Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Đánh giá tác động tiềm năng của nước biển dâng đến Vườn Quốc gia Xuân Thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 110 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Phương pháp kế thừa ............................................................................................................ 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tiếng Anh Tiếng Việt
AAPF Average annual people flooded Số người chịu lụt trung bình hàng năm
CDM Clean Development Mechanism Cơ chế phát triển sạch
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm nội địa
GEF Global Environmental Fund Quỹ Môi trường Toàn cầu
GIS Geographic Information System Hệ thống thông tin địa lý
IPCC The International Panel on Climate
Change
Uỷ ban liên chính phủ về
biến đổi khí hậu của Liên Hiệp quốc
MCD Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và
Phát triển cộng đồng
MERC Trung tâm nghiên cứu
hệ sinh thái rừng ngập mặn
OECD Organisation for Economic
Co-operation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PHZ People in the Hazard Zone Số người sống trong vùng nguy hiểm
PTR People to respond Số người ứng phó
RNM Rừng ngập mặn
SRES Special Report on Emission Scenarios Báo cáo đặc biệt về những kịch bản
phát thải
UBND Ủy ban nhân dân


UNDP United Nations Development Program Chương trình phát triển
của Liên Hiệp Quốc
UNESCO United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization
Tổ chức văn hoá, khoa học
và giáo dục của Liên Hiệp Quốc
WAIS West Antartic Ice Sheet Dải băng ở phía Tây Antartic
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
1. Phương pháp kế thừa ............................................................................................................ 3

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài, tên đề tài
Vào đầu thế kỷ 21, chúng ta đang phải đối mặt với “tình huống hết sức khẩn cấp”
của một cuộc khủng hoảng liên quan đến hôm nay và ngày mai. Đó là cuộc khủng hoảng
biến đổi khí hậu. Một trong những tác động chắc chắn của biến đổi khí hậu là làm mực
nước biển trung bình toàn cầu dâng lên, điều khiến nguy cơ lũ lụt và ngập nước cao hơn,
nhiễm mặn nguồn nước mặt, nước ngầm và thay đổi hình thái học, chẳng hạn như xói
mòn hay mất những vùng đất ngập nước.
Sau nhiều năm tranh cãi nguyên nhân của biến đổi khí hậu là do tự nhiên hay do
con người, các nhà khoa học đã rút ra kết luận rằng đó là do các chất khí gây hiệu ứng
nhà kính được thải ra chủ yếu từ những nước phát triển. Tuy nhiên, những nước phải
chịu tác động trực tiếp và nặng nề nhất lại là những nước đang phát triển, một phần do
những nước này không có đủ khả năng tài chính để khắc phục và thích ứng với biến đổi
khí hậu.
Theo đánh giá của Uỷ ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam
là một trong năm nước trên thế giới chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và
nước biển dâng, chỉ đứng sau Bangladesh. Hiện nay, Viện khí tượng và Thủy văn đã xây
dựng kịch bản biến đổi khí hậu đối với Việt Nam bao gồm thay đổi trong mực nước
biển, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa…và đã công bố vào tháng 4/2009. Tại Việt Nam cũng
đã có một số công trình nghiên cứu đánh giá tác động tiềm năng do nước biển dâng gây

ra dựa trên những kịch bản nước biển dâng khác nhau ví dụ như công trình “Tác động
của biến đổi khí hậu – nước biển dâng trên địa bàn tỉnh Cà Mau” của thạc sĩ Nguyễn
Xuân Hiền, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam. Tuy nhiên, tại một số khu vực, những
1
tác động của nước biển dâng không còn là dự báo trên lý thuyết mà đã thực sự xảy ra và
gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể.
Theo Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện Giao Thuỷ - tỉnh Nam Định, kể từ cơ
bão số 5 năm 2005, tại khu vực bờ biển Bạch Long – Giao Thuỷ và khu du lịch thị trấn
Quất Lâm mực nước biển đã dâng lên 20 cm. Nam Định là tỉnh có Vườn Quốc gia Xuân
Thủy - Vườn Quốc gia duy nhất tại Việt Nam tham gia vào Công ước RAMSAR - với hệ
sinh thái đất ngập nước phong phú, đa dạng và là ga chim của rất nhiều loài chim quý
hiếm trong sách đỏ trên thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bên cạnh chịu
các tác động tiêu cực từ hoạt động của con người, Vườn Quốc gia Xuân Thủy còn phải
gánh thêm một số tác động có hại do nước biển dâng. Nhằm đánh giá những tác động
tiềm năng do nước biển dâng gây ra tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy, tôi đã thực hiện
chuyên đề “Đánh giá tác động tiềm năng của nước biển dâng đến Vườn Quốc gia
Xuân Thủy”.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, tôi thực hiện chuyên đề này nhằm đánh giá định tính và định lượng
những tác động tiềm năng do nước biển dâng gây ra tại Vườn quốc gia Xuân Thủy dựa
trên kịch bản nước biển dâng.
Thứ hai, có thể xác định, đề xuất hay đánh giá một loạt các lựa chọn thích nghi và
nếu có thể sẽ tận dụng những ảnh hưởng tích cực của nước biển dâng.
Thứ ba, giúp đánh giá chi phí của tác động của nước biển dâng nên có thể so sánh
chi phí này với chi phí của các biện pháp thích nghi và giảm nhẹ từ đó có thể đưa ra
những phản ứng chính sách phù hợp.
Cuối cùng, bản đánh giá này sẽ làm tăng nhận thức cộng đồng đối với vấn đề cần
sự quan tâm chung này (ví dụ, giáo dục moi người về sự cần thiết phải bảo vệ các khu
2
rừng ngập mặn, cụ thể là Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ) và tạo ra cơ sở cho các quyết định

