Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Để người nông dân “ly nông bất ly hương”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.04 KB, 8 trang )

Nghiên cứu - Trao đổi

Tạp
ĐE NGƯƠI NONG DAN
"LY NƠNG BÁT LY HƯƠNG"
PHẠM VIỆT DŨNG
*

Tình trạng hàng trăm nghìn người rời bỏ các trung tâm kinh tế lớn
trong đại dịch COVID-19 vào nửa cuối năm 2021 đã cảnh báo về q trình
đơ thị hóa q “nóng”, khi mới chỉ chú trọng đến khía cạnh việc làm, chưa
quan tâm đến các điều kiện bảo đảm cho sinh hoạt của người lao động và
sự mất cân đoi cơ cấu lao động - việc làm ở khu vực nông thôn. Thực trạng
này cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh đào tạo nghề và tạo việc làm tại
cho cho lao động nông thôn, để người nông dân “ly nông” nhưng không
“ly hương”.

Những vân đê đặt ra từ đại dịch
COVID-19
Do tác động của đại dịch COVID-19, bức
tranh lao động - việc làm xấu đi trông thấy.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021, tình
hình dịch kéo dài và phức tạp hơn trong năm
2020 đã khiến cho hàng triệu người mất việc,
lao động trong các ngành tiếp tục giảm, đặc
biệt là khu vực dịch vụ. số lao động có việc
làm chính thức và phi chính thức đều giảm.
Số lao động có việc làm phi chính thức là
19,8 triệu người, giám 628 nghìn người; số
lao động có việc làm chính thức là 15,4 triệu


người, giảm 469,8 nghìn người so với năm
2020. Hiện tượng thiếu việc làm trong độ
tuổi năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng
370,8 nghìn người so với năm 2020. Tỷ lệ
thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi
là 3,10%, tăng 0,71 điểm phần trăm so với
năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là
3,33%, cao hơn 0,37 điểm phàn trăm so với
khu vực nơng thơn. Ngồi ra, có một số liệu
cần lưu ý là số lao động làm công việc tự sản

tự tiêu*(1) năm 2021 là hơn 4,4 triệu người,
tăng khoảng 872,4 nghìn người so với năm
trước. Số lao động này chủ yếu ở khu vực
nông thôn (chiếm 90,3%).
Làn sóng người lao động rời Thành phố
Hồ Chí Minh và các đô thị, khu công nghiệp,
khu chế xuất trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam trở về quê trong nửa cuối năm
2021 là một hiện tượng, một vấn đề xã hội
đáng quan tâm. Theo Tổng cục Thống kê,
do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 trong
năm 2021, hơn 2,2 triệu người lao động từ
thành phố, các địa phương bùng phát dịch
đã hồi hương về quê. Trong đó, địa bàn

* TS, Tạp chí Cộng sản

(1) Lao động tự sản tự tiêu là lao động sản xuất ra
sản phẩm với mục đích chủ yếu để cá nhân, gia đình sử

dụng. Quyết định về sản xuất của lao động tự sản tự tiêu
chủ yếu hướng về bản thân và gia đình nên thường đặc
trưng bởi tính khép kín, tính phi lợi nhuận đi kèm với
hiệu quả thấp và năng suất khơng cao. Chính vì vậy, khi
kinh tế và khoa học - công nghệ phát triển, hình thức sản
xuất này ngày càng bị thu hẹp

SỐ 987 (tháng 4 năm 2022) 57


Nghiên cứu - Trao đổi

có số người về quê cao nhất là Thành phố
Hồ Chí Minh với hơn 520.000 người, tiếp
theo là thành phố Hà Nội với hơn 440.000
người. Ngoài ra, còn tới hơn 600.000 người
trở về từ các địa phương phía Nam... Một
đặc điểm di cư được Tổng cục Thống kê
chỉ rõ là đa số người rời bỏ thành phố, tâm
dịch về quê là lao động tự do, việc làm bấp
bênh và khơng có nhà ở tại các thành phố,
tâm dịch.
Hệ quả là, các trung tâm kinh tế lớn thiếu
lao động trầm trọng khi các hạn chế giãn
cách được dỡ bỏ, trong khi các địa phương
chịu áp lực lớn trong giải quyết việc làm cho
người lao động(2). Đời sống người lao động
ở các địa phương rơi vào khó khăn khi thiếu
việc làm,... Đối với các tỉnh đồng bằng, có
thể giải quyết một phần việc làm tại các nhà

