Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Yếu tố tâm lý: “Liều thuốc” quý trong điều trị bệnh pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.48 KB, 3 trang )

Yếu tố tâm lý: “Liều thuốc” quý trong
điều trị bệnh


“Sức khỏe là tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội
chứ không phải là tình trạng không bệnh tật” (Tổ chức Y tế Thế giới). Như
vậy, một người trông có vẻ khỏe mạnh với vóc dáng hấp dẫn, diện mạo
phương phi nhưng trong lòng có điều phiền muộn, bất ổn về tâm lý thì không
thể xem là có sức khỏe toàn diện.

Ảnh minh họa
Hiệu ứng placebo
Khi người bệnh được cho dùng một chất nào đó không phải là thuốc nhưng lại có
sự tin tưởng tuyệt đối đó là thuốc chữa bệnh, dùng chất đó và khỏi bệnh, đó là hiệu
ứng placebo.
Có một phương thức điều trị không dùng thuốc dựa hẳn vào yếu tố tâm lý như thôi
miên, tự kỷ ám thị, thiền định để ổn định tâm lý. Nếu stress đã được chứng minh
là làm giảm sức đề kháng thì ngược lại những biện pháp giúp ổn định tâm lý, sảng
khoái về mặt tinh thần sẽ giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh tật.
Người ta ghi nhận các rối loạn liên quan đến triệu chứng cơ năng (như bệnh suy
nhược thần kinh) rất dễ chữa khỏi bằng các biện pháp tác động đến yếu tố tâm lý.
Tuy nhiên, cần xem chữa bệnh bằng liệu pháp tâm lý chỉ là biện pháp hỗ trợ chứ
không thể thay thế cho tất cả các phương thức trị liệu của nền y học chính thống.
Và ứng dụng trong ngành dược
Đối với ngành dược, các dược sĩ có thể tác động đến yếu tố tâm lý trong việc dùng
thuốc. Ở nhà thuốc, khi tiếp xúc với người bệnh đến mua thuốc, lời hướng dẫn
dùng thuốc tận tình của dược sĩ có thể khơi dậy niềm tin ở người bệnh vào tác
dụng chữa bệnh của thuốc. Còn ở các công ty, xí nghiệp sản xuất dược phẩm, các
dược sĩ không chỉ quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng thuốc mà còn chú ý hoàn
thiện những chi tiết tác động đến tâm lý của người dùng thuốc. Thuốc được chứa
trong bao bì trình bày đẹp mắt, sáng sủa bao giờ cũng dễ tạo mối thiện cảm, làm


người dùng thuốc có ấn tượng thuốc được sản xuất trong điều kiện tốt nhất. Dạng
thuốc bào chế tiện sử dụng, bảo quản được lâu, được áp dụng kỹ thuật bào chế hiện
đại sẽ có tính thuyết phục. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tìm kiếm và sản
xuất một thuốc mới, người ta phải loại bỏ hoàn toàn yếu tố tâm lý trong các giai
đoạn thử nghiệm lâm sàng thuốc. Vì sao như vậy? Bởi vì theo định nghĩa, thuốc là
những chất có tác dụng thực sự dùng để điều trị, phòng bệnh và chẩn đoán bệnh.
“Có tác dụng” có nghĩa là thuốc có tác động vật chất vào cơ thể, sau khi được hấp
thu, phân bố, chuyển hóa và bài tiết để có hiệu quả chữa bệnh, phòng bệnh, chẩn
đoán chứ không phải chỉ vì có sự tin tưởng nào đó mà khỏi bệnh. Khi nghiên cứu
tác dụng của một thuốc mới để loại trừ yếu tố tâm lý, người ta sử dụng phương
pháp mù đôi (Double blind study).
Trong phương pháp mù đôi, người bệnh tham gia nghiên cứu được chia làm hai
nhóm ngẫu nhiên và giống nhau ở một số đặc điểm (tuổi tác, điều kiện kinh tế xã
hội, đặc điểm lâm sàng, có khi là giới tính ). Một nhóm sẽ được điều trị bằng
thuốc thật cần được thử nghiệm trong nghiên cứu, nhóm thứ hai được điều trị bằng
placebo có hình dạng, kích cỡ, màu sắc, mùi vị giống y như thuốc thật. Thuốc mới
được đánh giá là có tác dụng thực sự khi nhóm thứ nhất có tỷ lệ tính theo thống kê
là khỏi bệnh trong khi nhóm thứ hai có tỷ lệ được xem là không khỏi bệnh. Gọi là
mù đôi vì cả người bệnh lẫn bác sĩ chỉ định và theo dõi điều trị đều “mù”, không
biết thuốc nào là thuốc thật, thuốc nào là placebo (vì người bệnh nhóm hai không
được cho biết là dùng placebo, cứ đinh ninh là dùng thuốc thật). Cần phải loại bỏ
yếu tố tâm lý của cả bệnh nhân dùng thuốc và bác sĩ chỉ định thuốc thì việc nghiên
cứu tác dụng của thuốc mới thật khách quan. Trước khi có phương pháp mù đôi,
người ta dùng phương pháp mù đơn không loại yếu tố tâm lý của bác sĩ. Bác sĩ biết
thuốc nào là thuốc thật, thuốc nào là placebo. Chỉ cần nhận định của bác sĩ ảnh
hưởng bởi tâm lý của chính ông ta có thể làm sai lệch kết quả nghiên cứu.
TS.DS. Nguyễn Hữu Đức

×