chính sách.
III.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian là khoảng thời gian của kịch bản nước biển dâng – giai đoạn
2010 – 2015
- Phạm vi không gian của đề tài là Vườn quốc gia Xuân Thuỷ và năm xã vùng
đệm là Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân, Giao Hải.
IV.Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp kế thừa
• Tổng hợp các số liệu của Vườn quốc gia Xuân Thuỷ đã được phê duyệt trong các
quyết định của Chính Phủ, UBND tỉnh, huyện.
• Kế thừa có chọn lọc các tài liệu khoa học do các tác giả trong và ngoài nước đã công
bố về lượng giá kinh tế của Vườn quốc gia Xuân Thuỷ.
2. Phương pháp thực địa
Thực hiện các chuyến đi thực địa xuống Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ nhằm khảo
sát khu vực nghiên cứu, thu thập thông tin và tư liệu ảnh, phỏng vấn một số cán bộ làm
việc tại Ban Quản lý Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ cũng như đối chiếu những số liệu sẵn
có với thực tế khu vực nghiên cứu.
3. Phương pháp mô hình hoá
Sử dụng dữ liệu đầu vào là bản đồ độ cao của Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ và các
bản đồ mức độ (hệ số) nhạy cảm thiệt hại của các lớp giá trị kinh tế đối với mức độ ngập
lụt , tác giả thực hiện mô phỏng các kịch bản nước biển dâng tại Vườn Quốc gia Xuân
Thuỷ bằng Hệ thống thông tin địa lý (GIS) nhằm xác định diện tích ngập lụt theo từng
kịch bản nước biển dâng cũng như mức độ thiệt hại (%) của từng giá trị kinh tế.
3
V.Cấu trúc chuyên đề:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, chuyên đề gồm 4 phần:
Chương I: Tiếp cận phương pháp đánh giá
Chương II: Tổng quan về Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ
Chương III: Đánh tác động tiềm năng của nước biển dâng đến Vườn Quốc gia Xuân
Thuỷ

Chương IV: Đề xuất các biện pháp ứng phó với nước biển dâng tại Vườn Quốc gia Xuân
Thủy
4
CHƯƠNG I: TIẾP CẬN PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
1.1. Nước biển dâng và biến đổi khí hậu tại khu vực ven biển
1.1.1. Những yếu tố làm thay đổi mực nước biển
Sự thay đổi cấp độ địa phương của mực nước biển tại bất kỳ địa điểm ven biển
nào phụ thuộc vào các yếu tố địa phương, khu vực và toàn cầu (Nicholls và
Leatherman,1996; Nicholl, 2002a). Vì thế, mực nước biển trung bình của toàn cầu tăng
lên không có nghĩa là nước biển tại bất cứ khu vực nào cũng tăng lên như vậy. Mực
nước biển địa phương so với đất liền có thể thay đổi vì một số lý do và qua những
khoảng thời gian ước tính 100 đến 1000 năm, mực nước biển khu vực sẽ là tổng của
những yếu tố sau:
• Mực nước biển dâng lên toàn cầu: là sự tăng lên của thể tích đại dương toàn cầu. Vào
thế kỷ 20 và 21, sự tăng lên này là do sự nở nhiệt của tầng đại dương bên trên do
nóng lên và sự tan băng do hiện tượng nóng lên toàn cầu gây ra bởi con người
(Church và cộng sự, 2001). Sự góp phần của Greenland thì ít chắc chắn hơn, và người
ta hy vọng rằng diện tích Antarctica tăng lên sẽ làm giảm mực nước biển, bù lại bất
cứ sự đóng góp thêm nào của Greenland đối với nước biển dâng. Ảnh hưởng trực tiếp
của con người cũng có thể do những giảm nhẹ đối với chu trình thuỷ học (ví dụ: tăng
lượng dự trữ nước ở trên mặt đất (khiến mực nước biển giảm xuống), hạn chế sử
dụng lượng nước ngầm (khiến mực nước biển tăng lên) mặc dù sự cân bằng này là
hầu như không chắc chắn.
• Những yếu tố khí tượng-hải dương khu vực: như là sự thay đổi về mặt không gian do
tác động của nở nhiệt, sự thay đổi đối với những luồng gió trong dài hạn và áp suất
khí quyển và sự thay đổi trong sự lưu thông đại dương như là dòng Gulf. Những tác
động này có thể là đáng kể đối với những ảnh hưởng khu vực tương đương với tầm
5
quan trọng của hiện tượng nở nhiệt trung bình toàn cầu. Những mô hình đánh giá tác
động hiện tượng nóng lên toàn cầu ít công nhận yếu tố này và nó thường bị bỏ qua

