Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống quan trọng cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.38 KB, 20 trang )

PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Đặt vấn đề:
Ai cũng hiểu kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp
con người tồn tại, phát triển và thích nghi với cuộc sống. Nói một cách khác đơn
giản hơn, kỹ năng sống là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích
ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống, giúp cho cá nhân
vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức. Nếu thiếu kỹ năng sống thì con
người có gặp khó khăn gì hay khơng ?
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy trong các yếu tố quyết định sự thành cơng
của con người, kỹ năng sống đóng góp đến trên 80%. Nó có vai trị quyết định
trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chun nghiệp… Thành cơng chỉ
thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ hồn cảnh và có khả
năng chinh phục hồn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành trang không thể
thiếu. Biết sống, làm việc và thành đạt là ước mơ khơng q xa vời, là khát khao
chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những kỹ năng sống cần thiết và
hữu ích. Kỹ năng sống tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới,
tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự
mình quyết định tương lai của mình. Ngồi ra, kỹ năng sống cịn giúp giải phóng
và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân,
tránh suy nghĩ theo lối mịn và hành động theo thói quen trên hành trình biến
ước mơ thành hiện thực.
Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, ngồi kiến thức chun mơn, u cầu về các kỹ năng sống ngày càng
trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông
nổi, hiệu quả công việc không cao. Theo các nhà nghiên cứu, khả năng giao tiếp
với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết
cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một
cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại
trường.
1



Vì vậy địi hỏi Ngành giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng
quan trọng, thiết yếu. Và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một
nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi người thầy phải tổ chức các hoạt động giáo dục đa
dạng, phong phú. Qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng
tích cực như có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công
việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày…
nhằm góp phần phát triển nhân cách tồn diện. Trên cơ sở có tri thức, thái độ và
kỹ năng phù hợp, học sinh có thể sống an tồn, khoẻ mạnh và tích cực, chủ động
trong cuộc sống hằng ngày.
Trong thực tế hiện nay, kĩ năng sống của nhiều học sinh cịn yếu, chưa có
nét chuyển biến tích cực, nhiều em chưa có kĩ năng tự phục vụ, chưa biết chăm
sóc bản thân, chưa biết làm sạch đẹp trường lớp, giao tiếp thiếu thân thiện,…Vì
vậy, ở bậc tiểu học, giáo viên không những cung cấp cho học sinh những tri thức
sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội gắn với những kinh nghiệm đạo đức,
mà cịn phải chú trọng giúp học sinh hình thành và thực hành kĩ năng sống. Đó
là vấn đề mà tơi quan tâm trong nhiều năm dạy học và tôi đã rút ra sáng kiến:
“Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống quan trọng cho học sinh lớp 3”.
2. Mục đích đề tài:
Đề tài giúp học sinh hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống và thực hành
một sô kỹ năng sống thiết yếu nhằm góp phần hồn thiện các năng lực, phẩm
chất tốt đẹp cho người học sinh. Nhất là các em lớp 3.
Rèn luyện tinh thần năng động, sáng tạo; lịng say mê học hỏi, tự cải thiện
mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
3. Lịch sử đề tài:
Những vấn đề trong sáng kiến đã có nhiều tác giả nghiên cứu nhưng ở góc
độ khác, đối tượng khác. Riêng đề tài này, tôi đã nghiên cứu phù hợp với học
sinh lớp 3 tôi phụ trách và thực hiện lần đầu tại Trường Tiểu học Bình Trinh
Đơng trong năm học 2016-2017.
4. Phạm vi đề tài:

2


Trong thực tế, có rất nhiều kỹ năng sống cần phải giáo dục cho các em
như kỹ năng tự phục vụ; giao tiếp, hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề hiệu quả;
chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động xã hội; tự tin, tự trong, tự chịu
trách nhiệm; trung thực, kỉ luật, đoàn kết; yêu gia đình, bạn bè, yêu trường lớp,
… Đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống quan trọng cho học sinh
lớp 3”chủ yếu hướng vào giáo dục ba kỹ năng thiết yếu sau đây:
Kỹ năng tự phục vụ; kỹ năng giao tiếp, hợp tác và kỹ năng phòng tránh tai
nạn thương tích.

3


PHẦN II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1.Thực trạng của đề tài:
Do điều kiện sống đầy đủ, ngoài giờ học, các em chỉ tham gia các hoạt
động vui chơi, giải trí như xem ti vi, truy cập internet, chơi games, … dẫn đến
kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Đa phần các em học sinh ở trường
tiểu học hiện nay đều thiếu khả năng phân tích và khả năng nhận thức đúng – sai
các vấn đề, dẫn đến lúng túng, khơng biết cách xử lý các tình huống thường gặp
trong cuộc sống.
- Đa phần học sinh và phụ huynh chỉ chú trọng học kiến thức, không chú
trọng rèn kỹ năng sống.
- Một số học sinh học tập thụ động, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười
hoạt động, thiếu tự tin, chưa dám nói to rõ trước tập thể, khả năng ứng phó với
các tình huống trong cuộc sống kém.
- Nhiều em thiếu kỹ năng tự phục vụ.
- Khoảng một phần ba học sinh của lớp chưa biết phịng tránh tai nạn,