máy, khu cơng nghiệp ở địa phương, nhưng
với hàng trăm nghìn lao động ở miền núi,
hầu hết là lao động phố thông, khơng có
chun mơn, khơng có giao kết hợp đồng lao
động, trở về địa phương là một áp lực lớn đối
với cơng tác dạy nghề, tìm việc làm cho họ.
Thực tế này cho thấy, mơ hình tăng
trưởng thời gian qua bộc lộ nhiều vấn đề,
khi tăng trưởng kinh tế chủ yếu tập trung vào
hai trọng điểm chính là Đơng Nam Bộ (khu
vực quanh Thành phố Hồ Chí Minh) và đồng
bằng Bắc Bộ (khu vực quanh thành phố Hà
Nội). Sự phát triển không đồng đều này dẫn
đến mâu thuẫn giữa sức chứa hạn hẹp của
đô thị với nhu cầu tăng vọt về quỹ nhà ở,
lưu lượng giao thơng, cơng trình cơng cộng
trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thốt
nước, điện và vệ sinh mơi trường,... Trong
khi ở các địa phương cịn lại, đặc biệt khu
vực nông thôn trở nên hoang vắng, thiếu lao
động, việc làm, khó thu hút đầu tư.
Vì vậy, cần thay đổi tư duy, thay vì quá tập
trung vào vài trung tâm kinh tê, thì phải phân
tán thành nhiều trung tâm theo các vùng kinh
58 Sổ 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp chí Cộng sản

tế của cả nước; coi trọng đưa cơng nghiệp về
nơng thơn hay cơng nghiệp hóa nơng thơn;

và, đẩy mạnh đào tạo, hồ trợ giải quyết việc
làm tại chồ cho lao động nông thôn.
Dịch bệnh đã tạo ra một cuộc dịch chuyển
lao động lớn chưa từng có, cùng với nhiều
vấn đề an sinh xã hội đặt ra. Tuy nhiên, nếu
các địa phương biết tận dụng cơ hội này
thông qua đào tạo, hỗ trợ tìm việc làm thi đây
là một nguồn lực q giá đóng góp xây dựng
chính q hương mình. Tạo việc làm ngay tại
quê nhà nếu tìm được giải pháp sẽ có lợi cho
cả người lao động và địa phương.

Nhiều nỗ lực, nhưng chưa đủ
Để tạo việc làm cho nông thôn, trong
những năm qua, Nhà nước đã nỗ lực thơng
qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm và đào
tạo nghề, chuyển đổi nghề ở nông thôn.
về các chính sách hơ trợ giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn
Hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường
lao động, thông tin, dự báo thị trường lao
động trong cả nước; thị trường lao động
nông nghiệp phát triển ngày một tốt hơn.
Cơng tác tun truyền, phổ biến chính sách
lao động, việc làm; phần tích xu hướng thị
trường lao động để phục vụ cho định hướng
đào tạo nghề và bố trí nhân lực ngày càng
được chú trọng.
Triển khai quy hoạch, đầu tư phát triển
hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm; thực

hiện hiệu quả hoạt động giới thiệu việc làm,
cung ứng lao động qua nhiều hình thức, như:
Trực tiếp tại trụ sở chính, tại các điểm giao
(2) Trong những tháng đầu năm 2022, theo tính tốn
của Sở Lao động - Thưong binh và Xã hội tỉnh Bình
Dương, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang cần
tuyển dụng khoảng 40.000 lao động để đáp ứng sản
xuất. Tại Đồng Nai, thống kê của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội tỉnh này cho thấy, tồn tỉnh cịn thiếu
khoảng 100.000 lao động