trong các đánh giá tác động cho đến ngày nay.
• Sự biến động theo chiều thẳng đứng của đất liền (lún xuống hay nâng lên) do nhiều
quá trình địa chất như kiến tạo học, tân kiến tạo học, sự thay đổi đằng tĩnh thời kỳ
sông băng (GIA) và sự hợp nhất (Emery và Aubrey, 1991). Bên cạnh những thay đổi
tự nhiên, việc hút nước ngầm cũng làm tăng quá trình sụt lún (và phá huỷ than bùn do
oxyhoá và xói mòn) tại nhiều vùng đất thấp ven biển, khiến nhiều vùng đất dễ bị tổn
thương sụt xuống vài mét trong suốt thế ký 20, bao gồm trong đó một số thành phố
ven biển chính như Tokyo và Thượng Hải (ví dụ Nicholls, 1995a).
1.1.2. Xu hướng mực nước biển gần đây
Mực nước biển tăng trong suốt thế kỷ 20 nhanh hơn so với thế kỷ 18 và 19
(Woodworth, 1999; Church và cộng sự, 2001). Khoảng thời gian mực nước biển tăng lên
ít thể hiện sự liên quan đến kỳ cuối của thời kỳ “Tiểu băng hà” và rằng thời kỳ đó không
liên quan gì đến những thay đổi do tác động của con người. Mực nước biển toàn cầu
được ước tính đã tăng 10 đến 20 cm trong suốt thế kỷ 20, nhưng không có bất kỳ chứng
cứ nào của sự tăng lên này. Người ta đưa ra ý kiến rằng ước tính tăng 20 cm trong suốt
thế kỷ 20 là phù hợp nhất đối với những dữ liệu sẵn có (Douglas và Peltier, 2002). Như
vậy, chúng ta đã trải qua mực nước biển tăng đáng kể trong suốt thế kỷ 20, điều mà
người ta có thể cho rằng là một nhân tố chính tạo ra nhiều vấn đề ven biển đang tồn tại.
1.1.3. Kịch bản nước biển dâng trong tương lai
Khi sử dụng những kịch bản phát thải khí nhà kính từ Báo cáo đặc biệt về kịch
bản phát thải (SRES), người ta ước tính rằng mực nước biển dâng toàn cầu từ năm 1900
đến 2100 sẽ nằm trong khoảng 9 đến 88 cm, với ước tính trung bình là 48 cm (Church và
cộng sự, 2001).
6
Hình 1.1: Kịch bản nước biển dâng toàn cầu giai đoạn 1900 – 2100
Nguồn: Trần Mai Kiên, Những tác động và thích nghi với biến đổi khí hậu tại Việt Nam,
Viện Khí tượng và thuỷ văn
Con số này thấp hơn một chút so với ước tính của Bản đánh giá thứ hai của IPCC
nhưng vẫn còn rất nhiều yếu tố không chắc chắn ảnh hưởng đến mực nước biển dâng lên
trên toàn cầu. Những yếu tố không chắc chắn có thể là hai lý do sau:

 Sự không chắc chắn về sự tập trung khí nhà kính trong tương lai; và
 Sự không chắc chắn về phản ứng của khí hậu đối với bức xạ nhà kính (sự nhạy cảm
của mực nước biển dâng và khí hậu).
Những kịch bản nước biển dâng chi tiết cho sau năm 2100 vẫn còn ít, nhưng
người ta cho rằng mực nước biển sẽ tăng lên đáng kể phụ thuộc vào độ lớn của hiện
tượng nóng lên toàn cầu.
7
Giảm lượng phát thải hay tăng bể hấp thụ khí nhà kính sẽ làm giảm sự ấm lên
toàn cầu và nước biển dâng. Những phân tích gần đây cho rằng mực nước biển trung
bình toàn cầu gần như độc lập với lượng phát thải tương lai cho đến năm 2050, và lượng
phát thải tương lai sẽ trở thành yếu tố quan trọng nhất tác động đến mực nước biển dâng
sau năm 2100 (Church và cộng sự, 2001). Điều này có nghĩa rằng trong suốt thế kỷ 21,
yếu tố không chắc chắn chủ yếu liên quan đến mực nước biển dâng trung bình toàn cầu
là sự nhạy cảm của khí hậu và nước biển dâng với bức xạ nhà kính. Ngay cả khi lượng
tập trung khí nhà kính trong khí quyển ổn định do nỗ lực giảm nhẹ, thí nghiệm của
Mitchell và cộng sự (2000) cho rằng sự tăng lên của mực nước biển toàn cầu chỉ bị chậm
lại tối đa là khoảng một vài thập kỷ trong thế kỷ 21. Kết quả này là do sự “cam đoan
nước biển sẽ dâng lên”, phản ánh sự thâm nhập từ từ của khí nóng đến những tầng đại
dương sâu hơn. Có thể phải mất hàng nghìn năm để nhiệt độ đại dương đạt tới mức cân
bằng mới với một khí hậu ổn định mới (Wigley và Raper, 1993; Church và cộng sự,
2001). Vì thế, trong trường hợp mực nước biển dâng, biện pháp giảm nhẹ là ít ảnh
hưởng nhất đến sự thay đổi trong tương lai khi so sánh với những nhân tố thay đổi khí
hậu khác (ví dụ như lượng mưa, nhiệt độ không khí…). Tuy nhiên, mực nước biển tăng
và tốc độ tăng tối đa có thể giảm đáng kể. Vì vậy, sự dâng lên của mực nước biển trung
bình toàn cầu dường như là không thể tránh được trong suốt thế kỷ 21 và sau đó cho dù
con người nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, nhưng chúng ta có thể tác động đến lượng
và tốc độ dâng của nước biển bằng các biện pháp giảm nhẹ. Tuy nhiên, những kịch bản
này chưa bao gồm khả năng của những thay đổi lớn, cụ thể là sự sụp xuống của những
dải băng ở phía Tây Antartic (WAIS), điều mà có thể làm cho mực nước biển dâng lên
6m.