thương tích cho bản thân và người xung quanh, hay chơi những trò nguy hiểm.
- Kỹ năng giao tiếp, hợp tác hạn chế; vẫn còn hiện tượng thiếu thân thiện
ở một nửa số học sinh của lớp.
Nguyên nhân:
- Một số gia đình kinh tế khá giả, nng chiều trẻ q mức, khiến các em
khó tiếp cận được các hoạt động và khó hình thành kỹ năng xã hội, một số phụ
huynh không cho phép con em tham gia hoạt động đoàn thể, sợ con em vất vả.
- Nhiều phụ huynh chỉ khuyến khích con em tìm tịi kiến thức mà qn
hướng dẫn các em cách ứng xử với mọi người; chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn
uống mà quên hướng dẫn con em mình ăn uống như thế nào, sử dụng những đồ
dùng, vật dụng trong ăn uống thế nào? ăn xong bỏ rác ở đâu?…
- Một số em thiếu sự quan tâm sâu sát của gia đình; thiếu sự chỉ dẫn của
người lớn dẫn đến làm việc gì cũng cẩu thả, khơng quan tâm kết quả đạt hay
chưa.
4


- Đa số phụ huynh và học sinh chưa nhận thức hết tầm quan trọng của
việc rèn luyện kỹ năng sống; không kiên nhẫn hướng dẫn các em đến nơi đến
chốn khi trẻ tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung khi được hướng dẫn mà để
cho trẻ tự mày mị hoặc làm ln giúp trẻ.
*Phía xã hội: thời đại công nghệ thông tin phát triển làm ảnh hướng đến kỹ
năng sống của trẻ.
Từ những thực trạng trên, tôi thấy cần thiết phải rèn kỹ năng sống cho học
sinh tiểu học. Đó chính là hành trang giúp trẻ vững vàng hơn trong cuộc sống
sau này.
2. Nội dung cần giải quyết:
Để giúp các em có kỹ năng tự phục vụ tốt, biết yêu quý bản thân, thấy mình
mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện những năng lực của
bản thân, tôi tập trung giải quyết các nội dung sau :

Giáo dục, tuyên tuyền về tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống.
Giáo dục và hướng dẫn thực hành kỹ năng tự phục vụ.
Giúp học sinh phát triển các kĩ năng giao tiếp, hợp tác qua việc tổ chức
các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Dùng kỹ năng giao tiếp, nhân cách của người thầy để giáo dục kỹ năng,
nhân cách của học sinh.
Tạo môi trường thân thiện khi rèn kỹ năng sống cho học sinh.
3. Biện pháp thực hiện:
3.1. Chú trọng tuyên truyền, giáo dục về tầm quan trọng của việc rèn
các kỹ năng sống :
Con người muốn tồn tại, phát triển và thích nghi trong cuộc sống thì phải
giàu kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không đơn giản là việc dạy,
rèn cho trẻ những kỹ năng cơ bản cần thiết như tự chăm sóc bản thân; phòng
tránh và ứng xử với các nguy hiểm thường gặp, biết hồ đồng,… Giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ cịn phải được nhìn một cách tồn diện hơn, trong đó yếu tố
quan trọng nhất không chỉ nằm ở cách thức, phương pháp, nội dung mà còn nằm
5


ở thời kỳ, thời điểm thích hợp. Giáo dục sớm, phù hợp với thời điểm trẻ có khả
năng tiếp thu các kiến thức, kỹ năng tốt nhất.
Nói như vậy, có một số phụ huynh khơng hài lịng : Họ cho rằng người lớn
lười biếng nên bắt trẻ làm. Do đó, trong cuộc gặp gỡ phụ huynh học sinh đầu
năm học, tơi cởi mở trị chuyện, trao đổi, thăm hỏi về các kỹ năng con em đã
làm được và khuyến khích phát huy thêm nhiều kỹ năng khác. Tôi cũng không
quên giải thích thêm về tầm quan trong của kỹ năng sống.
Ví dụ: Trẻ được giáo dục kỹ năng sống khơng chỉ được trang bị những kỹ
năng sống cơ bản mà còn phát triển được những kỹ năng cực kỳ quan trọng giúp
tạo ra sự khác biệt, giúp tạo ra thành cơng cho trẻ trong cuộc đời. Nhà trường và
gia đình đều mong muốn trẻ có được một hành trang kiến thức và kỹ năng tốt

