Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận học thuyết kinh tế của Adam Smith

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.34 KB, 17 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------

TIỂU LUẬN
HỌC THUYẾT CỦA ADAM SMITH
Sinh viên thực hiện: ĐOÀN NHẬT TÂN
MSSV: 030134180449
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn: Lê Kiên Cường

Tp. Hồ Chí Minh tháng 11 năm 2022


LỜI NÓI ĐẦU


MỤC LỤC
Chương 1: Giới Thiệu Về Adam Smith..............................................................................4
I.

Tiểu sử, tác phẩm, sự nghiệp và thời đại của Adam Smith..........................................4

II.

Tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith..................................................................5

Chương 2: Đặc Điểm Phương Pháp Luận Của Adam Smith..............................................7
Chương 3: Những Lý Luận Kinh Tế Cơ Bản Của Adam Smith.........................................8
I.


Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản.....8

II.

Phê phán chủ nghĩa trọng Nông...............................................................................8

III.

Phê phán chủ nghĩa trọng Thương...........................................................................8

IV.

Lý luận về Thuế khóa...............................................................................................9

V.

Lý luận về Kinh tế Hàng hóa.................................................................................10
5.1. Lý luận về phân cơng lao động...........................................................................10
5.2. Lý luận về tiền tệ................................................................................................10
5.3. Lý luận về giá trị lao động..................................................................................11
5.4. Lý luận phân phối của Adam Smith....................................................................12
5.5. Lý luận về tư bản................................................................................................14
5.6. Lý luận về thu nhập............................................................................................15
5.7. Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội...................................................................15
5.8. Lý thuyết về “lợi thế so sánh”.............................................................................15

Chương 4: Đóng Góp Của Học Thuyết............................................................................17


Chương 1: Giới Thiệu Về Adam Smith

I.

Tiểu sử, tác phẩm, sự nghiệp và thời đại của Adam Smith

Vào thế kỉ XVIII châu Âu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp, tích lũy tư bản. Sự
chuyển biến phương thức sản xuất đã làm cho học thuyết kinh tế chủ nghĩa trọng thương
khơng cịn thích hợp và thay vào đó là Kinh tế chính trị học tư sản ra đời. Nó là nền tảng
khoa học của kinh tế thị trường ngày nay. Một trong những đại biểu tiên phong xây dựng
hệ thống ấy là Adam Smith.
Adam Smith (1723-1790) sinh ở Kircaldy, Scotland, là con của một viên kiểm sốt thuế
vụ. Bố ơng mất trước khi sinh ơng một vài tháng, cịn mẹ ông thọ đến 90. Năm 1737, vào
tuổi 14, Adam Smith đã vào trường Đại học Glasgow, sau đó tiếp tục theo học Đại học
Oxford và trở thành nhà lý luận kinh tế chính trị học cổ điển nổi tiếng của Anh. Từ thời
thanh niên, Smith biểu lộ dấu hiệu mà giới chuyên gia nghiên cứu tâm thần gọi là “hội
chứng giáo sư”. Người viết tiểu sử của ông mô tả ông là một học sinh có năng lực, mặc
dù có “sự cao hứng khó hiểu”, sau này trong cuộc đời học thuật thường chuyển qua
những lúc cao hứng mộng tưởng thường làm rối loạn bạn đồng nghiệp (ví dụ họ nhìn
thấy ơng mỉm cười trong buổi lễ nhà thờ). Một trong những lúc mộng tưởng vào sáng
sớm, ông đi bộ đến 15 dặm trong bộ đồ ngủ trước khi chuông nhà thờ ở làng bên “đánh
thức” ông. Trong một dịp khác, trong khi đi bộ với một người bạn, người ta kể rằng tự
nhiên ông tranh luận sôi nổi trong khi khơng có khơng có người khác ở gần, đến mức rơi
xuống hố thuộc da! Người ta cịn kể ơng đãng trí làm rơi bánh mì bơ vào nước sơi, sau đó
ơng cho rằng xưa nay mình chưa hề pha chén chè nào tệ đến như thế.
Mặc dù không phải là người điển trai, sự có dun của ơng khiến bạn bè và sinh viên yêu
mến. Có thể người ta tàn nhẫn mơ tả ơng là “hỗn độn những gì nhô ra”. Một chân dung
ông bằng đá chạm cho thấy môi dưới của ông trề ra, chiếc mũi to đùng và đôi mắt ốc
nhồi. Vả lại trong suốt đời ông gặp rắc rối vì nỗi khổ sở của bệnh thần kinh, đầu ông lắc
lư, bị ảnh hưởng của chứng mất ngôn ngữ. Tuy nhiên tất cả những điều này không làm
giảm khả năng tri thức của ông. ông tự mô tả mình là “một gã nịnh đầm khơng có gì
ngồi sách vở”. Ở Đại học Glasgrow và sau này ở Offord, Smith giảng về thần học tự