1.1.3. Tác động của nước biển dâng
Tác động sinh địa lý đáng kể nhất của nước biển dâng được tổng kết trong Bảng
1, bao gồm những yếu tố tương tác liên quan. Hầu hết những tác động này nói chung đều
8
là hàm tuyến tính của nước biển dâng, mặc dầu một vài quá trình tổn thất vùng đất ngập
nước thể hiện phản ứng ngưỡng và liên quan nhiều hơn tới tốc độ dâng của nước biển
nhiều hơn là sự thay đổi hoàn toàn. Phần lớn những nghiên cứu đã có tập trung vào một
vài trong ba nhân tố sau: (1) thiệt hại do ngập lụt và bão, (2) xói mòn và (3) mất các
vùng đất ngập nước (Nicholls, 1995b). Các nghiên cứu này thường dựa trên những giả
định rất đơn giản và bỏ qua hầu hết những tác động của động lực học: những vùng đất
ngập nước được coi như là yếu tố bị động của cảnh quan và chỉ bị ngập do mực nước
biển dâng. Bên cạnh đó, những nhân tố tương tác cũng thường bị bỏ qua. Nguyên nhân
chính khiến nhiễm mặn chưa được cân nhắc là vì rất khó để phân tích về mặt phương
pháp luận. Chính vì thế, phần nhiều các đánh giá những tác động sinh địa lý của nước
biển dâng vẫn chưa hoàn chỉnh trên một vài phương diện nào đó.
Bảng 1.1: Những tác động chính của nước biển dâng khu vực
Tác động lý sinh
Các nhân tố liên quan khác
Khí hậu Phi khí hậu
Thiệt hại
do ngập lụt
và bão
Sóng cồn
Sóng và bão,
những thay đổi về mặt
hình thái học,
nguồn cung cấp trầm tích
Nguồn cung cấp trầm tích,
quản lý sự úng lụt,
những thay đổi về hình thái

học,
bồi thường đất
Nước
nghịch lưu
(ở các con
sông)
Dòng chảy mặt
Quản lý sự dẫn nước
và sử dụng đất
Mất các vùng đất ngập nước
(và thay đổi)
Tích tụ CO
2
Nguồn cung cấp trầm tích
Nguồn cung cấp trầm tích,
khu vực di dân, những tàn
phá trực tiếp
Xói mòn
Nguồn cung cấp trầm tích,
sóng và bão
Nguồn cung cấp trầm tích
9
Xâm nhập mặn
Nước bề
mặt
Dòng chảy mặt
Quản lý sự dẫn nước
và sử dụng đất
Nước ngầm Lượng mưa
Sử dụng đất,

sử dụng lớp ngậm nước
Úng nước Lượng mưa
Sử dụng đất,
sử dụng lớp ngậm nước
Nguồn: Robert J.Nicholls, Nghiên cứu các tác động của nước biển dâng, Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế, 2003
Những tác động đến hệ thống tự nhiên do nước biển dâng ở bảng trên gây ra
một loạt những ảnh hưởng kinh tế-xã hội (Nicholls, 2002a), bao gồm những tác động sau
được xác định bởi McLean và cộng sự (2001):
• Gia tăng mất mát tài sản và môi trường sống ven biển;
• Gia tăng rủi ro lũ lụt và nguy cơ mất tính mạng;
• Phá hoại những công trình bảo vệ ven biển và những cơ sở hạ tầng khác;
• Mất tài nguyên có thể tái sinh và tài nguyên phục vụ cho sinh kế;
• Mất chức năng vận chuyển, giải trí và du lịch;
• Mất những giá trị văn hóa phi tiền tệ;
• Tác động lên nông nghiệp và nghành nuôi trồng thủy sản do suy giảm chất lượng đất
và nước.
Những tác động gián tiếp của nước biển dâng thì khó phân tích hơn nhưng
chúng cũng có tiềm năng quan trọng trong nhiều lĩnh vực như là nghề cá. Vùng đất ngập
nước ven biển đóng vai trò quan trọng đối với vòng đời của nhiều loài cá quan trọng. Vì
thế, nếu nước biển dâng làm suy giảm vùng đất ngập nước thì điều này sẽ tác động đến
ngư nghiệp (McLean và cộng sự, 2001, Kennedy và cộng sự, 2002). Những tác động phi
tuyến tính rõ ràng có thể được thể hiện bởi sự giảm sút nhanh chóng tại những vùng
ngập nước đồng bằng Mississippi, Mỹ. Rõ ràng, quá trình này không thể tiếp tục vô hạn
10
và người ta đoán rằng trong vòng thế kỷ 21 ngư nghiệp sẽ sụt giảm mạnh trừ phi có
nhiều vùng đất ngập nước mới được hình thành. Sức khỏe con người là một vấn đề khác
mà ảnh hưởng gián tiếp của nước biển dâng có thể là đáng kể. Do đó, nước biển dâng có
thể tạo ra các tầng tác động thông qua hệ thống ven biển, mặc dù đến ngày nay những
phân tích mới chỉ tập trung chủ yếu vào những tác động trực tiếp.

