
kiện sinh thái, đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm nặng nề đối
với môi trường và là vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và chính trị của cộng đồng.
19
Theo ước tính của Tổng cục Môi trường hằng năm trên cả nước hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp đã thải ra các chất thải lên đến hàng chục nghìn tấn mỗi năm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả nước đã gây ra trình trạng ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng cho nước ta chủ yếu là ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn
nước, và là nguyên nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính do hoạt động xả khí CO2 vào
bầu khí quyển. Những hoat động trên diễn ra ngày một nhiều hơn và đáng báo động.

20
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA
DOANH NGHIỆP
2.1. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường
Để khuyến khích các doanh nghiệp bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, và tạo ra sự bình đẳng cho các doanh nghiệp khi thực hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình. Bên cạnh quyền và nghĩa vụ mà luật đã quy định thì tổ chức, cá nhân

hoạt động khai thác khoáng sản còn có một số trách nhiệm như sau:
2.1.1. Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác
động môi trường.
Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh sản xuất muốn được cấp phép hoạt động,
ngoài báo cáo nghiên cứu khả thi, luận chứng kinh tế, kĩ thuật về môi trường, thì phải có
báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt.
Theo quy định tại khoản 20 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực ngày
01/7/2006 thì: “Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là việc phân tích, dự báo các tác
động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường
khi triển khai dự án đó”. Qua quy định này ta có thể nhận thấy:
- Bất kỳ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nào nếu muốn thực hiện dự án có thể gây
ảnh hưởng đến môi trường đều phải thực hiện phân tích và đánh giá tác động môi trường
và phải đề xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường.
- ĐTM không phải là một nghĩa vụ mang tính hình thức, tức là không phải chỉ là
một điều kiện giấy tờ cần phải có cho việc phê duyệt một dự án mà nó là một nghĩa vụ
mang tính chất nội dung.
Như vậy việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp
chủ động lựa chọn những phương án khả thi về kinh tế và kĩ thuật trong kế hoạch phát
triển kinh tế, bảo vệ môi trường của mình. Đồng thời đây là cách thức để cơ quan có thẩm
quyền để kiểm soát các hoạt ảnh hưởng đến môi trường hiệu quả nhất.
Hiện nay việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày
21
28/02/2008 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006 ngày
9/8/2006 của Chính phủ; Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8/12/2008 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Theo quy định tại Nghị định số 80/2006/NĐ – CP ngày 09/08/2006 của chính phủ
quy định tại điều 18 như sau:

“1. Cơ sở sản xuất, dịch vụ thân thiện với môi trường là cơ sở đáp ứng các yêu cầu sau
đây:
a) Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường và được chứng nhận đạt tiêu
chuẩn môi trường;
b) Có chính sách quản lý sản phẩm trong suốt quá trình tồn tại của chúng và quản lý chất
thải đúng theo quy định của pháp luật, trong đó tái chế, tái sử dụng trên 70% tổng lượng
chất thải;
c) Áp dụng thành công và được cấp chứng chỉ ISO 14001 về quản lý môi trường;
d) Tiết kiệm trên 10% nguyên liệu, năng lượng, nhiên liệu, lượng nước sử dụng so với
mức tiêu thụ chung;
đ) Tham gia và có đóng góp tích cực các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng,
bảo vệ môi trường công cộng;
e) Không bị cộng đồng dân cư nơi thực hiện sản xuất, dịch vụ phản đối việc được công
nhận là cơ sở thân thiện với môi trường.
2. Sản phẩm thân thiện với môi trường là sản phẩm đáp ứng một trong các yêu cầu sau
đây:
a) Sản phẩm tái chế từ chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường;
b) Sản phẩm sau khi sử dụng dễ phân huỷ trong tự nhiên;
c) Sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường được sản xuất để thay thế nguyên liệu tự
nhiên;
d) Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ;
đ) Sản phẩm được cấp nhãn sinh thái của tổ chức được Nhà nước công nhận.
3. Cơ sở sản xuất, dịch vụ thân thiện với môi trường được hưởng các chính sách ưu tiên,
ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
22
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đánh giá, xem xét và thủ tục công nhận
cơ sở sản xuất, dịch vụ và sản phẩm thân thiện với môi trường”
Theo quy định thì tổ chức, cá nhân là chủ dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập
báo cáo đánh giá tác động môi trường (sau đây gọi là chủ dự án) tự tiến hành hoặc thuê tổ
chức tư vấn có đủ điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết để