nhiên, luân lý học, luật học và kinh tế chính trị học. Sinh viên từ Nga và châu Âu sang
Anh để nghe ông giảng. Ông là học trò của Frances Hutcheson là bạn của David Hume,
và là người quen biết với Quesney. Một trong số các bạn ơng có Joseph Black một người
tiền phong về ngành hóa học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert
Foulis là nhà sáng lập ra Viện hàn lâm Kiểu mẫu Anh quốc (The British Academy of
Design). Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà bn, ngun viện
phó của Đại học Glasgow, người sáng lập ra Câu lạc bộ Kinh tế chính trị (Political


Economy Club). Trong tác phẩm rất quan trọng của ông, “The theory of moral
setiments”, xuất bản lần đầu tiên năm 1759. Tác phẩm này là nỗ lực nhận định nguồn gốc
đánh giá luân lí hay thừa nhận và phản đối luân lý. Trong sách ấy Smith nhận thức con
người nhưng một sinh vật tư lợi mặc dù có khả năng đánh giá luân lý trên cơ sở những
cân nhắc khác với tính ích kỷ. Ơng cho rằng sự đánh giá luân lý thường được tiến hành
bằng cách duy trì tư lợi trong sự vâng lời và đặt chính mình trong quan điểm người thứ
ba, người quan sát vô tư. Trong cách này, người ta tiếp cận khái niệm đồng cảm ln lý
chứ khơng phải là khái niệm ích kỷ, và luân lý thực sự vượt qua sự ích kỷ. tác phẩm “The
theory of Moral sentiments” và các vấn đề trong sách ấy thu hút sự quan tâm ngay lập tức
và mang lại danh tiếng cho tác giả. Nhưng nhiều sử gia tư tưởng kinh tế có khuynh
hướng xem điều đó là không nhất quán với tầm quan trọng mà sau này Smith đặt tính tư
lợi như một động lực trong “The wealth of nations” (xuất bản năm 1776). Quan điểm am
hiểu có khuynh hướng xem tác phẩm “The wealth of nations” như một sự triển khai lô
gic của tác phẩm “The theory of moral sentiments”, mặc dù vậy chưa phải là cách đánh
giá nhất trí.
Xét về phương pháp luận của Adam Smith, K. Marx đã nhận xét: một mặt, Adam Smith
quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế. Mặt khác, Adam Smith lại đặt
mối liên hệ đó như mối liên hệ bề ngồi của hiện tượng… và do đó, Adam Smith xa lạ
đối với khoa học. Phương pháp luận nghiên cứu của Adam Smith đã có ảnh hưởng sâu
sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này. Ông được coi là “Cha đẻ của lý luận kinh tế
thị trường” hay rộng hơn là cha đẻ của kinh tế học hiện đại.


II.

Tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith

Điểm xuất phát trong nghiên cứu lý luận kinh tế của Adam Smith là nhân tố con người.
Theo Adam Smith xã hội là liên minh của những mối quan hệ trao đổi. Thiên hướng trao
đổi là đặc tính vốn có của con người. Chỉ có trao đổi và thông qua thực hiện những việc
trao đổi thì con người ta mới cảm thấy thỏa mãn. “Hãy đưa cho tôi cái mà tôi cần, tôi sẽ
đưa cho anh cái mà anh cần”. Ơng cho rằng đó là một thiên hướng phổ biến và tất yếu
của xã hội.
Adam Smith cho rằng tư tưởng tự do kinh tế (bàn tay vơ hình) có nghĩa là: Trong nền
kinh tế thị trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng
muốn thế cho nên vơ hình trung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng
đồng. Theo Adam Smith, chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp vào cá nhân và
doanh nghiệp, cứ để nó tự do hoạt động kinh doanh; ơng kết luận: "Sự giàu có của mỗi


quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ của nhà nước, mà do bởi tự do
kinh doanh" - Tư tưởng này đã chế ngự trong suốt thể kỉ XIX.
Theo lý luận này, thì hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ mang mục đích bảo
vệ lợi ích của riêng mình; thơng thường, khơng có chủ định củng cố lợi ích cơng cộng và
cũng khơng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Tuy nhiên khi đó, hệ thống
thị trường và cơ chế giá cả sẽ hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người
như thể có một bàn tay vơ hình đầy thiện ý điều khiển tồn bộ q trình xã hội và sự điều
khiển tự phát này cịn có hiệu quả hơn cả khi có ý định làm việc này.
Thuyết của Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự can thiệp
của nhà nước vào kinh tế), là mầm mống cho địi hỏi được tự do kinh doanh, có sự thích
hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài. Tuy nhiên sau này, thực tế đã cho thấy
những điểm chưa hoàn toàn hợp lý của thuyết này, và người ta vẫn phải dùng đến nhà

nước là "bàn tay hữu hình" thơng qua luật pháp, thuế và các chính sách kinh tế để điều
chỉnh nền kinh tế xã hội kết hợp với cơ chế tự điều chỉnh theo thuyết bàn tay vơ hình để
thúc đẩy sự phát triển về kinh tế xã hội của đất nước.
Một ví dụ dễ nhận thấy của "bàn tay vơ hình" trong quy luật cung cầu của thị trường là
vấn đề kiểm soát giá của các loại hàng hóa. Khi giá cả khơng được tự do định đoạt bởi
quy luật cung cầu hoặc bị ngăn cản thực hiện ở mức "arm's length" (thuận mua vừa bán)
thì mặc nhiên sẽ hình thành nên một thị trường ngầm mà người ta quen gọi là thị trường
"chợ đen", vượt hồn tồn ra khỏi ý chí của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào. Khi được
hỏi “Chính sách kinh tế nào phù hợp với trật tự tự nhiên?” Adam Smith đã trả lời: Tự do
cạnh tranh. Xã hội muốn giàu có phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do.


Chương 2: Đặc Điểm Phương Pháp Luận Của Adam Smith
Phương pháp luận của Adam Smith dựa trên trật tự tự do, thể hiện trong tư tưởng trật tự
tự nhiên, cho rằng một xã hội hợp với tự nhiên là xã hội tự do cạnh tranh giao lưu trao đổi
hàng hóa. Bằng phương pháp luận trừu tượng ông cố gắng phân tích bản chất bên trong
của xã hội tư sản. Nhưng ông lại cho rằng nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế học cổ
điển là mô tả bức tranh cụ thể của đời sống kinh tế để vạch ra các chính sách kinh tế.
Điều đó dẫn đến tính hai mặt trong phương pháp luận của Adam Smith. Mâu thuẫn này
dẫn đến mâu thuẫn trong lý luận kinh tế của ông.
Cũng từ đây đã đề ra hai trường phái kinh tế khác nhau: trường của D. Ricardo, K. Marx
và trường phái của Say, Malthus, …

Cạnh Tranh

Trao đổi

Phân công
lao động


Sôi động cung

Việc làm

Tăng cường

Mơ Hình Cổ Điển của Adam Smith

Thu nhập của những
người có hiệu quả
nhất

Tiết kiếm


Chương 3: Những Lý Luận Kinh Tế Cơ Bản Của Adam
Smith
I.

Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế
của giai cấp tư sản

Adam Smith luôn phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, ơng cho rằng
“các đại biểu được kính trọng nhất trong xã hội” như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu,
… cũng như là những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả.
Adam Smith lên án chế độ kế thừa tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là
“thể chế dã man” ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp.
Adam Smith cịn phê phán chế độ thuế khố độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế
độ thuế thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích luỹ của nơng
dân. Đồng thời ơng cịn bác bỏ việc hạn chế bn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho sản

xuất nơng nghiệp. Adam Smith vạch rõ tính chất vơ lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch
và chứng minh tính chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
Từ đó Adam Smith đã đưa ra kết luận: Chế độ phong kiến là một chế độ "khơng bình
thường": là sản phẩm của sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một
chế độ trái với trật tự ngẫu nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính
trị. Theo ơng nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh,
tự do mậu dịch.

II.

Phê phán chủ nghĩa trọng Nông

Mục tiêu phê phán của ông là đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính chất đặc
biệt của nơng nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất khơng sản
xuất của cơng nghiệp.
Ơng phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là
giai cấp khơng sản xuất.
Ơng đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản xuất vật
chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản...

III.

Phê phán chủ nghĩa trọng Thương

Adam Smith là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ nghĩa
trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là niệm quan trọng bậc nhất
để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp.


Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và cách

làm giàu bằng cách trao đổi khơng ngang giá. Ơng cho rằng việc nâng cao tỷ suất lợi
nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải tiến sản
xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trị của tiền tệ. Theo ơng, sự
giàu có khơng phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì với tiền.
Adam Smith cho rằng lưu thơng hàng hố chỉ thu hút được một số tiền nhất định và
không bao giờ dung nạp quá số đó.
Ơng phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông cho
rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù...nhà nước có thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp
riêng lẻ như xây dựng đường sá, sơng ngịi và các cơng trình lớn khác. Theo ơng, sự phát
triển kinh tế bình thường khơng cần có sự can thiệp của nhà nước.

IV.

Lý luận về Thuế khóa

Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư sản,
chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của
nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi
nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi
nhuận, tiền công.
Adam Smith đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế:





Các thần dân phải có nghĩa vụ ni chính phủ, "tuỳ theo khả năng và sức lực của
mình".

Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác.
Chỉ thu vào thời gian thuận tiện, và với phương thức thích hợp.
Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế.

Adam Smith đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu:



Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công, và
tài sản kế thừa.
Thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu, nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người
"sống trung bình hoặc cao hơn trung bình".


V.

Lý luận về Kinh tế Hàng hóa

V.1. Lý luận về phân công lao động
Adam Simith cho rằng phân công lao động là sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát triển
sức sản xuất lao động.
Ông cho rằng phân công lao động sẽ làm tăng thêm hiệu suất lao động, tăng năng suất lao
động.
Ông khẳng định nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là trao đổi, nên mức độ phân
công phụ thuộc vào quy mô thị trường, điều kiện để thực hiện phân công là mật độ dân số
cao và sự phát triển của giao thông liên lạc.
Cũng theo Adam Smith phân cơng lao động có 3 ưu điểm:





Tay nghề và kỹ thuật sản xuất của người công nhân tang lên.
Tiết kiệm thời gian chuyển từ dạng lao động này sang dạng lao động khác.
Có khả áp dụng các phương pháp sản xuất mới và điều kiện cho máy móc ra đời.
Rõ ràng ơng đã lẫn lộn giữa phân công lao động trong xã hội với phân công lao
động trong công trường thủ công xem xã hội như một công trường thủ công mở
rộng. Đồng thời, Adam Smith cho rằng nguyên nhân xuất hiện và phát triển của
phân cơng lao động là khuynh hướng ích lợi cá nhân và khuynh hướng trao đổi.