a. Những đánh giá quy mô quốc gia
Những đánh giá quy mô quốc gia nói chung đã bao gồm các tác động tiềm năng
khi nước biển dâng lên 1m trong trường hợp các biện pháp thích nghi là hạn chế. Về mặt
này, họ khẳng định lại những gì đã được tuyên bố về tầm quan trọng của những khu vực
ven biển. Bảng sau thể hiện rằng gần 180 triệu người sẽ bị ảnh hưởng khi nước biển
dâng lên 1m và giả định không có biện pháp ứng phó, thích nghi nào. Như ai đó đã cho
rằng những vùng đất ven biển thấp là nhạy cảm nhất đối với nước biển dâng, cụ thể là
các hòn đảo nhỏ và đồng bằng. Những vùng đất ngập nước ven biển bị đe dọa khá lớn
dù điều này có lẽ chỉ phản ánh các giả định tác động đơn giản được thiết lập trong các
nghiên cứu hơn là tình trạng tổn thương thật sự, điều mà có thể ít hơn rất nhiều nếu
những vùng đất ngập nước này có thể ứng phó được với nước biển dâng.
11
Bảng 1.2: Tổng hợp kết quả nghiên cứu các nước
Nước
Số người bị ảnh
hưởng
Thiệt hại kinh tế Mất đất
Mất
đất
ngập
nước
Chi phí bảo vệ/
Thích nghi
(Nghìn
người)
% Tổng
số
Triệu
Đôla
% GDP Km

2
%
Tổng
Km
2
Triệu
Đôla
%GDP
Antigua 38 50 5 1,0 3 71 0,32
Argentina 5000 >5 3400 0,1 1100 >1800 >0,02
Bangladesh 71000 60 25000 17,5 5800 >1000 >0,06
Belize 70 35 1900 8,4
Bennin 1350 25 118 12 230 0,2 85 >400 >0,41
Trung
Quốc 72000 7 35000
Ai Cập 4700 9 59000 204 5800 1,0 13100 0,45
Guyana 600 80 4000 1115 2400 1,1 500 200 0,26
Nhật Bản 15400 15 849000 72 2300 2,4 >156000 >0,12
Kiribati 9 100 2 8 4 12,5 3 0,10
Malaysia 7000 2,1 6000
Marshall I. 20 100 160 324 9 80 >360 >7,04
Mauritius 3 <1 5 0,3
Hà Lan 10000 67 186000 69 2165 5,9 642 12300 0,05
Nigeria 3200 4 17000 52 18600 2,0 16000 >1400 >0,04
Phần Lan 235 1 24000 24 1700 0,5 36 1400 0,02
Senegal 110 >1 >500 >12 6100 3,1 6000 >1000 >0,21
12
St Kitts 1 1,4 1 50 2,65
Tonga 30 47 7 2,9
Uruguay 13 <1 1700 26 96 0,1 23 >1000 >0,12

Mỹ 31600 0,3 17000 >156000 >0,03
Venezuela 56 <1 330 1 5700 0,6 5600 >1600 >0,03
Tổng 178834 1146310 149022 58790 271124
Nguồn: Bijlsma và cộng sự (1996)
Chú ý: Giả định là với mức phát triển như hiện tại và mực nước biển dâng lên 1m. Tất cả các tác động đều giả định
là không có các biện pháp thích nghi, trong khi giả định các biện pháp thích nghi là bảo vệ, trừ những khu vực có mật
độ dân số thấp. Chí phí tính theo đồng Đôla năm 1990.
13
Về vấn đề thích nghi, những nghiên cứu này thường đặt ra những giả định rất đơn
giản phù hợp với phương pháp luận giá trị, như tính chi phí bảo vệ cho tất cả các khu
vực, trừ những nơi có dân số thấp (ngưỡng chung là nhỏ hơn 10 người/km
2
). Những kết
quả này cho rằng chi phí thích nghi sẽ tạo ra gánh nặng đối với nền kinh tế quốc gia, cụ
thể là đối với nhiều quốc đảo nhỏ. Tuy nhiên, quá trình thích nghi và năng lực thích nghi
của cộng đồng ven biển thường chưa được cân nhắc. Nhiều người nhận ra rằng vấn đề
này cực kỳ không thỏa đáng và những nghiên cứu tương lai được đề nghị xác định các
biện pháp thích nghi làm vấn đề ưu tiên.
Một kết quả quan trọng là quy mô đánh giá. Sterr (2003) đã điều tra tình trạng dễ
bị tổn thương của Đức đối với nước biển dâng, tại quy mô quốc gia, trong đó bao gồm
bang Schlesweig-Holstein và một nghiên cứu khác chỉ tại quy mô bang Schlesweig-
Holstein. Khi quy mô nghiên cứu rộng ra thì diện tích những vùng chịu nguy hiểm sẽ
giảm do sử dụng số liệu có độ phân giải cao hơn. Tuy nhiên, những tác động tiềm năng
không thay đổi đáng kể vì giá trị con người vẫn tập trung tại những vùng nhỏ hơn chịu
nguy hiểm. Turner và cộng sự (1995) nghiên cứu ứng phó tốt nhất đối nước biển dâng
tại East Anglia (Anh) bằng cách sử dụng phương pháp chi phí lợi ích. Tại quy mô quốc
gia, cần thiết phải bảo vệ toàn bộ đường bờ biển. Ngược lại, nếu theo quy mô khu vực lũ
lụt, 20% khu vực lụt nên bỏ qua thậm chí là trong trường hợp tốc độ nước biển dâng
hiện nay. Kết luận này là phù hợp với xu hướng hiện tại trong chính sách quản lý ven
biển tại vùng này. Điều này cho thấy rằng đánh giá lựa chọn thích nghi thực tế đòi hỏi sự

