Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

bài văn mẫu phân tích Tràng Giang của Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.18 KB, 23 trang )

TRÀNG GIANG
MỘT SỐ BÀI THAM KHẢO
Đây là bài viết đạt 9,5 môn văn của bạn Nguyễn Hồng Ngọc Lam trong kì thi Đại học cao đẳng 2007
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình
trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất
năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của
thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng
sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến
đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ
cuộc đời" Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện
khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận
trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở
bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho
kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có
nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một
cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm
giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang"
mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng
sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông
sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa
tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu
tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của
tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài:
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh


mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng"
được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc
lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng
lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp
điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang
nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên
nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp
điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển
động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài
và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại
thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế
mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy"
đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc
mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn,
lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa
sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh
mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến
lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u

sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về
một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện
đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm
xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một
quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh
"cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn
ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa
gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát,
mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là
"đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái
tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và
trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận,
mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như
xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông
dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng,
cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi
ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy
bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên
một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không
chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn
ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là
"bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên
nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối
kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. " không không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con
người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn
đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang,
phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra
những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ
tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong,
từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng
sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này
gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt
tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả
không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình
tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng
cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó
là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét
tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà
không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương
thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ
bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ
điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho
bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai
chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa
quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà
đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang
nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền thơ hiện đại Việt
Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận. Bộ đôi ấy đã hình thành nên một
xóm thơ “ Huy – Xuân ” trong phong trào thơ mới. Nhưng điều đó không hề có nghĩa là hai hồn thơ đó
giống nhau, mà là ngược lại. Như sau này có người nhận xét : “ Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh
thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. “ Chính cảm hứng về vụ trụ bao la lớn
rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thuở nhà thơ mới viết tập đầu tay – “ Lửa
thiêng”. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập thơ, người ta chắc phải nói đến “Tràng
giang”.


“Tràng giang” là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Và như
thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh
âm, bởi cả hai chữ của tựa đề -“tràng” và “giang” đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong
các nguyên âm. Bên ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả
câu đề từ : Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều
của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không
gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà thơ đã thả vào một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác mà
chúng ta có thể thấy được qua những từ “nhớ” và “bâng khuâng” mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.


Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề – “sóng”. Sóng trên dải “tràng giang “ của Huy
Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “ sóng vọt đến lưng trời ” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng
gợn”. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ tìm ra
cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Con sóng gợn trong con
mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà
thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển, đó là
sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn,
mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng
sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.


Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền không chèo “xuôi
mái”- hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt
nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai chữ này đã hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu thứ nhất
như để gợi thêm ra cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều,
“điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, còn “song song” lại làm nên cảm giác về chiều dài.

Nhưng đến câu thơ thứ ba:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là “thuyền
về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm
tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối
sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “
sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ
tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa. Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại
khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư:

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa
một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ “ củi một
cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một
quan niệm, một triết lý nhân sinh. Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi
là “hiện thực sống sít”, làm nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói về
một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình ảnh khó có gì thích
hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô nghĩa, đơn côi của sự sống một
kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghĩa ấy dường như thấm vào trong từng chữ một của
dòng thơ. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ “cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường
như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là

trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác
hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “. Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã
không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên
sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương.
Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa
lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng
đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc
cồn trong thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên rộng
lớn. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng đã từng nói hai
chữ “đìu hiu “ấy đã được mượn trong hai chữ của “Chinh phụ ngâm” :

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên
sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu. Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống,
nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một “phiên chợ
chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan
mơ hồ – thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu
câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im
lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang. Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều
khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời:

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.

Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”, trong cảm giác về
một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà
Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm
thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam
màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng. Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần
nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”. Bến ấy cũng đại diện
cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người
nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa
lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ
trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,


Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn.
Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ
trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu
đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã
từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và
cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Nhưng câu thơ thứ
nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn
để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết
rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp
nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba:

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Chữ “không đò” được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước, chữ “không cầu” lại được láy âm với câu
trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò
đậu. không có cả một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông
thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Như vậy hình ảnh “đò” được đặt trước vì
động hơn. Nhưng đến chữ “chút niềm thân mật” thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là những hình
ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá mênh mông, một chút niềm thân
mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù “thân mật” đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những
mức độ tình cảm. Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà
thơ viết câu thơ cuối:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm
nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra
thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường.
Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên
sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.

Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây
dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời
cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những
tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không gian lớn rộng, gợi nên
cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ. Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên
bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi
chiều tà.

Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.


Nhưng cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột:

Lạc hà dữ cô lộ tề phi

( tạm dịch nghĩa : ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay ).

Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim nghiêng
cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình
dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu
hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm
thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình
quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn
trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.

Lòng quê dợn dợn vời con nước.

“Vời” được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Vì vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn mãi
ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, và cũng rung rinh theo dòng nước như thế.Câu thơ đã
mượn hình ảnh sóng nước tràng giang mà nói về nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy sâu nặng, thường trực trong lòng
nhân vật trữ tình mà không cần được gợi ra bằng một làn khói hoàng hôn nào như trong thơ Thôi Hiệu:

Yên giang ba thượng sử nhân sầu

(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Và như thế, nỗi nhớ, tình cảm quê hương cứ lai láng chảy trên khắp bề mặt của khổ thơ cuối cùng.
Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi về
một tứ Đường thi quen thuộc. Chính Huy Cận nhận rằng chữ “đùn” của câu thơ thứ nhất là ông học từ
bản dịch “Thu hứng” của Nguyễn Công Trứ:


Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Còn câu thơ thứ hai lại được viết dưới ảnh hưởng của những câu thơ Vương Bột:

Lạc hà dữ cô lộ tề phi.

Và hai câu thơ cuối cùng không khỏi làm người đọc nghĩ đến hai câu trong “Hoàng Hạc Lâu” (Thôi Hiệu)

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Điều đó có nghĩa là đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn của thi nhân không chỉ được giăng ra trên các
chiều của không gian như ba khổ trước đó, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài dằng dặc trên chiều của
thời gian. Bởi vì mỗi câu thơ trong khổ đều được neo đậu vào những nỗi buồn dường như vĩnh hằng
trong những câu thơ đã được viết ra nghìn năm trước đó. Và nhờ có khổ thơ này mà mối sầu của “Tràng
giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “. Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ,
mang mang thiên cổ sầu “ ( Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và
như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết
thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian,
khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối.

Tuy nhiên không vì thế mà có thể coi “Tràng giang” giống như là những vần thơ cổ điển. Huy Cận vẫn cứ
hiện diện trong bài thơ như một nhà thơ mới, có thể nhận ra được từ cảm giác bơ vơ, bé nhỏ, một tâm
trạng rất phổ biến của một “thời đại thi ca”. Bởi thế cánh chim chiều của Huy Cận mới yếu ớt, đáng
thương đến thế, bởi đôi cánh nhỏ nhoi kia không đỡ nổi cả bóng chiều nhẹ nhàng, bảng lảng đến phải
chao nghiêng. Nó khác nhiều với cánh cò bình thản trong thơ Vương Bột. Chất thơ mới ấy cũng thể hiện
trong những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói “dợn dợn” ,làm nên cảm giác mơ hồ, lung linh
không rõ rệt. Thêm vào đó, nhà thơ còn từ chối nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” vốn đã là khuôn mẫu
trong thơ cổ. Tình không cần phải được gợi ra từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lý do trên, khổ thơ