Nghiên cứu - Trao đổi

dịch vệ tinh của trung tâm dịch vụ việc làm,
các phiên giao dịch việc làm hoặc gián tiếp
qua cổng thông tin điện tử việc làm, các
website, điện thoại, tin nhắn..., tạo thành
một mạng lưới kết nối việc làm bao phủ trên
toàn quốc<3>. Cùng với việc tổ chức sàn giao
dịch việc làm tại trung tâm giới thiệu việc
làm, các địa phương cũng thường xuyên tổ
chức các phiên giao dịch việc làm vệ tinh,
lưu động và các ngày hội tư vấn, giới thiệu
việc làm đến huyện, xã... cung cấp thông tin
việc làm, nhu cầu tuyển dụng, đưa thông tin
thị trường lao động đến với người lao động
và người sử dụng lao động, tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động, nhất là lao
động khu vực nông thôn tiếp cận thị trường

lao động, kết nối cung - cầu lao động. Giai
đoạn 2010- 2019, các trung tâm dịch vụ
việc làm đã tổ chức 8.148 phiên giao dịch
việc làm. Số lượt lao động nhận được việc
làm do trung tâm giới thiệu và cung ứng là
6.223 nghìn lượt người.
Ưu tiên ngân sách trung ương bổ sung
nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
Đen nay, tổng nguồn vốn của Quỳ quốc gia
về việc làm đạt trên 4.482 tỷ đồng, doanh
số cho vay hằng năm từ 2.200 tỷ - 2.500 tỷ
đồng; giai đoạn 2010 - 2019, Quỹ quốc gia
về việc làm đã hồ trợ tạo việc làm, duy trì và
mở rộng việc làm cho trên 1.800 nghìn lao
động; 90% các dự án vay vốn ở khu vực nơng
thơn với nhiều mơ hình hiệu quả, như: Hợp
tác xã sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; các
vùng ni trồng thủy, hải sản; mơ hình kinh
tế trang trại, khôi phục và phát triển các nghề
truyền thống; lồng ghép với chương trình tổ
nhóm giúp nhau làm kinh tế của thanh niên,
phụ nữ, nông dân3
(4).
về đào tạo nghề và chuyến đổi nghề ở
nông thôn
Hệ thống văn bản về giáo dục nghề nghiệp
nơng thơn từng bước được hồn thiện, quản

Tạp chí Cộng sản


lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tiếp tục
được kiện toàn, hoàn thiện theo hướng phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền,
gắn với trách nhiệm và tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra. Ngày 5-12-2012, Ban Bí
thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ
thị số 19-CT/TW, “về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề cho
lao động nông thôn”; ngày 29-5-2012, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược
phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020.
Hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên
tục được đổi mới, phát triển theo Luật Dạy
nghề năm 2006 trước đây và Luật Giáo dục
nghề nghiệp năm 2016 hiện nay. Tính đến
hết ngày 31-12-2019, cả nước có 2.150 cơ
sở giáo dục nghề nghiệp (trong đó có 430
trường cao đẳng, 565 trường trung cấp và
1.155 trung tâm giáo dục nghề nghiệp);
phương thức đào tạo được chuyển đổi từ dạy
nghề theo thời gian (dạy nghề ngắn hạn, dài
hạn) sang dạy nghề theo 3 cấp trình độ(5).
Đe án Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020 (Quyết định số 1956/
QĐ-TTg, ngày 27-11-2009, của Thủ tướng
Chính phủ, phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020”)
được triền khai thực hiện đồng bộ với mục
tiêu dạy nghề cho khoảng 10,6 triệu lao động
nơng thơn, trong đó hồ trợ dạy nghề cho 6,54

triệu người theo chính sách của Đe án; đào
tạo, bồi dưỡng 1,1 triệu lượt cán bộ, công
chức xã.

(3) Hiện nay, cả nước có 48 địa phương tổ chức sàn
giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên, tần suất tổ
chức phiên giao dịch việc làm ngày càng tăng, nhiều địa
phương đã tổ chức phiên giao dịch việc làm hằng tuần,
như: Hà Nội, Bẳc Ninh, Bắc Giang, Thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, Thái Nguyên, Bình Dương...
(4), (5) Tổng hợp báo cáo các kỳ lao động việc làm
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giai đoạn
2010-2019

SỐ 987 (tháng 4 năm 2022) 59


Nghiên cứu - Trao đổi

Tạp chí Cộng sản

Bảng 1. Tổng số lao động, việc làm, thất nghiệp nông thôn

Năm

Tổng số
lao động
cả nước

Tổng số

lao động
nông thôn

Tỷ lệ lao
động nông
thôn /cả
nước (%)