nhất để trẻ tự tin bước vào cuộc sống, tự tin đưa ra những quyết định của mình,
tự tin sống cuộc sống của mình mà khơng phải lệ thuộc vào người khác. Vậy thì,
ngay từ khi trẻ còn nhỏ, bố mẹ hãy cùng nhà trường xây dựng và rèn cho con em
những kỹ năng như: tự phục vụ, tư duy sáng tạo, giao tiếp, phân tích, tổ chức
cơng việc, khả năng thích nghi với sự thay đổi… Chỉ có như vậy mới giúp trẻ có
được một tương lai tươi sáng và tự tin bước đi trên con đường tương lai của
riêng mình.
Hiện nay, nhiều gia đình nuông chiều con trẻ quá mức, không cho phép trẻ
làm bất cứ cơng việc gì, sợ con em vất vả, khiến các em khó tiếp cận được các
hoạt động và khó hình thành kỹ năng xã hội; phụ huynh chỉ chú ý đến khâu
chăm con từng chút mà không giúp trẻ hiểu vì sao phải làm cơng việc đó và làm
cơng việc đó thế nào nên đa phần học sinh chưa nhận thức hết tầm quan trọng
của việc rèn luyện kỹ năng sống. Các em khơng tích cực thực hiện các hoạt
động, khơng rèn luyện thành thói quen, ln ln chờ giáo viên nhắc nhở. Cịn
phụ huynh thì khơng ủng hộ, dặn các em khơng được làm cơng việc gì, khơng
tham gia phong trào gì ở trường ngồi việc học các mơn. Do đó, việc rèn kỹ
năng sống cho học sinh gặp khơng ít khó khăn. Ngay đầu năm học, tôi thông qua
nội qui nhà trường, nhiệm vụ của người học sinh trước lớp và trong cuộc họp
6


phụ huynh. Tôi nêu cụ thể những việc các em cần phải thực hiện hằng ngày,
hàng tuần để rèn kỹ năng sống đồng thời đạt được năng lực tốt, phẩm chất tốt.
Tơi cịn nêu ví dụ dẫn chứng một vài em trong lớp có kỹ năng sống tốt thì tự tin
trong học tập và cũng đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ : Những em biết để đồ dùng ngăn nắp, biết qt dọn, biết giao tiếp,
xử lí tình huống… như Xuân Thy, Công Danh, Cẩm Tuyến biết giữ tập vở, áo
quần luôn sạch sẽ, khéo léo, biết tự học, chăm học,…thì ln hồn thành bài tập
nhanh.
Nhờ vậy, tơi thuyết phục được phụ huynh và các em thấy rõ tầm quan trọng

của việc rèn kỹ năng sống và các em không ngần ngại, tự giác rèn kỹ năng phù
hợp.
3.2. Giáo dục và hướng dẫn thực hành nhóm kỹ năng tự phục vụ qua
hoạt động ở trường :
3. 2.1. Giáo dục và hướng dẫn thực hành kỹ năng tự chăm sóc bản
thân :
Kỹ năng tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng
lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn
thử thách. Đó là những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp và ứng
xử của học sinh với những người xung quanh. Tập những kỹ năng tự phục vụ
cho học sinh, từng bước hình thành nhân cách sống cho trẻ là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm cần được đưa lên hàng đầu. Nếu các em không có kỹ năng
tự phục vụ bản thân, các em sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống.
Vậy mà đa phần các em khơng có kỹ năng tự phục vụ, sống rất ích kỷ, chỉ
biết đến bản thân, chỉ biết nhận, biết hưởng thụ mà không biết cho đi. Ở trường
cũng như ở nhà, các em hầu như hồn tồn thiếu sự sáng tạo, ln ỷ lại, phụ
thuộc vào người lớn; mỗi khi tiếp cận tình huống thực tế thì lúng tung khơng
biết xử lý như thế nào. Khi vào lớp, đồ đạc để lung tung, nào cặp, nón, áo khốc,
đồ chơi, thức ăn, nước uống. Nhìn lớp học ai cũng thấy chướng mắt. Vì vậy,
thơng qua tiết học giáo dục kỹ năng sống, tôi kể cho các em nghe câu chuyện
7


liên quan nội dung giáo dục, hướng dẫn các nhóm thảo luận để hiểu nội dung đó.
Rồi tơi cho các em kể những việc các em nên làm, đã tự làm được để chăm sóc
bản thân như tự học, tự chuẩn bị đồ dùng, tự gấp quần áo, tự giặt quần áo, tự dọn
phòng ở, phòng học, tự rửa bát, đĩa,…và kể những việc cần tránh như để đồ đạc
lung tung, lười biếng, ngủ nướng,…
Để đẩy mạnh tiến độ thực hành kỹ năng này, tơi hướng dẫn, phân cơng vị
trí công việc cụ thể cho các thành viên trong lớp, đồng thời giải thích các em

