Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

SKKN Một số giải pháp nâng cao kĩ năng tự nhận thức cho học sinh lớp 12 qua dạy học đọc hiểu một số...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.15 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT TẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG TỰ NHẬN
THỨC CHO HỌC SINH LỚP 12 QUA DẠY HỌC ĐỌC
HIỂU MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN mơn:
Ngữ văn

THANH HĨA, NĂM 2017

SangKienKinhNghiem.net


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của SKKN


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi nghiên cứu SKKN
2.3. Giải pháp
2.3.1.Giải pháp1
2.3.2.Giải pháp 2
2.3.3.Giải pháp 3
2.3.4.Giải pháp 4
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

SangKienKinhNghiem.net

2
2
2
2
2
4
5
5
7
8
9
11


CÁC QUY TẮC VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
STT
1.


Nội dung viết tắt
Đại học sư phạm

2. Nhà xuất bản

Quy ước viết tắt
ĐHSP
NXB

3. Kỹ năng

KN

4. Kỹ năng sống

KNS

5. Tự nhận thức

TNT

6. Học sinh

HS

7. Giáo viên

GV


8. Văn bản

VB

9. Tác giả

TG

10. Tác phẩm

TP

11. Trung học cơ sở

THCS

12. Trung học phổ thông

THPT

SangKienKinhNghiem.net


I. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
- Xuất phát từ vai trị của kĩ năng sống nói chung và kĩ năng tự nhận thức
nói riêng.
Tại các diễn đàn thế giới về giáo dục cho mọi người, chương trình giáo dục
kĩ năng sống trở thành một nội dung, một yêu cầu, một vấn đề vô cùng quan
trọng. Học KNS trở thành quyền của người học và chất lượng giáo dục được

đánh giá cả trong KNS của người học. Hơn lúc nào hết, KNS là một đòi hỏi thiết
yếu trong xã hội hiện đại.
Kỹ năng tự nhận thức là một kỹ năng sống cơ bản, là khả năng con người có
thể ý thức rõ ràng về cảm xúc, tính cách, quan điểm, giá trị và động cơ, hiểu biết
và chấp nhận những tố chất vốn có để phát huy điểm mạnh, hạn chế những điểm
yếu nhằm tổ chức tốt cuộc sống và cải thiện mối quan hệ của mình với mọi
người.
-Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức của học sinh lớp 12
Học sinh lớp 12 là lứa tuổi sắp bước vào chặng đường mới, trở thành một
cơng dân tương lai. Đây có thể coi là bước ngoặt trong cuộc đời của các em. Do
đó nhận thức rõ về bản thân, môi trường, bối cảnh xã hội, từ đó đưa ra quyết
định hợp lý, đúng đắn cho cuộc sống tương lai là điều vô cùng quan trọng và cần
thiết với các em. Đặc biệt, với học sinh hiện nay, các em đang phải đương đầu
với rất nhiều nguy cơ, cám dỗ không lành mạnh của xã hội hiện đại nhưng lại
khơng có hoặc thiếu những kỹ năng để ứng phó với khó khăn và lựa chọn cách
sống lành mạnh, tích cực cho bản thân và xã hội.
-Xuất phát từ đặc trưng, thế mạnh của các văn bản văn chương trong
chương trình Ngữ văn 12
Phần văn bản văn chương trong chương trình, SGK Ngữ văn lớp 12, đặc biệt
là phần văn xuôi phong phú, đa dạng về chủ đề, dồi dào, giàu có tiềm năng giáo
dục tạo điều kiện để phát triển kỹ năng sống trong đó có kỹ năng tự nhận thức
cho học sinh.
- Xuất phát từ thực trạng kĩ năng tự nhận thức của HS và việc giáo dục kĩ
năng tự nhận thức cho HS lớp 12 thông qua dạy học Văn
Trong thực tế dạy học môn Ngữ văn, giáo viên mới chủ yếu cung cấp những
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà chưa chú ý đúng mức, chưa phát
huy hết được hiệu quả của việc phát triển kỹ năng tự nhận thức cho học sinh
thông qua những tiết đọc hiểu các văn băn văn chương.
1
SangKienKinhNghiem.net