Số người
đang có việc
làm nơng
thơn

Tổng số thất
nghiệp (1000
người)

Tỷ lệ đã
qua đào
tạo (%)

2010

50,473.50

36,211.10

71.7

35,441.50


769.6

8.5

2011

51,594.30

36,458.00

70.7

35,928.10

529.9

9.2

2012

52,616.60

37,030.60

70.4

36,570.50

460.1


10.3

2013

53,549.30

37,352.20

69.8

37,088.30

263.9

11.5

2014

54,040.70

37.356.60

69.1

36,896.70

459.9

11.5


2015

54,266.00

37,384.70

68.9

36,733.20

651.5

13

2016

54,482.80

37,403.50

68.7

36,734.30

669.2

13.4

2017


54,819.60

37,523.80

68.4

36,816.00

707.8

14.1

2018

55,388.00

37,598.60

67.9

36,945.90

652.7

14.7

2019

55,767.40


37,672.90

67.6

37,094.60

578.3

14.9

Biến
động
(%)

10.5

4.04

-5.7

4.7

-24.86

75.3

Nguồn: Tống cục Thống kê, điều tra lao động việc làm hàng năm giai đoạn 2010 - 2019
Chính sách tạo việc làm cho lao động
nơng thơn đã có những tác động hết sức tích

cực, tống số lao động thất nghiệp nông thôn
liên tục giảm (24,86% trong 10 năm), tỷ lệ
lao động đã qua đào tạo tăng từ 8,5% lên đến
14,9% trong giai đoạn 2010-2019 [Bảng 1],
Với những nồ lực đó, lao động trong khu
vực nông thôn giai đoạn 2010 - 2019 đã có
thay đổi đáng kể theo hướng tích cực, tổng
số lao động thất nghiệp nông thôn liên tục
giảm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng, tỷ
lệ thất nghiệp có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, do đại dịch COVID-19 tiếp
tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc
tới tình hình phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và công tác đào tạo, tạo việc làm
tại chồ cho lao động nơng thơn nói riêng.
60 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Các địa phương đa phần khó khăn về ngân
sách và phải tập trung cao độ cho cơng tác
phịng, chống đại dịch COVID-19 nên việc
bố trí kinh phí cho cơng tác đào tạo nghề
cho lao động nơng thơn gặp nhiều khó
khăn. Trong năm 2021, số lao động nông
thôn được hồ trợ đào tạo đạt thấp, khoảng
55 nghìn người(6).
Cũng qua hơn 2 năm đại dịch, công tác
đào tạo và giải quyết việc làm tại chồ cho
lao động nông thôn bộc lộ nhiều hạn chế,
cụ thể:


(6) Đỗ Năng Khánh: “Đào tạo nghề cho lao động
nơng thơn vượt khó trong dịch COVID-19”, Báo Nhân
Dân điện tử, ngày 30-12-2021, ndan.
vn/daynghe2021/index. html


Nghiên cứu - Trao đổi

- Hệ thống thông tin thị trường lao động
còn bất cập, mất cân đối cung - cầu lao
động cục bộ, tỷ lệ lao động ở khu vực phi
chính thức cịn lớn; chất lượng và tính bền
vững của việc làm chưa cao, một bộ phận
lao động nông thôn việc làm chưa ổn định,
nhiều lao động thiếu việc làm, khơng có việc
làm thường xun, năng suất lao động thấp,
thu nhập thấp. Năng suất lao động trong khu
vực kinh tế nông nghiệp đến nay mới bằng
41,57% năng suất lao động bình qn cả
nước. Trong khi đó, năm 2020, do tác động
của đại dịch COVID-19, khu vực nông, lâm,
thủy sản có khoảng 6.500 doanh nghiệp,
giảm 13,6% so với năm 2019(7).
- Chất lượng lao động trong khu vực kinh
tế nông nghiệp được cải thiện rất chậm; tỷ
trọng lao động thanh niên làm việc trong
khu vực này có xu hướng giảm và lao động
cao tuổi tăng, phản ánh kết quả đào tạo nói
chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng
chưa đóng góp được nhiều trong việc cung