V.2. Lý luận về tiền tệ
Adam Simith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch sử
trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự phát triển của
các hình thái giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hoá đặc biệt làm chức năng
phương tiện lưu thông và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền tệ. Nó là phương tiện
để khắc phục khó khăn của trao đổi hàng hóa trực tiếp, là “chiếc bánh xe vĩ đại của lưu
thơng”. Ơng là người đầu tiên khuyên nên dùng tiền giấy.
A. Smith là người có nhiều đóng góp khi nghiên cứu nguồn gốc và cách sử dụng tiền tệ
của các dân tộc trên thế giới. Chẳng hạn vỏ sò được sử dụng như tiền tệ ở Ấn Độ, cá
tuyết khô (Newfoundland), thuốc lá (Virginia), đồng (La Mã cổ đại), vàng và bạc được sử
dụng ở các quốc gia giàu có.
Ơng đã có quan điểm đúng về số lượng tiền cần thiết trong lĩnh vực lưu thông là do giá cả
quy định.
Trong lý luận của Adam Smith cịn có hạn chế là: khơng hiểu đầy đủ bản chất của tiền,
còn nhầm lẫn giá trị tiền với số lượng tiền, không thấy hết các chức năng của tiền tệ.


V.3. Lý luận về giá trị lao động
Adam Simith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi phân
tích về giá trị trao đổi ơng đã tiến hành phân tích qua các bước:







Xét hàng hố trao đổi với lao động: Ơng cho rằng, thước đo thực tế của giá trị
hàng hoá là lao động nên giá trị hàng hoá là do lao động sống mua được. Như vậy
là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh trong hàng hố với lao động mà
hàng hố đó đổi được.
Xét trao đổi hàng hố với hàng hố: Ơng viết: "Giá trị trao đổi của chúng bằng
một lượng hàng hố nào đó". Như vậy giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ tỷ lệ
về số lượng giữa các hàng hoá.
Xét trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ: Theo ơng, khi chấm dứt nền thương
nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hoá được đo bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu
hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hố có hai loại thước đo đó là lao động và
tiền tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn
tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thơi.

Về định nghĩa giá trị ơng có hai quan điểm:




Thứ nhất, giá trị lao động trong tất cả các ngành sản xuất vật chất tạo ra nó và
được đo bằng chi phí lao động. Ở đây ơng đề cập đến giá trị lao động giản đơn và
phức tạp. Ông khẳng định rằng trong một đơn vị thời gian, lao động có chun
mơn tạo ra một giá trị lao động lớn hơn giản đơn. Với định nghĩa này ông được
xem là cha đẻ của lý luận giá trị - lao động.
Thứ hai, giá trị được quyết định bởi số lao động có thể mua được hàng hóa này

(giá trị bằng với tiền của công nhân). Theo Adam Smith định nghĩa này không
mâu thuẫn với định nghĩa trên.

Adam Simith là người đưa ra quan đúng đắn về giá trị hàng hố đó là: giá trị hàng hố là
do lao động hao phí tạo ra, ơng cịn chỉ rõ giá trị hàng hố bằng số lượng lao động đã chi
phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống.
Tóm lại trong lý luận giá trị - lao động Adam Smith đã có những bước tiến đáng kể so với
chủ nghĩa trọng nơng và W.Petty. Cụ thể là:


Ơng đã chỉ ra cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị chính là do lao động. Lao động
là thước đo giá trị (theo ông: lao động là nguồn gốc của sự giàu có của các quốc
gia, là thực thể giá trị của hàng hố. Khơng phải vàng hay bạc mà sức lao động
mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải cần thiết).