Vì những lí do trên, với tư cách là một giáo viên dạy Ngữ văn, tôi đã trăn trở
và thử nghiệm cách rèn luyện, giáo dục những kĩ năng sống đặc biệt là kĩ năng
tự nhận thức cho học sinh lớp 12 qua bộ mơn mình giảng dạy nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả thiết thực của việc dạy học văn, đồng thời góp phần bé nhỏ
vào việc khắc phục vấn đề nhức nhối của ngành giáo dục hiện nay là tình trạng
thiếu kĩ năng sống của một bộ phận không nhỏ học sinh, nhất là học sinh cuối
cấp THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lựa chọn, đề xuất nội dung giáo dục kỹ năng tự nhận thức cho học
sinh lớp 12 qua dạy học các tác phẩm văn xi trong chương trình.
- Đề xuất biện pháp, cách thức giáo dục kỹ năng tự nhận thức cho học sinh qua
dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung và các biện pháp, cách thức tổ
chức nhằm nâng cao kĩ năng tự nhận thức cho học sinh lớp 12 qua dạy học đọc
hiểu một số tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn 12.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Tổng hợp, phân tích, hệ thống hố các vấn đề lý luận về KN,KN TNT,việc giáo
dục KN TNT thông qua dạy học Ngữ văn lớp 12.
- So sánh, đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn dạy học.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra, khảo sát, phỏng vấn, dự giờ dạy học Ngữ văn ở THPT nói chung và
lớp 12 nói riêng.
- Thống kê, phân loại, đánh giá kết quả khảo sát và thực nghiệm.
1.5. Những điểm mới của SKKN:
- Góp phần xác định nội dung giáo dục KN TNT, đồng thời đề xuất một số giải
pháp cách thức giáo dục KN TNT cho HS lớp 12 qua dạy học Ngữ văn.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu hữu ích cho giáo dục KN TNT cho HS
lớp 12 nói riêng và HS THPT nói chung.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1.Khái quát chung về KN TNT
* Các khái niệm cơ bản
+ Khái niệm kĩ năng sống:
2
SangKienKinhNghiem.net


Trong xã hội hiện nay khi mà công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, con
người bị cuốn vào vịng quay của cuộc sống số, theo đó, sự phát triển mạnh mẽ
về mọi mặt của đời sống xã hội đã tác động rất lớn tới đời sống của con người.
Để có thể giải quyết, thích ứng với những vấn đề nảy sinh, đối mặt, chế ngự nó
con người cần phải có phương pháp giải quyết hữu hiệu. Do đó, hơn lúc nào hết,
con người cần phải có kỹ năng sống (KNS) hay còn gọi là kĩ năng mềm.
Như vậy, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần
thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hơn lúc nào hết để tồn tại, để thích
ứng với mơi trường xung quanh con người cần có kĩ năng sống. Khả năng ứng
xử phù hợp và tích cực với bản thân, người khác, xã hội là bản chất của kĩ năng
sống. Và một trong những kĩ năng sống cơ bản và cần thiết của con người là kĩ
năng tự nhận thức.
+ Kĩ năng tự nhận thức:
Để làm rõ khái niệm kĩ năng tự nhận thức, trước hết cần xem xét khái niệm
tự nhận thức. Tựu chung, tự nhận thức là quá trình con người tiếp nhận và xử lí
thơng tin về bản thân để điều chỉnh hành vi của mình nhằm đảm bảo sự thích
nghi và phát triển của bản thân.
Mỗi tác giả có một cách phát biểu khác nhau về nội hàm khái niệm KN
TNT. Tuy vậy ta có thể nhận thấy kĩ năng tự nhận thức là khả năng nhận biết