phân tích chi tiết để nắm bắt được những thay đổi tiềm năng trong cách ứng phó tại một
vùng cụ thể, hơn là giả định một cách ứng phó khuôn mẫu cho tất cả các khu vực.
Chi phí nước biển dâng tiềm năng tại Mỹ tiếp tục được phân tích như đã tóm tắt ở
bảng 3 đối với kịch bản nước biển toàn cầu dâng lên 1m. Những nghiên cứu đầu tiên đã
ước tính chi phí lớn hơn nhiều do các nhà khoa học đã bỏ qua các biện pháp thích nghi,
hoặc nhìn nhận chúng một cách giản đơn và cứng nhắc, áp đặt những chi phí phi thực tế.
14
Những nghiên cứu này chỉ ra rằng hiểu biết của chúng ta về thích nghi còn rất hạn chế.
Nếu giả định thích nghi của chúng ta ảnh hưởng đến chi phí nước biển dâng, tăng cường
hiểu biết về vấn đề này phải là ưu tiên chính.
Bảng 1.3: Chi phí tiềm năng do nước biển dâng dọc bờ biển của Mỹ
Tỷ Đôla theo giá trị năm 1990
Nguồn Đo lường
Ước
tính
hàng
năm
Ước
tính
lũy tích
Ước tính
hàng năm
tại năm
2065
Yohe (1989)
Tài sản chịu
rủi ro ngập lụt
321 1,37
Smith và Tirpak (1989) Bảo vệ 73-111
Titus và cộng sự (1991) Bảo vệ 156

Nordhaus (1991) Bảo vệ 4,9
Fankhauser (1995a) Bảo vệ 1,0 62,6
Yohe và cộng sự (1996) Bảo vệ và từ bỏ 0,16 36,1 0,33
Yohe và Schlesinger (1998)
Mức bảo vệ và
từ bỏ mong
muốn
0,38 0,4
Lưu ý: Tính toán này là cho kịch bản nước biển dâng lên 1m
Nguồn: Dựa theo nghiên cứu của Neumann và cộng sự (2001)
b. Những đánh giá quy mô khu vực và toàn cầu
Những đánh giá khu vực và toàn cầu đưa ra một cơ sở chắc chắn hơn để đánh
giá tác động của nước biển dâng. Nhiều ước tính tác động đã sẵn có đối với ngập lụt ven
biển và mất vùng đất ngập nước được thực hiện trong những đánh giá sơ bộ (Parry và
Livermore, 1999; Arnell và cộng sự, 2002). Nói chung, những nghiên cứu này đã xem
xét một loạt các tác động theo những kịch bản khí hậu và kinh tế xã hội chung. Phân tích
vùng ven biển dựa trên Phân tích tính dễ bị tổn thương toàn cầu của Hoozemans và cộng
sự (1993) và những cập nhật mới nhất của nó (ví dụ: Nicholls, 2002b; Nicholls và cộng
sự, 1999).
15
 Ngập lụt bờ biển
Năm 1990, trên toàn cầu, người ta ước tính rằng có khoảng 200 triệu người
sống trên những đồng bằng ven biển, chiếm khoảng 4% dân số thế giới (Nicholls và các
cộng sự, 1999). Dựa trên những tài liệu này, người ta ước lượng rằng năm 1990 trung
bình 10 triệu người/năm phải chịu nạn lũ lụt ven biển.
Bảng 1.4: Số người sống trong những vùng đồng bằng 1000 năm có nguy cơ lụt
Triệu người
Năm
Kịch bản
nước biển dâng

Số dân sống
trong vùng
nguy hiểm
Số người
chịu lụt
trung bình
hàng năm
Số người
có giải pháp
ứng phó
1990 197 10 0
2020-2029
Không dâng 399 22 0
Dâng thấp 403 23 0
Dâng trung bình 411 24 0
Dâng cao 423 30 5
2050-2059
Không dâng 511 27 0
Dâng thấp 525 28 0
Dâng trung bình 550 64 34
Dâng cao 581 176 149
2080-2089
Không dâng 575 13 0
Dâng thấp 605 17 1
Dâng trung bình 647 133 107
Dâng cao 702 353 332
Nguồn: Dựa theo nghiên cứu của Nicholls (2002b)
Chú ý: Số người hàng năm trung bình được ước tính bị lụt trên một năm
(AAPF) và số người chịu lụt hàng năm hay thường xuyên hơn (PTR) là đối với kịch bản
nước biển dâng IS92a. Những kết quả này giả định nước biển dâng, thay đổi dân sô ven