cuối cùng của “Tràng giang” đã đạt đến những thành công có ý nghĩa về cả hai phương diện : nội dung
cảm xúc lẫn hình thức văn chương.
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới”. Ông nổi tiếng với các tác
phẩm như: Lửa Thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự…Bạn đọc biết đến ông nhiều nhất qua bài thơ Tràng giang
rút từ tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận.
Huy Cận tâm sự rằng, bài thơ Tràng Giang là do con sông Hồng gợi tứ, lúc đầu bài thơ có tên là Chiều
bên sông nhưng sau đó nhà thơ đổi tên là Tràng Giang. Nhan đề bài thơ Tràng giang gợi lên không khí cổ
kính bởi hai từ Hán Việt gợi hình ảnh một dòng sông dài rộng mênh mông. Không chỉ vậy, âm “ang” gợi
âm hưởng mênh mang như tiếng sóng vỗ vào lòng ta biết bao nỗi niềm. Và nỗi niềm ấy còn lắng đọng
hơn, da diết hơn bởi câu đề từ mang cảm xúc chủ đạo cho toàn bài “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài”.
Bài thơ mở đầu bằng một Tràng Giang mênh mang sông nước:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi: dòng sông, con thuyền, gợn sóng,… Nhưng
cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng khuâng. Hai chữ “điệp điệp” gợi hình ảnh
những con sóng từng gợn nhẹ nhấp nhô hòa mình vào Tràng giang rồi biến mất trong dòng chảy mênh
mông. Sóng của dòng sông, của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lòng của thi nhân với
từng nỗi buồn cứ thế trùng điệp ở trong lòng. Nguyễn Du từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”. Có lẽ vì lòng người buồn mà tâm cảnh cũng nhuốm lên ngoại cảnh. Nhìn đâu thi nhân cũng chỉ
thấy cảnh vật rời rạc chia ly, u sầu cứ thế mà hiện lên trong từng câu chữ. Xưa nay, thuyền – nước vốn là
hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như không ăn nhập vào nhau “Con thuyền
cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông
cũng không thiết đến nhau, cứ âm thầm mà chảy “song song”, vờ không quen biết nhau trong đời”. (Hồ
Minh Tú trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định).
Rồi bất ngờ thay, trên dòng chảy mênh mông ấy, thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc “Củi một cành
khô lạc mấy dòng”. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng “Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca,
một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội cũ”. “Cành củi”

thôi đã gợi lên sự nhỏ bé, đơn độc lại còn “củi khô” nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng
hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng
cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi, bơ vơ, vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa cuồng
phong của một đất nước mất chủ quyền ?
Vẫn tiếp nối cái u sầu, buồn bã của khổ một, khổ thơ tiếp theo như đẩy đưa con người lên đến đỉnh sầu:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”
Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/
Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Và thần thơ cổ điển ấy đã nhuốm vào Tràng giang mang cái buồn
thương hiu hắt. Trên dòng Tràng giang mênh mông, mọc lên “lơ thơ cồn nhỏ”. Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự
rời rạc, thưa thớt của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch,
tiêu điều, xơ xác. Hai chữ “đìu hiu” như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống
như một tiếng thở dài man mác.
Trong tiếng gió buổi chiều là âm thanh của cuộc sống con người nhưng nghe mơ hồ quá “ Đâu tiếng làng
xa vãn chợ chiều”. Đâu là ở đâu ? Không xác định. Đó là thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn
theo làn gió lan xa mãi. Nó chỉ thoáng qua trong gió rồi tắt lịm giữa bóng chiều đang xuống càng làm cho
cảnh chiều hư vô, càng gợi thêm sự vắng vẻ, quạnh hiu. Nhà thơ như đang bị vây giữa không gian ba
chiều rộng lớn “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Vũ trụ được đẩy lên
cao bởi khi nắng chiều xuống, bầu trời như được nâng lên hẳn làm nên độ cao “sâu chót vót”. Chữ “sâu”
rất ấn tượng. Nếu dùng từ “cao” thì chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời còn chữ “sâu” vừa tả được độ
cao vừa gợi được cảm giác của con người trước chiều cao ấy. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người
trước cái vô cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng
thiên địa. Con người trong phút ấy trở nên nhỏ bé cô đơn hơn bao giờ hết. Nhà thơ gọi quãng mình
đứng là “bến cô liêu” hay chính tâm hồn thi nhân đang lẻ loi và hoang vắng. Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu
đã đồng điệu khi gọi hồn mình là “bến cô liêu” hay “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” (Xuân Diệu)
Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái tôi cô đơn của thi nhân còn đi sâu hơn nữa vào ngọn nguồn của nỗi
buồn thương:
“ Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trong “bèo dạt về đâu” mang thân phận con người: lạc loài, trôi nổi. Đó chính là
hình ảnh của số phận con người “hàng nối hàng” không biết đi về đâu trong xã hội cũ khi chưa có cách
mạng về. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối. Phóng tầm mắt
ra sông rộng thấy “Mênh mông không một chuyến đò ngang”; “Không cầu gợi chút niềm thân mật” để
rồi thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Hai từ “không” hai lần phủ định “không đò”, “không cầu” trong
hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm. Nhìn
đâu cũng chỉ thấy “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Khổ thơ cuối cùng khép lại mang niềm tâm sự sâu kín của thi nhân về tình yêu quê hương đất nước:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ : một rặng núi xa, những đám
mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. “Có thể nói cảnh vật hiện lên ở khổ cuối là cảnh vật cô đọng
nhất nhưng cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất. Tầng tầng lớp lớp những áng mây chồng chất lên nhau
như chất chứa cả nỗi niềm ẩn khuất của nhà thơ. Động từ “đùn” diễn tả trạng thái hoạt động tràn đầy
sức sống, ánh sáng chiếu vào lấp lánh như màu bạc. Cả bài thơ chỉ có mỗi dòng này le lói sự sống tươi
mới, rực rỡ” (Hồ Minh Tú trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định). Cảnh thật hùng vĩ tráng lệ nhưng
đối lập với cái hùng vĩ ấy là hình ảnh cánh chim nhỏ bé đơn côi đang “nghiêng cánh nhỏ”. Bóng chiều
buông xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, lạc lõng giữa bầu trời rộng thênh thang. Cánh chim như chở
nặng nỗi niềm thi nhân hay chính là hình bóng thi nhân đang lạc lõng, bơ vơ giữa vòng xoáy cuộc đời?
Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Thi sĩ gọi tâm hồn mình là “lòng
quê”. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, "dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa
từng thấy trước đó. Cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê" đang “dợn” lên trong
tâm hồn thi nhân làm cho hồn người nôn nao không yên. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi
đang đứng giữa quê hương của chính mình nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung
của các nhà Thơ Mới lúc bây giờ.