Ông khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị
hàng hố (đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng
nông).
Trong khi phân biệt hai phạm trù giá trị sử dụng và giá trị, ông bác bỏ quan niệm
cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích về giá trị, ơng
cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi trong mối quan hệ về số lượng với

các hàng hoá khác, cịn trong nền sản xuất hàng hố phát triển nó được biểu hiện ở
tiền.
Lượng giá trị: là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, khơng phải
do lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hố. Ở đây đã có sự trừu tượng hố
các dạng lao động cụ thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét giá trị do lao
động tạo ra như một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Đã có sự phân biệt
lao động giản đơn, lao động phức tạp trong việc hình thành lượng giá trị hàng hoá.
Về giá cả: theo Adam Smith, giá trị là cơ sở của giá cả và có giá cả tự nhiên và giá
cả thị trường. Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hoá do lao động quyết định.
Giá cả thị trường (hay giá cả thực tế) thì khác với giá cả tự nhiên, phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác (ông đã sớm nhận ra nhân tố độc
quyền tư bản).

Lý luận giá trị - lao động của Adam Smith cịn có hạn chế, đó là:






Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận giá trị lao động ơng
đã có định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng hố. Nhưng có
lúc ông lại định nghĩa giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng
hàng hố này quyết định (gồm v+m), tức là khơng thấy vai trị của lao động quá
khứ. Vì vậy dẫn đến sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
Một quan điểm sai lầm của Adam Simith khi ông cho rằng: "tiền công, lợi nhuận,
địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là
ba bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá". Do đó giá trị do lao động tạo ra chỉ đung
trong nền sản xuất hàng hố giản đơn cịn trong kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nó do
các nguồn thu nhập tạo thành là tiền công, lợi nhuận và địa tô. Điều này biểu hiện

sự xa rời học thuyết giá trị - lao động.
Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng ông lại
chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình qn.

V.4. Lý luận phân phối của Adam Smith
A. Smith đã thực hiện một bước tiến so với phái Trọng Nông khi phân chia các giai cấp
trong xã hội tư sản nhằm phân tích các thu nhập của các giai cấp. Ơng phân chia thành 3
giai cấp cơ bản gắn với quyền sở hữu tư liệu sản xuất và thu nhập:


 Giai cấp công nhân: Thu nhập là tiền lương:
 Tiền lương là thu nhập của công nhân, gắn với lao động của họ. Nó là sự bồi hồn
nhờ cơng lao động. Như vậy, tiền lương là thu nhập có lao động, nó gắn liền với
lao động. Theo ơng, trong sản xuất hàng hóa giản đơn cũng có tiền lương, nó bằng
tồn bộ sản phẩm của lao động. Cịn trong chủ nghĩa tư bản, tiền lương cần phải
đủ để đảm bảo cho công nhân mua phương tiện sống, tồn tại và phải coa hơn mức
đó. Ơng cho rằng: tiền lương khơng thể thấp hơn chi phí tối thiểu cho cuộc sống
của người công nhân. Nếu quá thấp họ sẽ không làm việc và bỏ ra nước người.
Tiền lương cao sẽ kích thích tiến bộ kr bởi vì nó làm tăng năng suất lao động. Điều
kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, thói quen tiêu dùng; quan hệ cung- cầu
trên thị trường lao động; tương quan lực lượng giữa nhà tư bản và công nhân trong
cuộc đấu tranh của cơng nhân địi tăng lương là các nhân tố tác động đến tiền
lương.
 Tuy nhiên, A.dam Smith không hiểu được bản chất của tiền lương. Ông chỉ thấy
được sự khác nhau về số lượng giữa tiền lương trong sản xuất hàng hóa giản đơn
và trong chủ nghĩa tư bản. Ông quan niệm tiền lương là giá cả của lao động, bởi vì
ơng khơng hiểu phạm trù sức lao động. Đây là một hạn chế lớn của ông.
 Giai cấp các nhà tư bản (bao gồm tư bản công nghiệp, nông nghiệp và thương
nghiệp): Thu nhập là lợi nhuận:
 Lý luận lợi nhuận của ông đầy mâu thuẫn: Theo ông, người công nhân tạo ra giá