được cảm xúc, những điểm mạnh, điểm yếu, giá trị và năng lực của bản thân để
có thể xác định mục tiêu,điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp nhằm
phát triển bản thân và góp phần phát triển cộng đồng, xã hội.
Có thể nói, KNS nói chung và kĩ năng tự nhận thức nói riêng chính là những
nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích
cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ ln vững vàng trước những khó
khăn thử thách; biết ứng xử giải quyết vấn đề một cách tích cực phù hợp, họ
thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn luôn yêu đời và làm chủ cuộc
sống.
2.1.2. Đặc điểm tâm sinh lí và trình độ nhận thức của HS lớp 12
Để tìm ra được phương pháp phù hợp nhằm giáo dục học sinh phát triển theo
đúng hướng, đúng với mục tiêu, nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hiểu tâm
lý lứa tuổi học sinh. So với lứa tuổi Trung học cơ sở hoặc Tiểu học, lứa tuổi
Trung học phổ thơng có những đặc trưng cơ bản, khác biệt.
* Đặc điểm về sự hình thành thế giới quan
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý của học sinh THPT vì
các em sắp bước vào cuộc sống xã hội với bao điều đang đón đợi các em ở phía
3
SangKienKinhNghiem.net


trước. Hầu hết các em đều có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự
nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử trong cuộc sống, những định
hướng giá trị về con người. Bên cạnh đó vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ
về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái độ
coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém,
thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động…
Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán những hình ảnh lý tưởng
còn lệch lạc để giúp các em chọn cho mình một hình ảnh lý tưởng đúng đắn để
phấn đấu vươn lên.

* Đặc điểm về sự phát triển trí tuệ
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ.
Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh
tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.
Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh
hoạt và nhạy bén hơn. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa
phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo
cảm tính. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích
cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc
phát triển khả năng nhận thức của học sinh trong dạy học là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên.
* Đặc điểm về hoạt động học tập
Cũng như học sinh Trung học cơ sở hay Tiểu học thì hoạt động học tập vẫn là
hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với
tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Nhà trường cần có những hình thức
tổ chức đặc biệt đối với hoạt động của học sinh THPT nhất là học sinh cuối cấp
để tạo ra sự thay đổi căn bản về hoạt động tư duy, về tính chất lao động trí óc
của các em.
2.1.3.Một số tác phẩm văn xi trong chương trình Ngữ văn 12 và khả năng
giáo dục KN TNT cho HS lớp 12
Với tính chất là một mơn học cơng cụ, mơn Ngữ văn giúp học sinh có
năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con
người. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh
bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu
lành mạnh để hồn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ văn là mơn học có những khả
năng đặc biệt trong việc giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh, nhất là giáo dục
4
SangKienKinhNghiem.net



kĩ năng tự nhận thức , đặc biệt là học sinh lớp 12, lứa tuổi bắt đầu làm quen với
cuộc sống độc lập- bước ngoặt lớn trong cuộc đời của các em.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Thuận lợi:
Trong những năm gần đây, vấn đề dạy và học môn Ngữ văn đã và đang đổi
mới và là một trong những mơn có chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương
pháp dạy học.
Chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn mới có nhiều đổi mới về mục tiêu, cấu
trúc, sự đổi mới này rất thích hợp cho giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn cho
học sinh. Thông qua bài học học sinh có thể tự hoạt động tích cực, chủ động
sáng tạo tìm tịi phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học.
Được sự đồng tình của xã hội, nhất là các bậc cha mẹ học sinh tích cực phối
hợp cùng với nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Khó khăn:
Song bên cạnh những thuận lợi trên chúng ta còn phải đối mặt với khơng ít
khó khăn. Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông dần mất đi sự hứng thú đối với học sinh. Cũng
bởi từ trước đến nay chúng ta vẫn dạy học theo một khn mẫu có sẵn mà chưa
có sự thay đổi hay cải tiến, để giờ học văn trở thành một giờ học buồn tẻ, nặng
nề. Đây cũng là thực trạng chung đối với môn Ngữ văn, nhất là trong thời đại
cơng nghệ số. Nhìn nhận vấn đề từ góc độ giáo viên cũng như học sinh sẽ giúp
chúng ta hiểu được vấn đề cốt lõi đó:
Đối với giáo viên: Chưa đưa ra những nội dung giáo dục tiêu biểu cho các
bài học. Bên cạnh đó người thầy cũng chưa phát huy hết khả năng của mình
trong việc vận dụng các tình huống giáo dục, dẫn đến học sinh nghe mãi cũng
nhàm chán và khơng u thích mơn văn, khơng khí lớp học trầm lặng buồn tẻ,
nặng nề.
Đối với học sinh: Chỉ nghe, chép và phát biểu theo những gì mà người thầy sắp
đặt. Học sinh khơng được tìm hiểu, khám phá và sáng tạo những gì các em biết
Từ thực trạng trên, tôi thiết nghĩ cần phải đổi mới phương pháp dạy học, cần đưa