hiểu rằng mỗi người đều có trách nhiệm với cơng việc và hình thành thói quen
làm việc. Cần tập và lặp đi lặp lại để hình thành thói quen ở trẻ, tránh làm thay
trẻ. Như vậy nghĩa là giáo dục các em phải có tinh thần tự lập cao.
Ví dụ: Giáo dục các em gọn gàng, ngăn nắp chỗ học, chỗ chơi. Tôi luôn đi
đầu, là một tấm gương khi áp dụng kỹ năng tự phục vụ, luôn sắp xếp lớp học, tủ
thiết bị, bàn giáo viên trên lớp một cách gọn gàng, ngăn nắp và thật khoa học.
Còn các em giữ sạch, gọn chỗ mình ngồi. Những buổi học đầu năm, tơi hướng
dẫn các em để cặp, nón bảo hiểm, áo khốc đúng nơi, đúng chỗ. Sau mỗi tiết
học, tôi yêu cầu các em cất sách vở, bút, thước kẻ, đồ dùng học tập khác vào hộc
bàn. Khi các em đang làm công việc được giao, tơi cũng làm cơng việc của mình
để các em có cảm giác “cơng bằng” và mỗi người trong lớp đều có vai trị quan
trọng như nhau.
Ngồi ra, trong những lúc giữ trẻ ở bán trú tại trường, tôi dạy học sinh nghi
thức văn hóa trong ăn uống, qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn
tính tự lập như : biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết
cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn
uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa
… hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn khi ăn, không làm ảnh
hưởng đến người xung quanh.
3.2.2. Giáo dục và hướng dẫn thực hành kỹ năng làm sạch đẹp trường
lớp:
8


Để ngôi trường của các em luôn sạch đẹp, các em cần phải biết quét dọn.
Khi vừa lên lớp 3, hơn nửa lớp không biết cầm chổi đúng cách, quét lung tung,
hất bụi lên mũi, em nọ quét rồi, em kia quét rác bay qua, cứ quét đi, quét lại mất
nhiều thời gian mà sân chưa sạch. Tôi hướng dẫn các em qt lớp, qt sân
trường. Tơi phân vị trí cho từng em, sửa cách cầm chổi, cách quét sao cho ít bụi,

tơi qt từng nhát chổi cho các em xem, chỗ nào quét nhát ngắn, nhẹ tay, chỗ
nào quét nhát dài. Sau đó tơi quan sát các em qt và giúp đỡ thêm. Tơi cịn
hướng dẫn lau sàn, tưới cây hay lau bảng, rửa bình đựng nước, rửa ca múc nước
chải răng, rửa bàn chải đánh răng hay rửa tay, chân đúng cách.
Tơi ln có những biện pháp khen thưởng, khích lệ, động viên cơng nhận
các em đã hồn thành cơng việc nào đó và đưa ra những lời nhận xét tích cực
sau mỗi việc mà các em đã làm.
Nhờ vậy các em hồn thành cơng việc nhanh và cảm thấy vui, khơng lo
lắng khi đến lượt mình làm trực nhật. Bản thân có trách nhiệm thực hiện cơng
việc một cách tốt hơn.
Trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ được tiếp xúc với nền giáo
dục tốt thì trẻ sẽ phát triển theo chiều hướng tốt và ngược lại. Do đó việc rèn
luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt và là
phương pháp rất quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển của trẻ.
3.3. Giáo dục kỹ năng phịng tránh tai nạn, thương tích bằng phương
pháp động não :
Trong cuộc sống có nhiều học sinh khơng biết phịng tránh tai nạn, thương
tích. Đây là kỹ năng quan trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu
chúng ta không rèn luyện thường ngày. Nhiều em tham gia trị chơi, hoạt động
nguy hiểm khơng lường trước hậu quả. Hay tham gia giao thông mà không chú
ý quan sát. Khi bị thương tích hay gây ra thương tích cho người khác mới hối
hận thì đã muộn.

9


Để tránh những điều đáng tiếc ấy, tôi đưa ra tình huống, câu hỏi yêu cầu
các em động não suy nghĩ, liên tưởng dự đốn xem hậu quả các trị nguy hiểm là
gì, sau đó nhắc nhở, giáo dục vấn đề có liên quan.
Ví dụ : Tơi hỏi các em điều gì xảy ra nếu như các em đùa giỡn quá mức,

chạy đuổi nhau ; tham gia giao thông mà không chú ý quan sát ; leo trèo; nhảy
từ lang can lớp học xuống sân ; vứt đồ vật từ trên lầu xuống ; hốt cát rải vào
bạn ;…Các em trả lời hậu quả là ngã xay sát nhẹ, gãy tay, chân, tét đầu, mẻ trán,
chảy máu, chấn thương khắp người,… Vậy các em phải thực hành kỹ năng gì ?
Các em đều nói vanh vách nhưng tơi vẫn ln nhắc các em hàng tuần, hàng ngày
khi thấy các em tham gia trò chơi nguy hiểm.
Cách giáo dục này rất hiệu quả, nhiều lần, tôi bắt gặp học sinh lớp tôi bảo
nhau : “Bạn muốn sứt đầu, mẻ trán à?” hay “Bạn muốn gãy chân khơng ?” Thì
ra các em nhớ lời tôi, biết khuyên bạn kịp dừng lại khi thấy bạn nào chơi trị
nguy hiểm.
3.4. Kiên trì giáo dục nhóm kỹ năng giao tiếp- hịa nhập cuộc sống thơng
qua các mơn học :
Để hình thành và thực hành kĩ năng giao tiếp, mỗi em phải biết thể hiện
bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, cần cảm nhận được
vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kĩ năng cơ bản
và khá quan trọng đối với các em. Nó có vị trí chính yếu so với tất cả các kĩ
năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học.
Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể,
học sinh được dạy cách lễ phép, kỹ năng chia sẻ, … nhưng khi đi vào thực tế,
nhiều em vẫn thiếu kỹ năng giao tiếp, khơng có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu
mình với người khác, thậm chí có nhiều em cịn khơng dám nói hoặc khơng biết
nói lời xin lỗi khi các em mắc lỗi ; thái độ, lời nói, cách xưng hơ thiếu thân
thiện, nói với nhau cọc lốc.
Chính vì lẽ đó, tôi hướng dẫn và cho các em thực hành trong một số tiết
học và trong một số tình huống thường gặp ở trường như tự giới thiệu về bản
10