Câu thơ cuối cùng khép lại “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nhà thơ đã mượn ý thơ Thôi Hiệu để
nói lên nỗi lòng của mình. Cách đó mười thế kỷ Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà lòng nhớ quê
hương da diết khôn nguôi:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Huy Cận không nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng và lòng yêu quê
hương sâu kín của nhà thơ. Từ đó bài thơ mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật.
Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước. Phải chăng đó chính là sự đồng điệu của hai
tâm hồn thi sĩ cách nhau mười thế kỷ?
Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển và hiện đại qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ
với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả …nhiều từ Hán
Việt cổ kính còn tình cảm thi nhân mang màu sắc hiện đại.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng
liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ,
như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Như Xuân Diệu đã từng nói“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông
đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” . Đọc “Tràng giang” ta thêm yêu, thêm nhớ
đất trời sông núi quê hương Việt Nam.
Kênh Tri Thức / Tài liệu / Phân tích bài thơ Tràng giang của Cù Huy Cận
Phân tích bài thơ Tràng giang của Cù Huy Cận
Đề bài:
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận!
Hướng dẫn chi tiết:
MB:
Nếu ai đã từng thưởng thức các sáng tác Huy Cận, ắt hẳn sẽ không thể không nhận ra rằng: trước
Cách mạng tháng Tám 1945, thơ ông thường mang nỗi sầu nhân thế và ca ngợi cảnh đẹp của thiên
nhiên vũ trũ. Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Huy Cận là bài “Tràng giang”.
Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông trước Cách mạng. Bài thơ được trích từ
tập “Lửa thiêng”, mang tâm sự u hoài trước kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời mênh mông,

vô định. Bài thơ vừa có đượm nét đẹp cổ điển lại vừa có nét hiện đại, đem đến nhiều yêu mến, say
mê cùng những rung động khó phai trong tâm hồn độc giả.
TB:
* Khái quát chung:Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.
“Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên
trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong
thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông
sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân
xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi
ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến
rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả
bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Trước cảnh“trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh
mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng
khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu,
cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ,
cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
1/ Khổ 1:
Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy
nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và
không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang
ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng
sông gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong

cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một
dòng “tràng giang” dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận
lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách“thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì
thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và
một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra
trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ
viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi
buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một càng khô lạc
mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô
đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt
nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn
mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn
ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Để từ đó, con người dường như đang lạc
lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước
con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp ngườởtớc dòng
đời vô định.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u
sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về
một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp
hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm
cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc
lõng.
2/ Khổ 2:
Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên
sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê
hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ
sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của
một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu”
được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ”
gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một
khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi,
không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút
sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn
toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Tất
cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của
nắng và bầu trời :
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: “lên” –
“xuống”. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà
Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. “Sâu chót vót” là cảnh diễn
đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Cụm từ này tạo cảm giác thăm
thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong
gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.
Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những
gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao:
“Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một

nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì
cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc
trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ
chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
3/ Khổ 3:
Đến khổ thơ thứ ba, nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì
quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã
đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Hình như ở đây có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh
mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng
thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh
bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình
ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng
tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai
chữ “về đâu”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi
lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra
một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người,
không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định: “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con
người. Không có con đò đậu. không có lấy một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút
bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con
đò.Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn
đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang,
phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu
thơ cuối :
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc
cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại
nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.
4/ Khổ 4:
ở khổ cuối cùng của bài thơ,Huy Cận đã khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ
Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh
trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì
vĩ.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây
dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía
của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản
quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không
gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ. Và lại càng thi vị hơn khi nó được
khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng
giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.
“Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa”
Cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột :
“Lạc hà dữ cô lộ tề phi”

(Ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay)
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim
nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều
vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình.
Nhà thơ đã hữu hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người
đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong
hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông
như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.
Có thế thấy nét hiện đại của ngòi bút Huy Cận bộc lộ rõ qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ
sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng
chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm
nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh
chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng
cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm
đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn.
Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: “Trên sông khói sóng cho
buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì
buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu
quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối
thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi
liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim… Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ
điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như“sâu chót vót”, dấu hai
chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng

giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước
mà đành bất lực, không làm gì được.
KB:
Có thể nói “Tràng giang” đã, đang và sẽ mãi luôn đi sâu vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất
Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu
nước, yêu quê hương.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Mùa thu năm 1939, nhà thơ Huy Cận, chàng trai 20 tuổi, nhân lúc đi đến bến Chèm,
đứng bên bờ nam nhìn cảnh sông Hồng mênh mông trời nước bao la đã hình thành bài
thơ “Tràng giang”. Đây không chỉ là bài thơ tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ
Huy Cận mà còn là bài thơ đặc sắc trong trào lưu thơ lãng mạn giai đoạn 1930 –1945.


“Tràng Giang” mang không khí đường thi, cổ kính và thấm đẫm màu sắc Phương
Đông. Nó có phần khác lạ so với rất nhiều thi phẩm của các thi sĩ cùng thời đang háo
hức đón nhận luồng gió Tây phương, nhiệt tình vận dụng thể thơ sonet của Pháp đổi
mới thơ Việt Nam. Tuy vậy “Tràng giang” tuyệt nhiên không bị coi là “cũ”. Ngay cả đối
với hôm nay, nó đã từng vượt qua ba phần tư thế kỷ, từng song hành với rất nhiều bài
thơ hay của nhiều xu hướng, trào lưu nghệ thuật khác nhau, song giá trị của Tràng
giang vẫn không hề bị suy giảm. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình chứng minh
rằng sự trường tồn của một bài thơ không phụ thuộc vào việc nó được viết bằng thể
thơ gì, hình thức nào? Sức sống của nó chính là ở hồn vía nhà thơ, một cá thể mà soi
vào đó người ta thấy được tâm thế của thời đại.

Tràng giang có nghĩa sông dài, cụ thể ở đây là sông Hồng, nhưng tác giả không đặt tên
bài thơ là sông dài, mà là “Tràng giang” vì sức biểu đạt của “Tràng giang” sâu sắc hơn,
không chỉ về âm hưởng trang trọng cổ kính mà còn tái hiện một không gian khoáng đạt
vô cùng vô tận của thiên nhiên vũ trụ.

Tràng giang trước hết là một bài thơ thiên nhiên, nhưng cái đích của nó là mượn thiên
nhiên, thông qua thiên nhiên để bày tỏ niềm hoài nhớ quê hương và tâm trạng của
người trí thức trước thời cuộc.