cấp nhân lực cho khu vực kinh tế nông
nghiệp. Thiếu lao động chất lượng cao cũng
là lý do nhiều doanh nghiệp chưa muốn đầu
tư vào khu vực nông thôn. Theo Báo cáo
điều tra lao động, việc làm năm 2020 của
Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo ở khu vực thành thị là 39,7% cao
hon gấp 2,4 lần ở nông thôn(8).
- Công tác đào tạo nghề chưa thực sự gắn
với nhu cầu của xã hội, kết quả, hiệu quả dạy
nghề cho lao động nông thôn không đồng
đều giữa các vùng trong cả nước, đặc biệt có
sự khác biệt rất lớn giữa khu vực đồng bằng
so với khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xác định
danh mục nghề đào tạo cho lao động nông
thôn, nhất là danh mục nghề nơng nghiệp ở
một số địa phương vẫn cịn dàn trải, chưa
xuất phát từ quy hoạch sản xuất nông nghiệp
và thực tế địa phương. Đào tạo chưa tính đến

Tạp
nhu cầu của thị trường lao động tại chồ dẫn
đến tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo
khơng cao.

Để người dân có việc làm tại chỗ
Đại dịch COVID-19 tác động mạnh
đến thị trường lao động, việc làm dẫn đến

tình trạng hàng trăm nghìn người lao động
thất nghiệp, kéo theo đó là cuộc sống của
rất nhiều người bị ảnh hưởng. Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách hồ trợ, bước
đầu những chính sách này đã phát huy được
hiệu quả và phần nào giúp người lao động
và doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Tuy
nhiên, về lâu dài cần có giải pháp tổng thể
mang tính đột phá, trong đó cần đẩy mạnh
đào tạo nghề và giới thiệu việc làm tại chỗ
cho người dân.
Một là, hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chỉnh
sách về đào tạo và thu hút nhân lực cho khu
vực nông nghiệp, nông thôn.
Làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới
các cơ sở đào tạo ngành nông nghiệp và phát
triển nơng thơn trong tồn quốc, phù hợp với
định hướng phát triển ngành, vùng và địa
phương về nông nghiệp và nông thôn. Quy
hoạch phải dựa trên phát huy hết lợi thế so
sánh của từng ngành, địa phương để hình
thành các vùng kinh tế trọng điểm, các cực
tăng trưởng mới dựa trên cơ sở khai thác
tiềm năng, thế mạnh của vùng, địa phương,
hạn chế việc chủ yếu dựa vào hai vùng kinh
tế trọng điểm như hiện nay dần đến sức ép
do di cư, mật độ phát triển, thiếu gắn kết, lan
tỏa, cân bằng giữa các vùng, miền như hiện
nay. Quy hoạch không gian cần điều chỉnh
(7) Tổng điều tra kinh tế năm 2021: “Kết quả sơ bộ

về doanh nghiệp và hợp tác xã”, Tạp chí Con sổ và Sự
kiện, số 02-2022
(8) Tổng cục Thống kê: “Điều tra lao động, việc
làm năm 2020”, />uploads/2021/08/sach_laodong_2020.pdf

SỐ 987 (tháng 4 năm 2022) 61


Nghiên cứu - Trao đổi

theo hướng đẩy mạnh phát triển các thành
phố vệ tinh, chuyển những ngành sử dụng
nhiều lao động (như: dệt may, chế biến nông
sản,...) về các đô thị nhỏ, khu vực nông thôn.
Đổi mới công tác quản lý đào tạo nhân lực
đi đôi với đổi mới công tác tuyển dụng, sử
dụng nhân lực sau đào tạo. Chú trọng phân
cấp, nâng cao tính tự chủ của cơ sở đào tạo
nhân lực, tăng cường khả năng quản trị nhà
trường. Nhà nước không nên làm thay công
việc của các nhà trường mà chỉ để ra các công
cụ kiếm tra, kiểm sốt chất lượng đào tạo.
Thực hiện đồng bộ các chính sách thu hút
và phát triển nhân lực lĩnh vực nông nghiệp,
như: Cải thiện môi trường làm việc, thu nhập
và các điều kiện sinh sống; chế độ ưu đãi thu
hút học sinh, sinh viên học các ngành, nghề
nông nghiệp và phát triến nơng thơn, trong
đó đặc biệt ưu tiên người địa phương; hồ
trợ phát triển lưới an sinh và bảo hiểm; tăng