tiến hành đánh giá tác động môi trường và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chủ
dự án gửi văn bản thông báo về các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi trường, các
giải pháp bảo vệ môi trường của dự án và đề nghị Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ
quốc cấp xã đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án tham gia ý kiến (theo quy định
tại khoản 2 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT); chủ dự án gửi hồ sơ đề nghị thẩm
định báo cáo đánh giá tấc động môi trường đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, Cơ
quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo quy định tại
khoản 3 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT), thời điểm gửi hồ sơ đề nghị thẩm định,
phê duyệt báo cáo tác động môi trường của các dự án được quy định tại khoản 5 Điều 1
Nghị định số 21/2008/NĐ-CP. Một bản báo đánh giá tác động môi trường muốn được phê
duyệt phải đảm bảo các nội dung sau (quy định tại điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2005
và phụ lục 4 thông tư 05/2008/TT-BTNMT):
- Liệt kê tên công trình và mô tả chi tiết các công trình trong dự án (không gian,
thời gian, công nghệ vận hành…) cũng như mô tả cho cả dự án.
- Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận.
kèm với đánh giá chi tiết tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực
hiện. Việc đánh giá trên phải trung thực, khách quan nhằm giúp cơ quan thẩm định biết
mức độ nhạy cảm và sức chịu tải của môi trường nơi có dự án cũng như các thành phần
môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chị tác động của dự án, bên cạnh những đánh giá trên
người lập báo cáo còn phải nêu dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình gây ra.
- Biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường, phòng ngừa,
ứng phó sự cố môi trường và những biện pháp này phải đảm bảo tính khả thi trong hoạt
động của các doanh nghiệp.
23
- Cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường xuyên suốt từ khi thành lập
doanh nghiệp cho tới việc xây dựng đề án cho đến suốt quá trình vận hành các thiết bị
công nghệ bảo vệ môi trường.
- Danh mục dự án, chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường trong
quá trình triển khai thực hiện.
- Dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình, kỹ thuật công nghệ bảo vệ

môi trường trong tổng dự toán kinh phí của dự án.
- Ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã và đại diện dân cư nơi thực hiện dự án.
- Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá.
Để lập được báo cáo tác động môi trường đầy đủ với những nội dung trên, người
lập báo cáo cần qua những bước tìm hiểu rõ rãng và có tầm nhìn sâu, rộng về vấn đề bảo
vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ môi trường nơi có dự án sẽ tiến hành.
Đánh giá giá tác động môi trường là một trong những giải pháp quan trọng trong
quản lý ô nhiễm công nghiệp, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa ô nhiễm do các
hoạt động sản xuất gây ra. Thấy được vai trò to lớn của việc đánh giá tác động nên nhà
làm luật đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong thời
gian qua thì vấn đề đánh giá tác động môi trường không được chủ các dự án đầu tư quan
tâm, Mặc dù đa số tất cả các dự án đầu tư đều thực hiện công tác đánh giá tác động môi
trường, nhưng hầu hết chỉ dùng để đối phó, để dự án được thông qua nên họ chỉ làm qua
loa, chú trọng làm cho đủ thủ tục chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ
môi trường thực sự, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm quy định về đánh giá tác động gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Đánh giá tác động môi trường là việc làm hữu ích, có ý nghĩa thiết thực đối với
các hoạt động phát triển. Tuy nhiên do ĐTM là một quá trình nghiên cứu, phân tích tổng
hợp phức tạp, đòi hỏi chuyên gia kinh nghiệm, tốn kém về thời gian, kinh phí. Vì vậy đối
với các dự án phát triển việc ĐTM đầy đủ chỉ tiến hành đối với các dự án phát triển quan
trọng, còn đối với các dự án ít quan trọng hơn thì không được quan tâm đúng mức.
Sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt thì chủ dự án có
trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án về nội dung quyết
định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; niêm yết công khai địa điểm thực
24
hiện dự án về các loại chất thải, cộng nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải các giải
pháp bảo vệ môi trường để cộng đồng dân cư biết, kiểm tra, giám sát; thực hiện đúng, đầy
đủ các nội dung bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và
các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động; thông báo cho cơ quan
phê duyệt báo cáo tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện các nội

dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường; chỉ được đưa công trình vào sử dụng sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đầy đủ yêu cầu quy định trên (theo quy định tại khoản 1
Điều 23 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và khoản 11 mục III Thông tư 05/2008/TT-
BTNMT).
2.1.2. Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong cam kết bảo vệ môi
trường
Tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh
phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm lập bản cam kết bảo vệ môi
trường để đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy
quyền xem xét, xác nhận.
Theo tinh thần của Điều 24 Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 80/2008/NĐ-CP
thì các dự án hoạt động sau đây của doanh nghiệp phải lập bản cam kết bảo vệ môi trường
(CKBVMT):
- Dự án xử lý và tái chế chất thải trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp
- Dự án đầu tư trang thiết bị công nghệ có quy mô lớn có tác động lớn đến môi
trường của tỉnh.
- Thiết kế, xây dựng các công trình xử lý môi trường trong doanh nghiệp
- Kế hoạch, biện pháp và điều kiện cần thiết phòng, chống sự cố môi trường
- Công nghệ môi trường.
Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường phải bảo đảm
theo đúng quy định pháp luật, bao gồm các nội dung chính sau:
+ Thông tin chung: Tên Dự án; tên cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; địa chỉ liên
hệ của cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự
án; phương tiện liên lạc với cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án;
25

×