Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đánh giá về trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.01 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (BVCSGD) là một trong những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội, là
cái nôi hình thành nhân cách của trẻ , tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn
diện về thể chất và trí tuệ, tinh thần, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất
nước. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà
trước hết phải là trách nhiệm của gia đình. Bên cạch những kết quả đã đạt
được vẫn còn tồn tại những hạn chế trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của
trẻ em ở một bộ phận gia đình, do đó việc việc nâng cao trách nhiệm của gia
đình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh của trẻ
em. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này nhóm chúng em xin“Đánh giá
về trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ
em” từ đó đưa ra những phương hướng hoàn thiện vấn đề này.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Những quy định của pháp luật về việc bảo vệ các quyền cơ bản của
trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi
nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những
người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương,
cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục (BVCSGD) đặc biệt, kể cả sự bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập
trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968,
Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước Liên hợp quốc
về quyền trẻ em năm 1989, Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976. Ở Việt Nam, từ xưa Luật Hồng
Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ hiện còn
được lưu giữ đầy đủ trong đó có những quy định về quyền trẻ em. Tiếp theo


phải kể tới Hiến pháp năm 1992, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, Bộ luật hình sự năm 1999 và các vấn đề liên quan tới trẻ em, Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật lao động liên quan tới trẻ em, Nghị
định số 71/2011 NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Có thể nói bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em không chỉ là bổn phẩn đạo đức mà còn đựơc nâng lên thành
các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý. Nếu như trách nhiệm này được thực hiện
tốt ở các gia đình sẽ giảm bớt những gánh nặng cho xã hội và điều quan trọng
nhất sẽ hình thành nhân cách tốt đẹp ở trẻ.
2.. Trách nhiệm của gia đình
Mặc dù là chức năng tự nhiên của gia đình, nhưng Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em quy định việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là trách
nhiệm trước tiên của cha mẹ, người giám hộ. Quy định này nhằm đề cao vai
trò của cha mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, khắc phục tình trạng
coi nhẹ việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc khắc phục tập quán chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ em với tâm lý “có gì, hưởng ấy”, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển về thể chất, tinh thần của trẻ em.
Để cha mẹ thực hiện tốt chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em thì
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải đẩy mạnh tuyên truyền,
vận động để cung cấp kiến thức, kỹ năng trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
em và làm thay đổi hành vi của cha mẹ, đặc biệt đối với thanh niên trước khi
xây dựng gia đình theo quan niệm "Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em
của cha mẹ còn cao hơn quyền sinh ra chúng".
Gia đình là môi trường của sự phát triển và hạnh phúc của trẻ em, cha
mẹ, các thành viên trong gia đình là nhân tố quyết định và có trách nhiệm tạo
ra môi trường lành mạnh đó. Vì vậy, Khoản 2 Điều 24 Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em quy định “Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi
khác trong gia đình phải gương mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách
nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tạo môi
trường lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của trẻ em”.

Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng con là bình đẳng giữa cha và mẹ.
Song trên thực tế vẫn có tình trạng một số trẻ em chỉ được cha hoặc mẹ trực
tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, Khoản 4 Điều 24 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em quy định “Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người
cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên phải có nghĩa vụ
đóng góp để nuôi dưỡng con đến tuổi thành niên, có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục con theo quy định của pháp luật”.
II. Đánh giá trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ các quyền
cơ bản của trẻ em
Kết quả đạt được
1. Quyền được khai sinh và có quốc tịch
Con người ai cũng mang trong mình những ước mơ, hoài bão. Những
ước mơ đó có thể được hình thành từ khi còn là trẻ nhỏ, giấy khai sinh có ỹ
nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo cho những ước mơ đó trở thành hiện
thực mà đầu tiên là được đến trường. Khoản 1 Điều 11 Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc
tịch”. Theo quy định của pháp luật thì “Cá nhân khi sinh ra có quyền được
khai sinh" (Điều 29 Bộ Luật Dân sự năm 2005).
Đăng ký khai sinh nhằm xác định họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm
sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quan hệ cha, mẹ, con của một người mà
được pháp luật công nhận và làm căn cứ pháp lý chứng minh đó là một cá
nhân, một chủ thể riêng biệt trong xã hội. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch
gốc của một cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ,
tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quan hệ
cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người đó.
Khoản 1 Điều 23 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Cha
mẹ, người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn”. Theo
quy định, cha mẹ, người giám hộ là người chịu trách nhiệm chính về đăng ký
khai sinh và yêu cầu là việc khai sinh cho trẻ em phải đúng thời gian quy
định.

Theo quy định của pháp luật, người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
đăng ký khai sinh khá rộng, bao gồm cá nhân hoặc người được uỷ quyền và
nếu người được uỷ quyền là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em của
người uỷ quyền thì không cần phải có văn bản uỷ quyền (Nghị định
83/1998/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch). Điều 14 Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch thì “trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha mẹ có trách nhiệm đi
khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những
người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em”.