cường khả năng tiếp cận dịch vụ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động khu vực nông thôn nhằm
bảo đảm đời sống của người dân và duy trì
sản xuất.
Lồng ghép cơng tác đào tạo và dạy nghề
cho lao động nông thôn với kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn và chương
trình xây dựng nơng thơn mới nhằm tạo cơ
hội tìm kiếm việc làm và khơng ngừng nâng
cao đời sống cho nông dân. Các trường đào
tạo kỳ sư nông nghiệp cần hướng mạnh vào
đào tạo kỹ sư thực hành mà ở đó phải dành
một lượng thời gian đào tạo nhất định để xây
dựng đề án và thực hành đề án để trở thành
những nhà nơng chun nghiệp(9). Có cơ chế
khuyến khích, thu hút các nghệ nhân, những
người nơng dân giỏi tham gia các hoạt động
đào tạo nghề cho lao động nơng thơn. Đẩy
mạnh và đa dạng hóa các hình thức đào tạo
quản lý/quản trị và khởi sự doanh nghiệp cho
các chủ trang trại, những nơng dân có khả
62 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp chí Cơng sản

năng kinh doanh lớn trong lình vực và phát
triển nơng thơn.
Hai là, hồn thiện, phát triên thị trường
lao động nông thôn.

Quy hoạch và phát triển hệ thống giao
dịch việc làm phù hợp với thị trường lao
động của từng vùng, từng tỉnh. Chú trọng
phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm
thuộc các địa phương là trung tâm của 6
vùng kinh tế xã hội theo hướng vừa là trung
tâm của tỉnh, vừa là nơi thực hiện các giao
dịch việc làm, kết nối thông tin thị trường lao
động, phân tích, dự báo thị trường lao động
của vùng và kết nối các vùng với nhau... để
giải quyết tốt hơn mối quan hệ về cung - cầu
lao động tại địa phương. Định kỳ tổ chức các
hội chợ việc làm để người lao động, người sử
dụng lao động, các trung tâm giới thiệu việc
làm, các trường và cơ sở đào tạo trực tiếp gặp
gỡ, tiếp xúc, giao lưu, nắm bắt thông tin, nhu
cầu về lao động việc làm, tuyến dụng, thơng
qua đó đáp ứng nhu cầu tuyển lao động của
các doanh nghiệp, giúp người lao động tìm
được việc làm, định hướng học nghề, thúc
đẩy sự phát triển của thị trường lao động các
địa phương.
Bên cạnh đó, ứng dụng các giải pháp khoa
học công nghệ mới trong hoạt động giao dịch
việc làm; xây dựng cơng cụ (phần mềm, bộ
tiêu chí, tiêu chuẩn) quản lý chung, thống
nhất hoạt động trên toàn quốc về dịch vụ việc
làm; hoàn thiện và nâng cấp cổng thông tin
điện tử việc làm, thu thập, cập nhật thơng tin
thị trường lao động và thơng tin về tình hình

biến động việc làm tại các doanh nghiệp;
nâng cao chất lượng dự báo thị trường lao
động trong ngắn hạn và dài hạn nhằm cung
(9) Xem: Đoàn Minh Huấn: “Đổi mới tư duy phát
triên nông nghiệp, nông dân, nông thôn - Nhìn từ sự
lãnh đạo của Đảng, vai trị cùa hệ thống chính trị và phát
huy dân chủ ở nơng thơn”, Tạp chí Cộng sản số 986,
tháng 3-2022, tr. 17


Nghiên cứu - Trao đổi

cấp các thông tin về cơ hội việc làm, chồ việc
làm trống, các khóa đào tạo... giúp người lao
động ở khu vực nông thôn lựa chọn và quyết
định học nghề, tiếp cận việc làm phù hợp.
Ba là, găn phát triên công nghiệp, dịch vụ
nông thôn với tạo việc làm tại cho cho lao
động nông thôn.
Đưa công nghiệp về nông thôn đế phát
triển nông nghiệp, gắn với cơng nghiệp chế
biến, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy
lợi hóa, ứng dụng các thành tựu của khoa
học - công nghệ, đưa các thiết bị kỳ thuật
và công nghệ hiện đại vào sản xuất nông
nghiệp. Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng, như đường cao tốc, hệ thống thơng
tin liên lạc ở nơng thơn, từ đó cải thiện điều
kiện sản xuất và môi trường đầu tư khu vực
nông thôn, tăng cường sức thu hút cùa doanh