việc giáo dục kĩ năng sống đặc biệt là kĩ năng tự nhận thức vào q trình dạy
học văn. Có như thế mỗi tiết học văn mới thực sự trở thành nhịp cầu đưa các em
hòa nhập, bắt nhịp với cuộc sống bộn bề đang trải ra trước mắt mỗi học sinh.
2.3.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng tự nhận thức cho
học sinh lớp 12 qua dạy học đọc hiểu một số tác phẩm văn xuôi 12
5
SangKienKinhNghiem.net


2.3.1. Giải pháp 1: Trước hết, GV giúp HS nắm vững các KNS cơ bản, trong
đó chú trọng đến kĩ năng tự nhận thức xuất hiện trong mỗi bài học Ngữ văn.
Giáo viên có thể căn cứ vào mục tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ ở
mỗi bài học để xác định.
Ví dụ 1: Mục tiêu cần đạt của bài học Vợ chồng A Phủ là:
Về kiến thức:
- Nỗi thống khổ của người dân miền núi Tây Bắc dưới ánh sáng thống trị của
phong kiến và thực dân. Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và q
trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào vùng cao.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật sinh động, chân thực; miêu tả và phân tích tâm
lí nhân vật sắc sảo, tinh tế; lối kể chuyện hấp dẫn ngôn ngữ mang phong vị và
màu sắc dân tộc, giàu tính tạo hình và đầy chất thơ.
Về kĩ năng:
Củng cố, nâng cao các kĩ năng tóm tắt tác phẩm và phân tích nhân vật trong tác
phẩm tự sự.
Về thái độ: Trân trọng những giá trị của những tác phẩm văn học bất hủ.
Trên cơ sở đó GV xác định kĩ năng tự nhận thức được giáo dục trong bài học
như sau:
Tác phẩm đưa người đọc vào một không gian tương đối mới là đề tài miền núi
nhưng vẫn gợi cảm giác quen thuộc nhờ cách miêu tả theo xu hướng hiện thực.
Học sinh thơng qua việc khai thác, tìm hiểu cuộc đời các nhân vật như Mị và A

Phủ sẽ nhận thức được nỗi khổ cực của người dân miền núi Tây Bắc đồng thời
cũng thấy được sức sống mãnh liệt, cá tính độc đáo và q trình đấu tranh để
đứng lên tự giải phóng, xây dựng lại cuộc sống của lớp người trẻ tuổi các dân
tộc thiểu số vùng cao.
Từ việc nắm được nội dung cơ bản của tác phẩm, giáo viên dẫn dắt để học
sinh nhận thức được cuộc sống hiện tại của chính mình như thế nào và hướng
phát triển bản thân?
Ví dụ 2: Mục tiêu cần đạt của bài học Vợ nhặt là:
Về kiến thức
- Hiểu được tình cảnh thê thảm của người nơng dân trong nạn đói năm 1945.
Cảm nhận được niềm khao khát hạnh phúc gia đình, niềm tin vào cuộc sống và
tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ
- Thấy được một số nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
Về kĩ năng: Củng cố, nâng cao các kĩ năng tóm tắt tác phẩm và phân tích nhân
vật trong tác phẩm tự sự.
6
SangKienKinhNghiem.net