trị vật chất chia làm 2 phần: tiền lương của anh ta và lợi nhuận của nhà tư bản. Có
nghĩa, ơng thấy được bản chất của sự bóc lột. Mặt khác, ơng phủ nhận bản chất
bóc lột của lợi nhuận khi quan niệm lợi nhuận được sinh ra bởi tồn bộ tư bản ứng
trước. Ơng cịn cho lợi nhuận là khoản bồi hồn cho việc mạo hiểm của nhà tư
bản. Ơng khẳng định: mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận và nó
phù hợp với lợi ích xã hội.
 Adam Smith có cơng khi tìm ra xu hướng bình qn hóa tỷ suất lợi nhuận trong
các ngành khác nhau trên cơ sở của tự do cạnh tranh và mối quan hệ giữa tỷ suất
lợi nhuận và khối lượng tư bản đầu tư. Tư bản đấu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi
nhuận càng giảm. Như vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tư bản càng được đầu
tư thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm. Đây là xu hướng có tính quy luật trong chủ
nghĩa tư bản, nhưng cách lý giải nguyên nhân của A. Smith chưa thỏa đáng. Theo
K. Marx, do cấu tạo hữu cơ của tư bản có xu huống tăng lên nên tỷ suất lợi nhuận
mới có xu huống giảm xuống.
 Giai cấp chủ đất: Thu nhập là địa tô:
 Lý luận địa tô của Adam Smith cũng có nhiều mâu thuẫn như lý luận về lợi nhuận
và cịn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Trọng nơng. Địa tô là 1 phần của sản phẩm
lao động, giống như lợi nhuận. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản




phẩm của lao động và lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ 2. Như vậy, ông đã thấy
được bản chất bóc lột của địa tơ. Nhưng khi giả thích vì sao có địa tơ thì ơng cho
rằng trong nơng nghiệp có địa tơ vì lg nơng nghiệp có năng suất cao hơn trong các
ngành khác. Thu nhập trong công nghiệp được chia thành tiền lương và lợi nhuận
cịn trong nơng nghiệp thì bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. A. Smith cho
rằng sản phẩm nông nghiệp được bán ra không theo giá cả thị trường mà theo giá
cả lũng đoạn do cầu lớn hơn cung.
Đồng thời, ông lại cho rằng địa tô là kết quả tác động của tự nhiên, là khoản trả

cho sự phục vụ đất. Với quan niệm này, bản chất của địa tô là không bóc lột. Điều
này cho thấy ơng muốn nói về địa tơ chênh lệch I mặc dù chưa phân tích một cách
chi tiết về nó. Adam Smith đã sia lầm khi phủ định địa tô tuyệt đối, tức địa tô mà
người kinh doanh trên bất cứ loại ruộng đất nào cũng phải trả cho chủ đất. Theo
ông, kinh doanh trên ruộng đất mà phải nộp địa tô là trái với quy luật giá trị. Do
Smith chưa thấy được sự khác nhau giữa giá trị và giá cả sản xuất nên dẫn đến sai
lầm này.
 Lý luận phân phối của Adam Smith có nhiều tiến bộ, tuy cịn những mâu
thuẫn nhất định do đặc điểm phương pháp luận của mình.