nghiệp lớn đối với nguồn nhân lực khu vực
này; hình thành và kiện toàn cơ quan quản
lý nhà nước về phát triển công nghiệp nông
thôn các cấp... Đặc biệt, trong bối cảnh hiện
nay, tiếp tục tạo môi trường thuận lợi đế huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
nhằm khơi phục, tháo gỡ kịp thời các khó
khăn, vướng mắc, điểm nghẽn gây cản trở
hoạt động sản xuất, kinh doanh để duy trì và
thúc đấy đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho các
doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn,
chú trọng các giải pháp sản xuất, kinh doanh
phù họp trong điều kiện thích ứng an tồn
với diễn biến của dịch bệnh COVID-19.
Đầu tư phát triển các khu, cụm công
nghiệp, dịch vụ ở khu vực nơng thơn, có các
chính sách thu hút đầu tư để khuyến khích
các doanh nghiệp cơng nghiệp, dịch vụ đầu
tư vào nông thôn, nhất là các ngành sử dụng
nhiều lao động, để từng bước giảm tình
trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành
phố. Phát triển mạnh kinh tế dịch vụ ở khu
vực nông thôn từ loại hình, quy mơ... để
nâng cao giá trị cho sản phẩm nơng nghiệp,

Tạp chí Cộng sản

tạo việc làm, thu hút lực lượng lao động
không tham gia sản xuất nông nghiệp. Chú
trọng ưu tiên phát triên những ngành có lợi

thế, giải quyết nhiều việc làm, như dệt, may
mặc, da - giày, thêu, đồ chơi, chế biến hàng
thủy sản xuất khẩu...
Bên cạnh đó, có chính sách phát triển các
làng nghề, ngành, nghề truyền thống, trên cơ
sở lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước
đo. Một mặt, đế lưu giữ truyền thống, khôi
phục lại sản xuất những ngành, nghề đã bị
mai một; mặt khác, để phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng, xuất khẩu và kết họp phát triển du
lịch, về mặt xã hội thì phát triền ngành, nghề
nhằm tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp trầm trọng ở
nông thôn, tạo điều kiện cho các hộ gia đình
và người lao động tăng thu nhập ổn định và
cải thiện đời sống...
Bổn là, huy động sự tham gia của nhiều
bên.
Huy động sự tham gia của các bên, kết
hợp hoạt động giữa các “nhà” (nhà đào tạo,
nhà doanh nghiệp, Nhà nước...) trong công
tác đào tạo, đặc biệt là sự họp tác giữa các
đơn vị đào tạo nghề và đơn vị sử dụng lao
động. Nâng cao chất lượng đào tạo, trên cơ
sở tăng cường các điều kiện bảo đảm chất
lượng đào tạo, đặc biệt là chất lượng của đội
ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại
học và cao đẳng, hướng tới chuẩn đầu ra, phù
hợp với nhu cầu sứ dụng lao động trong nông
nghiệp, nông thôn; gắn kết các cơ sở đào tạo

với các cơ sở sản xuất trong nông nghiệp,
nông thôn, nhằm nâng cao kỳ năng nghề
nghiệp cho người học sau đào tạo. Theo kinh
nghiệm của Trung Quốc, chính sách đào tạo
lao động nơng thơn muốn gắn với tạo việc
làm cần thực hiện với 4 trọng tâm: 1 - Đào tạo
lại lao động phục vụ sàn xuất nông nghiệp;
2- Đào tạo ngành phi nông nghiệp, nhất là
về chế biến thực phẩm, thủ công mỹ nghệ,
Số 987 (tháng 4 năm 2022) 63