Về thái độ: Trân trọng, cảm thông trước khát vọng hạnh phúc của con người;
biết ơn cách mạng đã đem lại sự đổi đời cho những người nghèo khổ, nạn nhân
của chế độ cũ.
Trên cơ sở đó GV xác định kĩ năng tự nhận thức được giáo dục trong bài học
như sau:
Thông qua tác phẩm giáo viên dẫn dắt bài học để học sinh nhận thức được
tình cảnh thê thảm của người nơng dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945
nhưng vượt lên tình cảnh bi thảm đó là niềm khát khao mãnh liệt của người lao
động về hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt của họ đối với sự sống và tương
lai…Từ đó giáo viên hướng học sinh đến kĩ năng tự nhận thức để xây dựng sự
đồng cảm, để biết khoan dung, để không bị lôi kéo, dụ dỗ vào các tệ nạn xã

hội…
Nắm vững kĩ năng tự nhận thức trong mỗi bài học Ngữ văn cụ thể sẽ giúp
GV linh hoạt, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS và
lựa chọn các tình huống học tập trong mỗi bài học hợp lí hơn để giáo dục kĩ
năng tự nhận thức cho HS.
2.3.2.Giải pháp 2: GV nghiên cứu thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để
HS được làm và được trải nghiệm
Trong mỗi bài học Ngữ văn, người GV bằng tài năng sư phạm khéo léo của
mình phải thiết kế những câu hỏi phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của bài học
nhằm nâng cao tư duy và rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Muốn hình thành
kĩ năng sống nhất là kĩ năng tự nhận thức hơn lúc nào hết học sinh phải được
làm và được trải nghiệm nên khi tìm hiểu nội dung các bài học, tơi thường thiết
kế những câu hỏi có mục đích giáo dục như vậy. Ví dụ:
Em sẽ làm gì nếu em là nhân vật …? Nếu em là nhân vật… , em sẽ… ? Giả sử
em ở trong tình huống đó, em sẽ…? như thế nào:
Ví dụ: Khi dạy bài “Vợ nhặt” của Kim Lân (SGK Ngữ văn 12, Tập 2), muốn
HS hiểu và cảm thơng sâu sắc với tình cảnh thê thảm của người nơng dân trong
nạn đói; trân trọng niềm khát khao, sức sống mãnh liệt của họ ngay trên bờ vực
của cái chết (khi phân tích nhân vật bà cụ Tứ), từ đó rút ra được nhiều bài học
bổ ích cho bản thân, tơi đặt những câu hỏi như sau:
Câu hỏi: Giả sử, nếu em là bà cụ Tứ khi nghe anh Tràng giới thiệu: “nhà tôi
mới về làm bạn với tơi đấy u ạ!” em có suy nghĩ và hành động gì đối với Tràng
và đối với người đàn bà xa lạ?
Câu hỏi : Vậy em học tập được gì qua nhân vật bà cụ Tứ?
Câu hỏi: Em phải làm gì để thể hiện điều đó?
7
SangKienKinhNghiem.net