thân, về gia đình, về trường, lớp học, về bạn bè và thầy cô giáo. Nhắc nhở các
thể hiện sự thân thiện với mọi người như tươi cười, vẫy tay chào, làm quen với

các bạn trong trường, chơi với các bạn, giúp đỡ mọi người, khen ngợi và động
viên bạn, chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi cơng cộng, nói lời
cảm ơn, xin lỗi khi cần thiết. Bên cạnh đó, tơi cũng khuyến khích các em thể
hiện sự quan tâm, yêu thương, chia sẻ như gọi điện hỏi thăm, giúp mẹ việc nhà,
giúp bạn học tốt, chia sẻ vui, buồn, chăm sóc người thân. Đặc biệt xưng hô đúng
ngôi thứ như “gọi bạn, xưng tôi hoặc xưng tên”, không gọi bạn bằng ông (bà)
xưng tôi, không gọi bố (mẹ) bằng ông (bà) xưng tôi. Không nói về một người
lớn nào đó bằng “con mẹ đó”, “thằng cha đó”.
Ví dụ : Khi học mơn Tiếng Việt, bài “Bạn biết gì về bạn bè năm châu?”,
tơi cho các em chơi Trò chơi “Giới thiệu về thiếu nhi Việt Nam”, một số bài
khác, tôi cho các em thực hành : đóng vai tổ trưởng báo cáo kết quả học tập. lao
động của tố trong tuần, giới thiệu về nhóm em theo gợi ý : nhóm em gồm mấy
bạn, mỗi bạn có đặc điểm hay nết tốt gì ? Hay khi kể chuyện trước lớp, tôi cũng
tập cho các em tự giới thiệu về tên mình, tên câu chuyện, lời kể kết hợp cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt.
Để giáo dục kỹ năng hợp tác, tôi dùng một hoạt động, một trò chơi, câu
chuyện, một vấn đề, một bài hát để giúp các em học cách cùng làm việc với bạn,
đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng
hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Ví dụ: Khi luyện đọc cặp đơi hay đọc trong nhóm thì bạn này đọc, bạn kia
dõi theo, đọc thầm theo để giúp bạn sửa sai và đọc hay hơn. Khi trả lời câu hỏi,
thảo luận trong nhóm, bạn này tìm được một ý, bạn kia bổ sung thêm thì cả
nhóm được câu trả lời hồn chỉnh.
Ví dụ 2: Vệ sinh sân trường và lớp học, các em hợp tác nhau, phân công
nhau, mỗi bạn một khâu. Bạn quét sân, bạn hốt rác, bạn tưới cây, bạn lau bảng
thì cơng việc hồn thành nhanh hơn và hiệu quả cao hơn.