Thiên nhiên vừa là tác nhân khơi nguồn cảm xúc vừa là phương tiện biểu đạt. Thiên
nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những
hình ảnh cao lớn, rộng dài, bao la kỳ vĩ mang chiều kích vũ trụ: “sông dài”, “trời rộng”,
“mây cao”, “núi bạc”, “bờ xanh”, “bãi vàng”. Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé,
đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi, vật vờ: “con thuyền”, “củi một cành khô”, “cồn nhỏ gió đìu hiu”,
“bèo dạt”, “chim nghiêng cánh nhỏ”…Hệ thống hình ảnh đối lập này tạo nên sự liên
tưởng về thân phận con người nhỏ bé,bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng,
như bèo dạt hàng nối hàng không biết về đâu, như củi một cành khô lạc mấy dòng. Đây
là tâm trạng chung của nhiều thanh niên trí thức thời bấy giờ, khi dân tộc chìm trong

bóng đêm nô lệ, mà họ chưa tìm thấy con đường đi. Tâm trạng này in đậm trong thơ
giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Lưu Trọng Lư cảm nhận thân phận như “con nai
vàng ngơ ngác”. Xuân Diệu cũng rơi vào trạng thái của “con cò trên ruộng cánh phân
vân”. Còn Tố Hữu thì thốt lên:

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”.

Và đó là lý do của nỗi buồn, cô đơn mà người ta gọi là tâm bệnh của thời đại. Nỗi buồn
ấy thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật trở thành lý tưởng thẩm mỹ, chi phối hoạt động
sáng tạo của các nhà thơ lãng mạn. Trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận nỗi buồn
là âm hưởng chủ đạo, bao trùm. Nỗi buồn dường như nằm trong bản thân tạo vật:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
… Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
…Sông dài trời rộng bến cô liêu

Nỗi buồn ấy choán hết cả không gian, thời gian biến không gian thành một vũ trụ hoang
vắng và tĩnh lặng và thời gian ngưng đọng.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”

Bầu trời như thể bị đẩy lên cao, sâu thẳm không thể nhìn thấy đáy. Bầu trời hoang vu
như hồn người, còn mặt đất thì

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Giữa sông nước mênh mông không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hy
vọng về một bến bờ khác, vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng.

Không có một âm thanh nào phát ra thành tiếng. Sóng gợn nhẹ, gió đìu hiu, bờ bãi lặng
lẽ, chỉ có thứ âm thanh từ ký ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành
câu hỏi: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

Hiếm có bài thơ nào cùng một lúc sử dụng hàng loạt từ láy như Tràng giang: “điệp
điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu” “chót vót”, “lớp lớp”, “dợn dợn” là những từ có ưu
thế diễn tả “cá tính” của sự vật, tạo nên nhịp điệu, âm hưởng của lời thơ và do đó bộc
lộ sắc thái tình cảm của nhà thơ. Và cũng hiếm có bài thơ nào đưa cả một hệ thống
thiên nhiên với nhiều hình ảnh, sự vật như “Tràng giang”. Lạ ở chỗ các yếu tố thiên
nhiên sự vật hầu như không liên kết với nhau. Nó tồn tại, vận động một cách độc lập,
cô lẻ, rời rạc như cũng tự mình ẩn vào nỗi niềm riêng , do đó càng làm gia tăng ở con
người cảm giác cô đơn, bơ vơ, không được nương tựa, che đỡ. Trong hoàn cảnh ấy
con người thường tìm nơi bám víu, tìm chỗ dựa tinh thần, một nguồn an ủi. Nơi ấy là
quê hương

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bóng chiều, hoàng hôn đã trở thành thời gian tâm lý trong thơ kim cổ. Đó là khoảng
thời gian cuối ngày đang dần chuyển sang đêm; những tâm tư lắng đọng cho nỗi nhớ
trào lên, nhất là nỗi nhớ quê hương luôn thường trực đau đáu trong tâm hồn thi nhân.
Nhà thơ Thôi Hiệu từng viết:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Trước con sông dài mênh mông, nhà thơ Huy Cận như đồng cảm với nỗi lòng nhớ quê
của Thôi Hiệu ông “thú nhận” với mình: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.


Vậy là nỗi buồn của nhà thơ được cắt nghĩa đầy đủ hơn. Đó không phải nỗi buồn vu
vơ, vô cớ, mà là nỗi buồn trong sạch thanh cao. Nỗi buồn ấy không làm cho con người
trở nên yếu đuối, bi lụy, mà nuôi dưỡng trong ta những tình cảm đẹp, những khát vọng
lớn lao và tình yêu quê hương đất nước./.

×