HS suy nghĩ và trả lời những vấn đề đó chính là q trình thâm nhập vào đời

sống nội tâm của nhân vật, trải nghiệm những hoàn cảnh và nỗi niềm của nhân
vật. Từ đó, kĩ năng tự nhận thức được hình thành như nhận thức được nỗi đau,
nỗi xót xa cũng như lòng bao dung, trái tim nhân hậu của người mẹ nghèo. Qua
đó học sinh cũng xác định được cho mình lối sống có nhân cách, biết cảm thông
chia sẻ, biết khoan dung độ lượng, tôn trọng người khác, tôn trọng bản thân
đồng thời các em cũng nhận thức được mình phải làm gì trước mọi tình huống
có thể xảy ra trong cuộc sống.
2.3.3.Giải pháp 3: GV tổ chức và thực hiện tốt các hình thức hoạt động dạy
học
Trong q trình dạy học, tơi thường tổ chức một số hình thức hoạt động như:
- Thảo luận nhóm: Tổ chức thảo luận nhóm là một hình thức hoạt động giúp
các em có thể tham gia trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Thông qua hoạt động này
học sinh không chỉ phát huy tính tích cực, tính trách nhiệm mà còn phát triển kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng hợp tác và kĩ năng giao tiếp.
Để việc thảo luận nhóm được thành công, GV cho HS chuẩn bị trước ở nhà
bằng việc nghiên cứu nội dung bài học.
Khi tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp: Trước tiên, GV tổ chức phân
nhóm, thơng báo quy trình và quy định thảo luận.
Sau khi giao nhiệm vụ cho từng nhóm, giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát,
theo dõi mà không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ
phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận khơng đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra
những câu trả lời ngờ nghệch, không đúng, giáo viên nên nhanh chóng,khéo léo
dẫn dắt làm cho học sinh nhận thức được sự thiếu chính xác của thơng tin đó mà
khơng làm ảnh hưởng đến cảm xúc, lịng tự trọng của học sinh.
Khi học sinh trình bày, giáo viên nên lắng nghe những điều học sinh nói để
tìm hiểu xem các em định nói gì, cảm nhận của các em như thế nào?
Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống nhất
và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và bổ
sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần,
thái độ làm việc của học sinh.

Qua hoạt động tập thể này học sinh sẽ biết làm thế nào để giữ gìn mối quan
hệ tốt đẹp với người khác, biết làm thế nào để đối phó với các tình huống trong
cuộc sống. Vì thế, ở hình thức này, tơi thường chú ý hơn đến đối tượng HS yếu
kém, tính cịn rụt rè, thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin, nói năng cịn lúng túng, vụng
về. Khi gọi đại diện nhóm lên trình bày kết quả thảo luận tôi thường gọi những
đối tượng học sinh này để các em có dịp được thể hiện và rèn luyện bản thân.
- Cho học sinh đóng vai nhân vật để xử lí tình huống
8
SangKienKinhNghiem.net


Khi dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa (SGK Ngữ văn 12-tập 2) tôi tổ chức cho
HS thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử khi gặp tình huống cần xử lí bằng
cách cho HS thử đóng vai.
Ví dụ:
+ Cho học sinh thử đóng vai là một cán bộ dân số- kế hoạch hóa gia đình để giải
quyết bi kịch cho gia đình thuyền chài một cách hợp tình hợp lí nhất.
+ Thử làm người đàn bà hàng chài mạnh mẽ, cá tính trong giải quyết mâu thuẫn
gia đình.
+ Thử làm người chồng khi nghe những lời tâm sự của vợ- người đàn bà hàng
chài ở tòa án huyện.
+ Thử làm người con khi chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình.
Qua hình thức hoạt động này, HS biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và
hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề gặp phải trong cuộc
sống. Thơng qua đó, học sinh nhận thức được về bản thân, về chỗ đứng của mỗi
em trong cuộc sống này.
- Tổ chức trò chơi : Hái hoa dân chủ
Ví dụ ở bài: Nhìn về vốn văn hóa dân tộc của Trần Đình Hượu(Sách Ngữ
văn 12, Tập 2) có nội dung tìm hiểu về vốn văn hóa của dân tộc. Để tăng sự
hứng thú cho giờ học đồng thời nhằm rèn luyện cho các em kĩ năng TNT, tơi tổ