biển và nâng cao tiêu chuẩn bảo vệ, nhưng các biện pháp thích nghi đối với nước biển
dâng vẫn chưa được cân nhắc. Kịch bản dân số giả định rằng những thay đổi dân số tại
đồng bằng ven biển ngập lụt là gấp đôi xu hướng của quốc gia.
16
Phân tích động lực học xem xét những ảnh hưởng đối kháng nhau giữa mực
nước biển dâng khu vực (do sự sụt lún ở địa phương và những thay đổi toàn cầu), dân số
ven biển (giả định những thay đổi ở ven biển là gấp đôi sự thay đổi dân số quốc gia để
phản ánh sự di cư đến vùng ven biển) và nâng cao tiêu thuẩn phòng hộ tỷ lệ thuận với sự
gia tăng của GDP/người (Nicholls và các cộng sự, 1999; Nicholls, 2002b). Tác động của
nước biển dâng đến mực nước (ví dụ sóng bão) là một phần trong phân tích. Người ta
giả định đặc tính của sóng bão là không thay đổi theo thời gian và mực nước biển dâng
chỉ đơn thuần thay đổi vị trí mực nước dâng cao lên. Các phân tích này được thực hiện
để tìm hiểu liệu rằng nước biển dâng trung bình toàn cầu có là một vấn đề nghiêm trọng.
Vì vậy, tiêu chuẩn bảo vệ tăng lên chỉ quan tâm đến biến đổi khí hậu đang tồn tại (ví dụ
như sóng bão năm 1990) và phân tích xem xét đến một thế giới mà hoàn toàn bỏ qua vấn
đề nước biển dâng trung bỉnh toàn cầu (khu vực). Kết quả bao gồm:
• Số người sống trong vùng nguy hiểm (PHZ) – số dân sống trong khu vực thấp hơn đồng
bằng ven biển 1000 tuổi bị ngập lụt;
• Số người chịu lụt trung bình hàng năm (AAPF)- số người trung bình chịu lũ lụt hàng
năm (việc đo lường rủi ro đã tính đến phòng chống lũ lụt);
• Số người ứng phó (PTR) – Số người chịu lụt hàng năm hoặc thường xuyên hơn (tức là
đối với những người này, lũ lụt là một vấn đề nghiêm trọng vì thế có khả năng họ sẽ sử
dụng các biện pháp ứng phó).
Lưu ý rằng PHZ>AAPF>PTR
Bảng sau ước tính tác động khi không có mực nước biển dâng trung bình toàn
cầu và kịch bản mực nước biển dâng trung bình toàn cầu đến lũ lụt (mức dâng lên trung
bình toàn cầu nằm trong khoảng từ 19 – 80 cm từ 1990 đến những năm 2080) (Warrick
và các cộng sự, 1996). Do đó, bảng 3 đã xem xét được toàn bộ những vấn đề không chắc
chắn của kịch bản toàn cầu, bao gồm sự không chắc chắn của nhạy cảm khí hậu. Kết quả
thể hiện các vấn đề sau:

17
• Ngay cả khi không có nước biển dâng, số người chịu lụt mỗi năm vẫn tăng lên đáng kể
do tăng dân số ven biển cho đến năm 2050, và sau đó giảm bớt cho đến năm 2080 khi
việc tăng tiêu chuẩn bảo vệ do tăng GDP/đầu người trở thành nhân tố quan trọng nhất;
• Những tác động đáng kể của nước biển dâng không rõ ràng cho tới tận những năm 2050;
• Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố không chắc chắn trong những tác động khá nhỏ theo
kịch bản nước biển dâng thấp vào năm 2080; AAPF tăng gấp 10 lần nếu theo kịch bản
nước biển dâng trung bình và AAPF tăng gấp 27 lần đối với kịch bản nước biển dâng
cao vào những năm 2080.
Vì vậy, mực nước biển dâng trung bình toàn cầu là vấn đề đáng được quan tâm.
Giảm nhẹ biến đổi khí hậu là một cách để giải quyết vấn đề. Sử dụng kịch bản nước biển
dâng trong Hình 2 thể hiện không giảm nhẹ phát thải và sự ổn định nồng độ CO
2
tập
trung trong không khí từ 750ppm đến 550 ppm (kịch bản S750 và S550), những thí
nghiệm mô hình trên lần lượt được lặp lại.
18
Bảng 1.5: Số người trung bình hàng năm chịu lụt do sóng bão tại vùng ven biển
Triệu người
Không có
biến đổi khí hậu
Không giảm
nhẹ
S750 S550
1990 10
2020-2029 22 24 23 23
2050-2059 27 50 40 38
2080-2089 13 94 35 18
Nguồn: Arnell và các cộng sự (2002)
Dựa trên kịch bản khí hậu từ mô hình HadCM2 và những giả định tương tự như kết quả