11



Một trong những kĩ năng mà tôi chú tâm là giúp trẻ cảm nhận được mình là
ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác, giúp trẻ
ln cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Vậy mà các em lúc nào rụt
rè, đứng lên đọc, nói đều lí rí, nói ư a cả lớp không nghe thấy rõ. Tôi tập cho các
em nói to rõ, diễn đạt mạch lạc trước tập thể bằng cách phân công tất cả các em
trong lớp đều làm nhiệm vụ của ban học tập để cho cả lớp chia sẻ các hoạt động
học tập trên lớp hoặc làm nhiệm vụ điều khiển trò chơi khi tham gia hoạt động
vui chơi, trò chơi học tập. Dần dần, em nào cũng tự tin hơn.
Dựa theo nguyên tắc tiến trình và ngun tắc thay đổi hành vi, tơi khơng
giáo dục kỹ năng giao tiếp một lần vì kỹ năng sống là một quá trình từ nhận thức
- hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con người, đặc
biệt hành vi tốt là q trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng giao tiếp hay bất
kỳ kỹ năng sống nào cũng không thể thực hiện ngày một ngày hai mà là cả một
quá trình sư phạm, phải tiến hành thường xuyên.
3. 5. Dùng kỹ năng giao tiếp, nhân cách của người thầy để giáo dục kỹ
năng, nhân cách của học sinh :
Trong các cách giáo dục thì phương pháp nêu gương có tác dụng rất lớn,
đạt hiệu quả cao nhất. Mỗi thầy cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng cho các
em noi theo. Đối với các em, người thầy chính là thần tượng. Vì vậy, tơi ln thể
hiện mình là nhà giáo dục gương mẫu, nhiệt tình, thương yêu học trị. Tơi khơng
chỉ nói sng mà thể hiện bằng hành động và việc làm cụ thể. Mỗi lời nói, cử
chỉ và hành động qua việc tiếp xúc với đồng nghiệp, với học sinh và ngồi xã
hội ln chuẩn mực, gương mẫu, ln ln mang tính sư phạm, khơng làm ảnh
hưởng xấu đến mối quan hệ với mọi người xung quanh.
Ví dụ : Khi tôi lỡ làm rơi đồ của học sinh, tơi nói lời xin lỗi. Khi đang học,
một em lấy đồ chơi ra chơi, tôi báo sẽ thu đồ chơi thì em nói : “thu thì mua cái
khác chơi tiếp” khiến tôi tức giận, tôi cố gắng kiềm chế cảm xúc, nói với giọng
điệu bình thường bằng những lời vừa pha trị, vừa có ý nhắc nhở, phê bình.

12



Khi đó khơng khí lớp học khơng căng thẳng, thái độ của trị cũng tỏ ra tơn
trọng thầy ; từ đó tình cảm thầy trị thêm gắn bó. Và cả thầy trò đều cảm thấy dễ
chịu.
Với giải pháp này, hai bên đều được tôn trọng. Tôi nhận ra giải pháp mang
lại hiệu quả cao trong một lần tôi đọc bài làm văn của học sinh lớp tôi, các em
viết như lời tâm sự: Em ước dần dần sau này em rèn được tính hồ nhã giống
như cơ Thuỷ, mong cơ mãi mãi dạy cho học trị của mình những điều tốt đẹp
trong cuộc sống như dạy em,…
3.6. Giúp học sinh phát triển các kĩ năng giao tiếp, hợp tác qua việc tổ
chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh :
Đặc trưng của tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể cho học sinh tiểu học
là lấy tập thể làm môi trường giáo dục, lôi cuốn các em vào phong trào hoạt
động chung của tập thể. Với các hình thức như lao động, vui chơi, hoạt động xã
hội tập thể và các mối quan hệ giao tiếp ngoài xã hội, tạo cơ hội và điều kiện
cho học sinh tự rèn luyện, biến những yêu cầu giáo dục thành hành vi, kỹ năng
tương ứng. Trong sinh hoạt tập thể, học sinh được rèn luyện, biết đoàn kết
thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ, hợp tác với nhau giúp học sinh được tự tin,
mạnh dạn, hoà đồng với tập thể.
Để phát triển kỹ năng giao tiếp, hợp tác, tôi phối hợp với nhà trường, tổng
phụ trách tổ chức các hoạt động tập thể rất phong phú và đa dạng, giúp các học
sinh phát triển kỹ năng giao tiếp như : Hoạt động theo chủ điểm gắn kết với học
sinh tiểu học như ngày truyền thống nhà trường, giữ gìn truyền thống văn hóa
dân tộc, kính u Bác Hồ,... Các trị chơi tìm hiểu về xã hội, về tự nhiên, về
khoa học . Các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao như : Sinh hoạt
văn nghệ hát, múa, kể chuyện, đọc thơ, diễn kịch, xem phim,... Hoạt động lao
động cơng ích. Hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các gia đình thương binh,
liệt sĩ, những người có cơng với cách mạng. Các hoạt động vì mơi trường xanh,
sạch, đẹp…Có như vậy mới gắn kết các em lại thành một tập thể mạnh, một

người vì mọi người. Quan trọng hơn cả là rèn luyện tinh thần tập thể, đồng đội,
13