chức trị chơi hái hoa dân chủ. Trong mỗi bông hoa là mỗi câu hỏi hoặc yêu cầu
như: hãy tìm một số câu tục ngữ, thành ngữ ca dao nói về lối sống của người
Việt Nam? Kể tên những cơng trình kiến trúc ở Việt Nam và thế giới? Bạn có
suy nghĩ gì về vốn văn hóa của người Việt Nam? Qua tiết học này, bạn thu
hoạch được những gì? Bạn phải làm gì để thể hiện tình yêu quê hương?
Bạn sẽ giới thiệu như thế nào về văn hóa Việt Nam với du khách nước
ngồi?… Mỗi HS hái một hoa và trình bày theo yêu cầu nội dung câu hỏi.
Đây là một trong những hoạt động dạy học mà HS u thích nhất vì nó kích
thích sự hứng thú học tập, làm cho tiết học thêm sinh động và hấp dẫn. Đồng
thời qua hình thức này GV cũng rèn được một số kĩ năng sống đặc biệt là kĩ
năng tự nhận thức cho HS. Thông qua tiết học, học sinh nhận thức được ưu điểm
và hạn chế của văn hóa Việt Nam. Đây cũng là hành trang tri thức mà mỗi học
sinh mang theo khi vươn ra biển lớn, khi đất nước đang bước vào thời kì hội
nhập và phát triển. Biết nhận thức về nhân cách của bản thân, các điểm mạnh,
điểm yếu, biết cả những gì phù hợp với mong muốn sự nghiệp và tài năng của
mình chính là q trình tự nhận thức mà mỗi học sinh sẽ rút ra được qua mỗi bài
học Ngữ văn.
9
SangKienKinhNghiem.net


Tổ chức tốt các hình thức dạy học là một trong những khâu quan trọng của
GV trong quá trình dạy học trên lớp. GV cần vận dụng linh hoạt để rèn cho học
sinh các KNS trong đó tự nhận thức là kĩ năng cơ bản và quan trọng nhất.
2.3.4.Giải pháp 4: GV tổ chức dạy học bằng cách kết hợp dạy học trên lớp với
các hình thức ngoại khóa văn học
Ngoại khóa văn học có rất nhiều hình thức. Trong q trình dạy học, tơi đã
vận dụng một số hình thức sau:
* GV tổ chức cho học sinh thuyết trình về tác phẩm văn học theo các chủ
điểm hoạt động của nhà trường trong năm học.

Ví dụ:Trường phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, tôi tổ chức cho các em thuyết
trình về tác phẩm văn học theo chủ đề ca ngợi Bác, ca ngợi anh bộ đội cụ Hồ
qua các tác phẩm đã học hoặc sưu tầm như: Rừng xà nu- Tác giả Nguyễn Trung
Thành, Những đứa con trong gia đình- Tác giả Nguyễn Thi, Người mẹ cầm
súng – Tác giả Nguyễn Thi…HS trình bày trước lớp về bài thuyết trình như giới
thiệu, phân tích, phát biểu cảm nghĩ, đánh giá của chính mình về tác phẩm đã
chọn.
Sau mỗi bài thuyết trình, tơi cho các em nhận xét, đánh giá, đóng góp ý kiến.
Cuối cùng, GV tổng kết, ghi nhận những ý kiến của các em về phần thuyết trình.
* Tổ chức cho các em dàn dựng kịch bản và đóng kịch (dựa trên các tác
phẩm văn học)
Đây là hoạt động thực sự bổ ích và hấp dẫn đối với các em học sinh. Các em
được hóa thân vào nhân vật, từ phục trang, đạo cụ đến diễn xuất của những diễn
viên không chuyên. Tất cả dường như đã thổi vào tác phẩm văn học bấy lâu nay
với các em khá nhàm chán một luồng gió mới. Các em hăm hở tìm hiểu, hăm hở
sáng tạo, hăm hở thể hiện mình. Thơng qua các hoạt động ấy các em hiểu rõ hơn
về chính mình, về người khác…Có thể nói sức sống và sức ảnh hưởng của tác
phẩm văn học tới đời sống và tới sự phát triển nhân cách của các em chưa bao
giờ được khơi dậy một cách mạnh mẽ đến thế.
Ví dụ: Học sinh có thể dàn dựng một số đoạn trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim
Lân thành kịch bản sân khấu (Đoạn Tràng “nhặt được vợ”, đoạn: bữa cơm đầu
tiên đón nàng dâu mới…).
Chính những hoạt động trên đã kích thích, tăng hứng thú học tập môn văn của
học sinh lên đáng kể. Các em thực sự được trải nghiệm và sống với tác phẩm.
Từ đó các em ngày càng được lớn lên về nhận thức và hành động.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
SangKienKinhNghiem.net