. Tuy nhiên, quyền được khai sinh của trẻ em có được thực hiện hay không,
điều đó không do trẻ em mà phụ thuộc vào người lớn có trách nhiệm phải
khai sinh cho trẻ em. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà đã có không ít
đứa trẻ mất đi quyền cơ bản đầu tiên này. Nhóm em xin đưa ra một số thông
kê : Chỉ tính riêng tại Trung tâm nuôi dạy trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè
(TPHCM) đã có 60/379 trẻ em chưa có giấy khai sinh; Trung tâm nuôi dưỡng
bảo trợ trẻ em Tam Bình cũng có 20 em chưa có giấy khai sinh... Con số đó sẽ
cao hơn nếu tính hết các trung tâm nuôi dạy bảo trợ trẻ em và các mái ấm, nhà
mở trên địa bàn TP.HCM và rộng hơn, trên phạm vi cả nước. Nhằm khắc
phục tình trạng chậm đăng ký khai sinh, coi thường thời hạn khai sinh cho trẻ
em, thậm chí còn nhiều trường hợp trẻ em đã được 05 tuổi nhưng vẫn chưa có
giấy khai sinh ở một số địa phương, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
khẳng định việc khai sinh phải đúng thời hạn.
2. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cụ thể hóa quy định
tại Hiến pháp năm 1992 về một trong các quyền cơ bản của trẻ em. Đó là
“quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và
đạo đức”. Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu về vật
chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể có, với mức sống ngày càng được
nâng cao là quyền của trẻ em và mục tiêu phấn đấu chung của gia đình, Nhà

nước và xã hội. Điều 65 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận "Trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”.
Tuy nhiên cũng tồn tại những con số đáng buồn là tình trạng trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng vẫn còn cao, trung bình gần 30% (nhất là tại
các tỉnh Tây Nguyên và miền núi phía Bắc). Số trẻ nhiễm HIV/AIDS, tính
đến tháng 12-2007, trẻ dưới 13 tuổi chiếm 1,7% (khoảng 2.700 em); trẻ từ 13
- 19 tuổi chiếm 4,5% (khoảng 7.000 em); khoảng 22.000 trẻ mồ côi do bố,
mẹ chết bởi HIV/AIDS. Tai nạn thương tích trẻ em xảy ra do rất nhiều
nguyên nhân, đặc biệt là tai nạn giao thông (27%), chết đuối (23%) và ngộ
độc Một số loại bệnh tật của trẻ em ở lứa tuổi học đường như cận thị, cong
vẹo cột sống, rối nhiễu tâm trí... chưa được các bậc phu huynh chú ý Một số
nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt chưa được đưa vào Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, như trẻ em bị lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai nạn thương
tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ ly hôn, con nuôi, trẻ em di cư, bị mua bán,
trẻ em sống trong các hộ nghèo...Vấn đề truyền thông giáo dục, việc phổ biến
kỹ năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở một bộ phận gia đình còn thiếu chiều
sâu, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

3. Quyền sống chung với cha mẹ
Điều 13 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có
quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly
cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em”. Theo quy định của pháp luật thì
cha mẹ có nghĩa vụ và quyền sống chung với con. Như vậy, cả cha mẹ và con
chưa thành niên đều có quyền sống chung, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ
em.
Quy định này hoàn toàn phù hợp và cụ thể hóa thêm các quy định tại
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Theo các quy định đó thì:
Quyền sống chung với cha mẹ là quyền tự nhiên, tất yếu và bất khả xâm
phạm của mọi trẻ em, kể cả trong trường hợp trẻ em là con riêng của vợ hoặc
chồng. Trong trường hợp cha mẹ ly hôn, theo quy định tại điều 92 Luật Hôn

nhân và Gia đình năm 2000, việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ
chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của
trẻ em. Về nguyên tắc, trẻ em dưới ba mươi sáu (36) tháng tuổi phải được
giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Người không nuôi dưỡng có nghĩa
vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải có nghĩa vụ đóng góp nuôi
dưỡng, giáo dục con.
Trường hợp trẻ em được nhận làm con nuôi, thì việc giao nhận con
nuôi phải tuân theo quy định của pháp luật và phải bảo đảm lợi ích tốt nhất
của trẻ em được nhận làm con nuôi. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên
làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Khoản 2 Điều 25 Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định "Trường hợp trẻ em được nhận làm
con nuôi thì việc giao, nhận trẻ em làm con nuôi, đưa trẻ em ra nước ngoài
hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật".
4. Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, danh dự
Điều 14 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em
được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể,
nhân phẩm và danh dự”. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về các quyền
này của công dân như sau: Khoản 1 Điều 32 quy định "Cá nhân có quyền
được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể"; Điều 37 quy định
“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ”. Đây cũng là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm" (Điều 71).
Các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định các quyền được tôn
trọng, bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, danh dự và các biện pháp chế tài để bảo
đảm quyền này. Chương X Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về người chưa
thành niên phạm tội; Chương XII quy định về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người trong đó đã thể hiện những
quan điểm nhân đạo, chính sách quan tâm bảo vệ trẻ em và quy định những