trong bảng 4.
Lưu ý rằng những kết quả này chỉ đại diện cho một mô hình khí hậu và vì thế
một ước lượng độ nhạy cảm khí hậu và sự dâng lên nhiều hơn hay ít hơn của mực nước
biển có thể xảy ra đối với những mô hình khí hậu khác. Kịch bản S750 và S550 giảm số
người chịu lụt, cụ thể là với kịch bản phát thải S550. Tuy nhiên, trong tất cả trường hợp
các tác động gia tăng do nước biển dâng đã được xem xét và nếu mực nước biển tiếp tục
tăng sau năm 2080, đơn giản chúng ta có thể trì hoãn chứ không thể tránh những tác
động do việc không giảm nhẹ biến đổi khí hậu như đã được tính đến trong thế kỷ 21.
Tất cả các vùng có thể nhìn thấy sự gia tăng phạm vi lũ lụt khi so sánh với
đường cơ sở, đi kèm là những tác động ngày càng lớn do nước biển dâng. Trong mọi
trường hợp, những vùng dễ bị tổn thương nhất là những vùng đảo nhỏ thuộc Caribe, Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương (bảng 1.6). Sự gia tăng phạm vi lũ lụt lớn nhất là tại
nam Địa Trung Hải, Tây Phi, Đông Phi, Nam Á và Đông Nam Á – năm vùng này chiếm
khoảng 90% số người bị lụt trong mọi trường hợp vào những năm 2080. Điều này phản
ánh rất nhiều người đang sống tại những vùng động bằng thấp tại nhiều khu vực thuộc
châu Á và dự đoán tốc độ tăng dân số nhanh tại những vùng ven biển châu Phi. Trong
khi đó, tại những nơi thuộc nước phát triển chịu tác động khá nhỏ, nước biển dâng vẫn
19
khiến lượng người chịu lụt tăng lên đáng kể. Những kết quả này chỉ ra rằng nước biển
dâng có thể tác động sâu sắc đến phạm vi lũ lụt – khi tất cả các yếu tố khác là như nhau,
nước biển dâng lên càng cao, nguy cơ chịu lũ lụt càng gia tăng. Bất kỳ sự gia tăng bão
nào cũng làm tăng lũ lụt tại vùng ven biển. Người ta cho rằng bắt đầu lên kế hoạch thích
nghi với biến đổi khí hậu là một việc làm khôn ngoan. Những quốc gia đảo nhỏ cần phải
đặc biển quan tâm vì họ có ít năng lực nhất trong những thích nghi như vậy.
Bảng 1.6: Số người bị lụt trung bình hàng năm do sóng bão ven biển
tại ba vùng đảo
Nghìn người
Không có
biến đổi khí
hậu

Không giảm
nhẹ
S750 S550
Những đảo thuộc vùng biển Caribbe
1990 10
2020-2029 4 15 12 12
2050-2059 3 40 23 19
2080-2089 3 613 129 11
Những quốc đảo tại Ấn Độ Dương
1990 9
2020-2029 4 20 16 15
2050-2059 7 69 49 44
2080-2089 1 509 108 10
Những quốc đảo tại Thái Bình Dương
1990 3
2020-2029 2 5 4 4
2050-2059 1 80 39 29
2080-2089 0 171 44 12
Nguồn: Arnell và các cộng sự (2002)
Lưu ý: Dựa trên kịch bản khí hậu từ mô hình HadCM2 và những giả định tương tự như
trong bảng 4.
 Đất ngập nước ven biển
20
Những vùng đất ngập nước ven biển đã giảm với tốc độ 1%/năm, phần lớn là
do hoạt động trực tiếp hay gián tiếp của con người và nước biển dâng chỉ chịu trách
nhiệm rất nhỏ đối với những mất mát này (Hoozemans và các cộng sự, 1993). Những
tổn thất tại vùng đất ngập nước sẽ nhiều hơn nữa do tốc độ dâng lên của nước biển, hơn
là mức dâng lên, vì chúng có khả năng thích nghi với ngập lụt (Cahoon và các cộng sự,
1999). Giả sử nước biển dâng lên 1m, tổn thất vùng đất ngập nước có thể xấp xỉ 46% giá
trị hiện tại (Nicholls và các cộng sự, 1999). Sử dụng kịch bản nước biển toàn cầu dâng

lên 38cm vào những năm 2080, từ 6% đến 22% đất ngập mặn toàn cầu có thể bị mất do
nước biển dâng. Khi tính thêm vào sự phá hủy do các hoạt động trực tiếp hay gián tiếp
của con người như hiện nay, tác động ròng có thể là mất đến 36% - 70% những vùng đất
ngập nước ven biển quan trọng của thế giới, hay tổng diện tích mất có thể lên tới 210000
km
2
. Chính vì vậy, nước biển dâng là một áp lực thêm vào đáng kể, điều mà làm xấu
thêm tình trạng vốn đã nguy hiểm của những vùng đất ngập nước trên toàn cầu. Những
tổn thất khu vực nghiêm trọng nhất là tại bờ biển Đại Tây Dương tại Bắc và Trung Mỹ,
eo biển Caribbe, vùng biển Địa Trung Hải, biển Baltic và tất cả quần đảo nhỏ. Cũng
đáng để lưu ý rằng đất ngập nước tại nhiều quốc gia phát triển dường như cũng bị đe dọa
bởi nước biển dâng.
Việc ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển có thể làm giảm đáng kể
mất mát vùng đất ngập nước ven biển vì những vùng này nhạy cảm với tốc độ dâng của
nước biển hơn là sự dâng lên. Trong trường hợp này, đến những năm 2080, tổn thất
vùng đất ngập nước sẽ ổn định tại mức bằng hoặc thấp hơn so với những tổn thất khi
không thực hiện các biện pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Vì vậy, giảm nhẹ biến đổi khí
hậu sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc bảo tồn đất ngập nước ven biển toàn cầu. Tuy
nhiên, để công việc bảo tồn được thành công, các nhân tố khác khiến đất ngập nước suy
giảm tại nhiều nơi trên thế giới cũng cần phải được xác định nhanh chóng nhằm đảm
bảo những vùng đất ngập nước sống sót có thể đem lại lợi ích cho các chính sách khí
hậu.
21

×