- Để biết được hiệu quả của quá trình trên tôi tiến hành thực hiện bài kiểm tra
với 2 đối tượng học sinh thuộc 2 lớp khác nhau nhưng mức độ học tập tương
đương ( Lớp 12B và 12C của trường THPT Lê Viết Tạo) giữa một lớp (12C)
được vận dụng các giải pháp nâng cao kĩ năng tự nhận thức và lớp (12B) chưa
được thực hiện. Trên cơ sở đó tơi thu được những kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ KHI SO SÁNH Ở 2 LỚP NHƯ SAU:
Lớp Sĩ số % HS loại giỏi %HS loại khá %HS loại TB %HS loại yếu-kém
12B
38
7,9%
26,3%
39,5%
26,3%
12C
38
26,3%
44,7%
21,1%
7,9%
Từ bảng trên ta có thể rút ra kết luận với lớp thử nghiệm tỉ lệ học sinh
giỏi, khá cao hơn so với lớp đối chứng. Ta thấy với việc thực hiện một số giải
pháp trên tỉ lệ học sinh có kết quả học tốt tăng lên. Cùng với đó là thái độ học
tập cũng tăng lên đáng kể, nhận thức về bản thân và cuộc sống xung quanh của
các em được cải thiện rõ rệt.
Nói chung chất lượng và tinh thần học tập của các em ở lớp thử nghiệm đã
có chuyển biến tích cực.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, dạy học mơn Ngữ văn cần hướng đến tích

hợp kiến thức cho HS, trong đó giáo dục KNS vừa là mục tiêu vừa là một giải
pháp quan trọng nhằm thu hút tinh thần thái độ học tập của học sinh. Do đó
người giáo viên cần tích cực tìm tịi những hướng đi mới, đặc biệt là việc làm
thế nào để kéo môn học gần với cuộc sống của người học.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường cần tổ chức đa dạng hóa các hình thức học tập như: Câu lạc bộ bộ
môn, Câu lạc bộ rèn KNS, Câu lạc bộ thể thao… để HS có được những sân chơi
bổ ích, phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi, tạo mơi trường cho những ý tưởng
sáng tạo, tài năng của các em được bộc lộ.
- Sở GD&ĐT nên tổ chức một số buổi hội thảo về tiết dạy lồng ghép giáo dục và
rèn KNS cho HS để GV giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
- Sáng kiến kinh nghiệm này là một phần nhỏ kinh nghiệm của bản thân thu
được qua quá trình giảng dạy trong một phạm vi nhỏ hẹp. Vì vậy việc phát hiện
những ưu nhược điểm chưa được đầy đủ và sâu sắc.
Cuối cùng tôi mong SKKN này sẽ được các đồng nghiệp nghiên cứu và
áp dụng một cách hiệu quả trong thực tiễn để rút ra những điều bổ ích.
11
SangKienKinhNghiem.net


Bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu thiếu sót rất mong được sự
đóng góp ý kiến, phê bình, phản hồi của các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 08 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Lê


12
SangKienKinhNghiem.net


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.SGK Ngữ văn 12-tập 2
2. SGV Ngữ văn 12- tập 2
3. Tài liệu: Chuyên đề: “Giáo dục kỹ năng sống ở trường trung học cơ sở”
Tác giả : Trịnh Thị Thu Hoài
4. Rèn kĩ năng sống cho học sinh, NXB Đại học sư phạm-Tác giả Nguyễn
Khánh Hà.

13
SangKienKinhNghiem.net


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD & ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Lê Viết Tạo
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
( Sở, Tỉnh…)


1

Hình thành kỹ năng
nhận biết, tìm ý, lập
dàn ý cho đề văn nghị
luận ở trường THPT.

Sở GD& ĐT

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học được
đánh giá xếp
loại

Loại C

2006- 2007

14
SangKienKinhNghiem.net



×