giúp các em đoàn kết, thương yêu, chia sẻ, cảm thơng, hồ đồng mạnh dạn, tự
tin trong cuộc sống.
Ngồi ra, qua nội dung trong trị chơi cũng góp phần giáo dục các kỹ năng
khác như tự chăm sóc bản thân, tiết kiệm thời gian,…
Duy trì việc sinh hoạt ngồi giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được
học, được chơi.
3.7. Tạo môi trường thân thiện khi thực hiện nhiệm vụ rèn các kĩ năng
sống:
Nếu các em cảm thấy thoải mái, hứng thú, các em sẽ trở nên dễ dàng học
và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để
giúp học sinh sẵn sàng học mọi thứ. Do đó, ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi mơi
trường như gia đình, nhà trường, xã hội; tôi trực tiếp hay gián tiếp tạo điều kiện
tối đa, tạo môi trường thân thiện giúp cho học sinh thực hành các kỹ năng sống
thiết yếu.
Đôi khi, lúc thực hành các kỹ năng sống, nhiều học sinh gặp khó khăn, bị
quở trách khiến các em nản lịng. Tơi ln tạo mối quan hệ thân thiện giữa thầy
và trị để quá trình giáo dục kỹ năng sống đạt hiệu quả cao hơn. Trẻ con dễ buồn,
dễ vui, dễ đi lệch hướng. Tơi dùng lời lẽ thân thiện, dùng tình cảm yêu thương,
sự quan tâm, chia sẻ để giảng giải, điều chỉnh hướng suy nghĩ và hành động của
các em phát triển theo hướng tích cực.
Ví dụ 1 : Em Minh Tân lớp tôi cả tuần buồn bã, thái độ cáo gắt, đánh bạn,
cãi nhau, không chịu làm bài, không tham gia hoạt động nhóm, lớp. Đồ dùng
học tập để lung tung, rớt xuống đất không thèm nhặt lên, gọi em pát biểu ý kiến
thì em làm thinh. Cuối tuần, tơi gọi em lại hỏi: “Em gặp chuyện gì mà cả tuần
nay cô thấy em không vui ?” Em kể: Mấy hơm trước, em đi chơi bỏ qn làm
mất nón, về nhà bị ngoại chửi và đánh địn. Hơm qua, ăn cơm xong không rửa

chén, xếp mùng không ngay ngắn bị chửi nữa. Tơi khun mấy câu tình cảm:
Ngoại khơng phải khơng thương em, ngoại sợ em khơng nón, đi đầu trần về sẽ
bị bệnh, mẹ phải vất vả kiếm tiền mua nón khác. Ngoại muốn tập cho em có thói
14


quen giữ gìn đồ dùng, dọn dẹp đồ dùng ngăn nắp. Từ nay, em mang đồ dùng đi
đâu nhớ phải mang về, phải biết để đồ đạc ngay ngắn, gọn gàng. Vậy là hôm
sau, đến lớp, em tươi hẳn lên, tự tin tham gia hoạt động, sôi nổi thảo luận trong
nhóm.
Ví dụ 2: Ai nấy nói chuyện làm ồn lớp học, tôi cứ nhắc “Các em trật tự”
thật to, rát cả họng vẫn không cắt được những câu chuyện “sôi nổi” của các em.
Thế là tôi đổi giọng vừa đủ nghe: “Bạn nào nói to cơ thưởng kẹo” hay “Chiều
nay, về khoe mẹ: ở lớp, con nói chuyện, đùa giỡn, khơng học gì cả. Chắc mẹ vui
lắm !”, Có khi tơi nói như kể chuyện: “Ngày hơm nay, có một bạn tên là Phúc,
học lớp 3/1 nói chuyện ồn ào trong giờ học, khơng nghe lời cơ,...”, “Bạn nào nói
chuyện nhiều cô thương”,… Vậy là sự chú ý chuyển sang tơi, rồi các em nín bặt
khơng nghe thấy tiếng động nào.
Ngoài ra, những khi trẻ mắc lỗi hay lười biếng trong q trình rèn luyện kỹ
năng sống, tơi chỉ động viên, khuyên bảo và uốn nắn cho trẻ bằng những lời nhẹ
nhàng, khơng để trẻ có tâm lý tiêu cực khi cịn nhỏ. Nên khen những thành quả
trước sau đó khuyến khích trẻ cố gắng thêm tí nữa để các em thấy vui lịng vì
mình cũng làm được nhưng phải rèn luyện cho hay hơn. Từ đó u thích, tự làm
những công việc được giao.
4. Kết quả chuyển biến của đối tượng :
Qua nghiên cứu tài liệu kết hợp kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ, tơi đã
áp dụng sáng kiến của mình một cách thuận lợi và mang lại thành công đáng kể.
So sánh kết quả hai năm học 2015-2016 và năm học 2016-2017, ta dễ dàng
nhận thấy : Các giải pháp trong sáng kiến này đã mang lại hiệu quả rõ rệt, cụ thể

là:
Năm học 2015-2016:
Đa phần học sinh cũng rèn được các kỹ năng cần thiết song còn một số em
chưa đạt kết quả như mong muốn.

15


Cịn vài học sinh chưa có thói quen lao động tự phục vụ ; vài học sinh leo
trèo cao, chạy đuổi nhau gây tẽ ngã.
Khoảng 30% số học sinh có kỹ năng hợp tác, chia sẻ tốt;
Còn chờ giáo viên nhắc nhở làm vệ sinh, chưa biết hợp tác trong hoạt động
nhóm và trong cơng tác vệ sinh sân trường, lớp học.
Còn hiện tượng học sinh chưa biết lễ phép, xưng hơ thiếu văn hố, thái độ
chưa thân thiện khi giao tiếp, một ít em biết giúp đỡ bạn cùng tiến, cùng học,
cùng chơi.
Năm học 2016-2017:
Đa phần học sinh chăm hơn, tự giác hơn, chủ động, mạnh dạn tự tin hơn,
nói to rõ hơn, ứng xử khá phù hợp trong mọi tình huống.
100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi
dậy tính tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, sáng tạo. 100% học sinh
có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập; 100 % học sinh
được bảo đảm an tồn, khơng bị thương tích.
Sau mỗi giai đoạn, học sinh phát triển kỹ năng hợp tác, chia sẻ tốt; tự giác,
hợp tác làm vệ sinh sân trường, lớp học sạch sẽ. Kĩ năng làm sạch đẹp trường
lớp được nâng cao.
100% học sinh biết lễ phép, xưng hô đúng ngơi thứ, nhiều em có thái độ
thân thiện, biết thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn
cùng tiến, cùng học, cùng chơi.