Nghiên cứu - Trao đổi

du lịch sinh thái; 3- Đào tạo các kỳ năng
marketing và buôn bán nông nghiệp quy mô
nhỏ; 4- Hồ trợ thành lập các doanh nghiệp
nông thôn quy mô vừa và nhỏ nhằm thu hút
lực lượng lao động. Nhờ vậy, cơ hội tìm
kiếm việc làm của người học nghề tại nông
thôn cũng được nâng lên(10)11
.
Ở Nhật Bản, hoạt động dạy nghề đặc biệt
được coi trọng trong các hợp tác xã (HTX)
nông nghiệp Nhật Bản. Để giúp cho các
nông dân điều hành tốt và hiệu quả sản xuất
nông nghiệp, các HTX nông nghiệp tiến
hành các hoạt động hướng dần kinh doanh
nông nghiệp cho nông dân bằng cách thành
lập trong mồi HTX các tổ tư vấn về nông

nghiệp. Các tổ tư vấn ln gắn chặt cơng
việc của mình với các cơ quan quản lý hành
chính, các trạm nghiên cứu nông nghiệp, các
cán bộ chăn nuôi thú y và các nhóm nghiên
cứu khoa học khác. Các HTX có quỳ riêng
dành cho giáo dục đào tạo nghề; ngồi ra,
HTX có hoạt động khuyến khích các xã viên
và cán bộ tham gia các lóp tập huấn đào tạo
nghề ngồi HTX, kinh phí do HTX chi trả(1I).
Đây là cách làm mà các HTX ở Việt Nam có
thể học hỏi.
Năm là, phát huy vai trị chủ thê của
người nơng dân.
Chủ trọng cơng tác giáo dục, tun truyền
đê người nơng dân phát huy vai trị chủ thê
của minh thơng qua nâng cao trình độ kỳ
thuật, kỳ năng, kỷ cương lao động, biết hợp
tác lao động. Đẩy mạnh phong trào học tập,
nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập
thể bằng cách mở các lóp dạy nghề và các
hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn; thiết lập hệ thống bảo
hiểm rủi ro cho nông dân; ứng dụng khoa
học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy, nông
dân Thái Lan ý thức được việc phải sớm tiếp
cận với đổi mới công nghệ, nên hơn 90%
64 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp chí Cơng sản


nơng dân Thái Lan sử dụng cơ giới, máy
móc trong nơng nghiệp, từ gieo trồng đến
thu hoạch. Đồng thời, Chính phủ thực hiện
kế hoạch dài hạn là Dự án phát triển “nông
dân thông minh” (thực hiện từ năm 2013)
thông qua việc nâng cao kỳ năng và năng
lực sản xuất nông nghiệp từ các chương
trình đào tạo, chia sẻ kiến thức và thơng tin.
Một nhóm nơng dân đáp ứng được các tiêu
chí đề ra sẽ được chọn để đào tạo về kiến
thức kỳ thuật, kỳ năng truyền thông và trở
thành “tiểu giáo viên” cấp thôn, nhà quản
lý, bằng cách này, kiến thức và kinh nghiệm
thực tế sẽ được lan tỏa giữa những người
nông dân, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất
nơng nghiệp(I2).
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ
bản của con người để có thể bảo đảm cuộc
sống và sự phát triển tồn diện. Chính sách
chăm lo, tạo việc làm cho người lao động là
vấn đề cấp bách của toàn xã hội nói chung
và khu vực nơng thơn nói riêng. Khi cơng
tác đào tạo và tạo việc làm tại chồ cho lao
động nơng thơn được quan tâm sẽ hạn chế
được tình trạng người nơng dân rời bỏ q
hương và sẽ khơng cịn những “làn sóng di
dân” như vừa qua. □
(10) “Kinh nghiệm di chuyển lao động của Trung
Quốc và Thái Lan”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt

Nam, ngày 19-7-2010, />kinh-nghiem-di-chuyen-lao-dong-cua-trung-quoc-vathai-lan-29756.html
(11) Nguyễn Hồng Thư: “Phát triển nông nghiệp
nông thôn của Nhật Bản - Kinh nghiệm cho Việt Nam”,
Trang thông tin điện tử của Viện Khoa học kỹ thuật nông
nghiệp miền Nam, ngày 20-11-2011, />tin-tuc/Phat-trien-Nong-nghiep,-nong-thon-cua-NhatBan—kinh-nghiem-cho- Viet-Nam-2392. html
(12) Thanh Huyền: “Chương trình phát triển nông
dân thông minh ở Thái Lan”, Trang thông tin điện tử
của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, ngày 17-6-2021,
114c39n21186



×