khung hình phạt nghiêm khắc đối với những hành vi của người lớn xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống, trẻ em còn nhỏ tuổi và thường
được coi là người phụ thuộc, nên trong quan hệ của gia đình và xã hội, vẫn
còn nhiều cha mẹ, anh chị em và người lớn hay coi thường trẻ em, gọi là “trẻ
con”, mắng chửi trẻ em đến mức không tôn trọng nhân phẩm, danh dự của trẻ
em. Do vậy, cần tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm làm thay đổi quan
niệm và hành vi đối xử với trẻ em theo hướng tôn trọng quyền này của trẻ
em.Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống thì việc bảo vệ tính mạng, thân thể,
nhân phẩm, danh dự của trẻ em cần thường xuyên được chú trọng để thực
hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn thương tích cho trẻ em. Với quan
niệm, trẻ em là "trẻ con", "yêu cho roi cho vọt" đã dẫn tới cách xử sự mà
trong điều kiện hiện nay được đánh giá là thiếu tôn trọng nhân phẩm, danh dự
của trẻ em. Với lối sống tùy tiện trong sinh hoạt và trong những việc làm cụ
thể có thể dẫn tới nguy cơ gây tai nạn về tính mạng, nhân phẩm, danh dự của
trẻ em.
5. Quyền được chăm sóc sức khoẻ
Khoản 1 Điều 15 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định
“Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ”. Khoản 1 Điều 1 Luật
bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 quy định “Công dân có quyền được bảo
vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh
trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường và được phục vụ về
chuyên môn y tế”.
Khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định
“Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm
tra sức khoẻ, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em”. Quy định này
khẳng định trách nhiệm trước tiên thuộc về cha mẹ, người giám hộ và đòi hỏi
cha mẹ, người giám hộ phải có kiến thức, sự hiểu biết và thực hiện đầy đủ
các hướng dẫn, quy định về phòng bệnh và chữa bệnh cho trẻ em.


6. Quyền được học tập
Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định
“Trẻ em có quyền được học tập”. Pháp luật nước ta đã khẳng định "Học tập
là quyền và nghĩa vụ của công dân". Mọi công dân không phân biệt điều kiện
và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai
cũng được học hành.
Khoản 2 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định
“Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả
học phí”. Theo quy định của pháp luật, giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc
đối với mọi trẻ em từ sáu tuổi đến mười bốn tuổi (từ lớp 1 đến lớp 5). Vì vậy
" Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ
giáo dục phổ cập" (Khoản 2 Điều 11 Luật giáo dục năm 2005). Đến năm
2002, đã có 100 % số tỉnh, thành phố hoàn thành giáo dục phổ cập bậc tiểu
học và 19 tỉnh, thành phố đạt trình độ giáo dục phổ cập bậc trung học cơ sở.
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện;
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa
đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để
trở thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định
“Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học
tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học
ở trình độ cao hơn”.
Theo quy định, trách nhiệm trước tiên thuộc về gia đình mà trực tiếp là
cha mẹ, người giám hộ trong việc thực hiện ba nhiệm vụ cụ thể là bảo đảm
điều kiện học tập, học hết chương trình giáo dục phổ cập và điều kiện học ở
trình độ cao hơn đối với trẻ em.

Trách nhiệm của gia đình trong việc bảo đảm điều kiện học tập của trẻ
như chăm sóc, nuôi dưỡng (ăn, mặc, ở, đi lại cho trẻ em); xây dựng gia đình
văn hoá (tinh thần thoải mái cho trẻ em); các thành viên trong gia đình gương
mẫu, giúp đỡ, hướng dẫn trẻ em học tập; tạo điều kiện trực tiếp cho trẻ em
học tập về bảo đảm thời gian học tập ở lớp và tự học ở nhà, cung cấp đủ sách
vở, dụng cụ học tập, bố trí góc học tập, đóng góp các khoản chi phí học tập
theo quy định và phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giúp đỡ việc
học tập, tu dưỡng đạo đức của trẻ em.
Bậc tiểu học là bắt buộc, đây là nghĩa vụ của mỗi công dân, cha mẹ,
người giám hộ có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em học hết chương trình giáo
dục phổ cập. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Tri thức là vô hạn, nên nhiệm vụ học, học nữa, học mãi luôn là nghĩa
vụ của công dân, đặc biệt là trẻ em để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta nhằm tạo ra "một xã hội học tập". Vì vậy, gia đình với vai trò đặc biệt
quan trọng phải có trách nhiệm với khả năng cao nhất có thể được để tạo điều
kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn. Việc học tập của trẻ em không
chỉ học tập tri thức, kỹ năng mà cả học tập thẩm mỹ, truyền thống, đạo đức,
niềm tin và pháp luật thông qua giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội.
Hiện nay, việc học tập của trẻ em được gia đình và xã hội đặc biệt quan
tâm. Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc học tập
đối với trẻ. Do đó, cha mẹ đã tạo những điều kiện tốt nhất cho việc học tập
của trẻ: cho trẻ đi lớp từ khi còn rất nhỏ, theo học những lớp năng khiếu, mua
đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho học tập của trẻ…Tuy nhiên, việc nhận thức

×