16


PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Tóm lược giải pháp :
Rèn kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một sớm, một
chiều” mà địi hỏi phải có q trình, phải kiên nhẫn thực hiện bằng cả tâm huyết
ở mọi lúc, mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống
rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học
sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa phương. Muốn rèn một số kỹ
năng sống thiết yếu cho học sinh đạt hiệu quả, cần phối hợp tốt các giải pháp
sau:
Tuyên truyền đến phụ huynh và giáo dục học sinh về tầm quan trọng của
việc rèn kỹ năng sống để từ đó thu hút sự phối hợp của các bậc cha mẹ học sinh
trongviệc rèn kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục và hướng dẫn học sinh thực hành nhóm kỹ năng tự phục vụ qua
một số hoạt động ở trường nhằm giúp các em biết tự chăm sóc bản thân, biết
làm sạch đẹp mơi trường xung quanh, sống có trách nhiệm hơn và sẵn sàng vượt
qua thách thức trong cuộc sống.
Bằng phương pháp động não giúp học sinh liên tưởng đến những hậu quả
của hoạt động, trò chơi nguy hiểm và cố gắng phịng tránh tai nạn, thương tích
cho bản thân và người xung quanh.
Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy,
trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn
phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Kiên trì giáo dục và giúp học sinh thực hành nhóm kỹ năng giao tiếp-hồ
nhập cuộc sống thơng qua các mơn học.
Dùng vốn sống, tình thương và nhân cách của người thầy để giáo dục kỹ

năng sống cho học sinh. Học sinh không những học kiến thức ở thầy mà còn học

17


tấm gương sống của người thầy “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự
học và sáng tạo”.
Người có kỹ năng sống ln dễ dàng đi đến thành cơng. Kỹ năng sống ln
ln được bổ sung, hồn thiện để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến
động. Do đó bất cứ ai cũng rèn, rèn nữa, rèn mãi các kỹ năng sống.
2. Phạm vi, đối tượng áp dụng:
Đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống quan trọng đối với học
sinh lớp 3” chủ yếu đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng sống thiết yếu như kỹ
năng tự phục vu; giao tiếp, hợp tác ; kỹ năng phòng tránh tai nạn thương tích.
Các kinh nghiệm trong đề tài này dễ dàng áp dụng cho đối tượng học sinh lớp
3 trong các trường tiểu học. Một số biện pháp có thể áp dụng cho học sinh cả
bậc học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý vị và các bạn đồng nghiệp.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT
1
2
3


Tên tài liệu
Tác giả
“Thực hành kĩ năng sống TS. Phan Quốc Việt

Nhà xuất bản
NXB Giáo dục Việt

Dành cho học sinh lớp 3”
“Thực hành kĩ năng sống TS. Phan Quốc Việt

Nam – Năm 2015
NXB Giáo dục Việt

Dành cho học sinh lớp 2”
“Thực hành kĩ năng sống TS. Phan Quốc Việt

Nam – Năm 2015
NXB Giáo dục Việt

Dành cho học sinh lớp 1”

Nam – Năm 2015

Tự phục vụ
Năm



học


số

rất tốt

Kỹ năng tự phục vụ
Tự phục vụ
Tự phục vụ

Chưa biết tự

khá tốt
Số
Tỉ lệ

phục vụ
Số
Tỉ lệ

lượng
20152016
20162017

32

28

lượng
96,5%

1


lượng
3,5%

0

29

Tự phục vụ
Năm



học

số

rất tốt

Kỹ năng giao tiếp, hợp tác
Tự phục vụ
Tự phục vụ

Chưa biết tự

khá tốt
Số
Tỉ lệ

phục vụ

Số
Tỉ lệ

lượng
2015-

đạt yêu cầu
Số
Tỉ lệ

32

2016
2016- 29

28

đạt yêu cầu
Số
Tỉ lệ
lượng

96,5%

19

1

lượng
3,5%


0


2017

Tự phục vụ
Năm



học

số

rất tốt

Kỹ năng tự phục vụ
Tự phục vụ
Tự phục vụ

Chưa biết tự

khá tốt
Số
Tỉ lệ

phục vụ
Số
Tỉ lệ


lượng
20152016
20162017

32

28

đạt yêu cầu
Số
Tỉ lệ
lượng

96,5%

29

20

1

lượng
3,5%

0




×