V.5. Lý luận về tư bản
Lý luận về tư bản là một trong những phần trọng yếu trong học thuyết kinh tế của Adam
Smith. Có thể phân thành ba phần: tư bản nói chung, tư bản cố định, tư bản lưu động và
các yếu tố của chúng.
Adam Smith quan niệm: tư bản là những tài sản đem lại thu nhập, ông đã phân biệt được
tư bản cố định và tư bản lưu động:




Tư bản lưu động: là tư bản không đem lại thu nhập nếu nó vẫn ở trong tay người
chủ sở hữu và giữa nguyên hình thái, như: tiền, lương thực dự trữ, nguyên nhiên
vật liệu, thành và bán thành phẩm.
Tư bản cố định: là tư bản đem lại lợi nhuận mà khơng chuyển quyền sở hữu, như:
máy móc, cơng cụ lao động, các cơng trình xây dựng đem lại thu nhập, những
năng lực có ích của dân cư.

Về tích luỹ tư bản: Ơng khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích luỹ tư bản:
"tích luỹ tư bản tăng là do kết quả của sự tiết ước và chúng giảm đi là do hoang phí và
khơng tính tốn cẩn thận".

V.6. Lý luận về thu nhập
Đây là điểm trung tâm và là cơ sở xuất phát giải quyết các vấn đề lý luận trong học thuyết
kinh tế của Adam Smith.


V.7. Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá trị hàng
hoá bao gồm: tiền lương, lợi nhuận, địa tơ. Trong q trình phân tích, ơng đã trình bày
các khái niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần tuý, nhưng ông không lấy tổng thu nhập
làm điểm xuất phát mà lấy thu nhập thuần tuý làm điểm xuất phát và toàn bộ lý luận tái
sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần tuý.
Mặt khác, ông phân chia tư bản xã hội làm hai bộ phận: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất tư bản với của cải xã
hội, chứ không phải tư bản là bộ phận dự trữ.
Tóm lại:




Adam Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận tái sản xuất xã hội gần giống với lý
luận về tái sản xuất xã hội mà Mác xây dựng sau này. Ông đã có gợi ý thiên tài là:
phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực (sản xuất tư liệu sản xuất và sản
xuất tư liệu tiêu dùng), phân biệt tích luỹ và cất trữ trong tái sản xuất mở rộng.
Hạn chế lớn nhất của Adam Smith là ở chỗ: Cho rằng sản phẩm xã hội chỉ thể hiện
ở hai phần là tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất
biến (c), đồng nhất thu nhập quốc dân và toàn bộ tổn sản phẩm xã hội. Theo ông
giá trị tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm
tiếp theo: cho rằng tích luỹ chỉ là biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ
thêm mà khơng có tư bản bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư bản bất biến
trong phân tích tái sản xuất và khơng tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân

tích tái sản xuất mở rộng.

Mác đặt tên cho sai lầm này là "Tín điều của Adam Smith" (từ sai lầm này và đi chứng
minh cho các sai lầm đã dẫn Adam Smith đến chỗ bế tắc).
V.8. Lý thuyết về “lợi thế so sánh”
Adam Smith là người đưa lý thuyết về "lợi thế tuyệt đối". Ơng cho rằng, việc bn bán
giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có lợi
thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia khác lại
có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước đều
có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chun mơn hố sản xuất loại hàng
hố mà họ có lợi thế hơn.
Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy lý thuyết này của Adam Smith
có những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi thế tuyệt
đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh.


Những tư tưởng của A.Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa học
và phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế chính trị
học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành hệ thống, là một trong những
đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII.


Chương 4: Đóng Góp Của Học Thuyết
Adam Smith (1723 - 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của kinh tế
chính trị tư sản, ơng là bậc tiền bối lớn nhất của Marx. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông
là "aNghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc".
Về thế giới quan và phương pháp luận của A.Smith cơ bản là thế giới quan duy vật nhưng
cịn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp cịn song song tồn tại cả hai
phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết
kinh tế tư sản sau này.

Học thuyết của Adam Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó trình
bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách
quan. Học thuyết kinh tế của ơng có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho
giai cấp tư sản trong nhiều năm. Xứng đáng với danh hiệu “Cha đẻ của kinh tế học hiện
đại”.



×