HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC
=======
TIỂU LUẬN
MƠN: TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ - TRUNG ĐẠI
Học viên
: NGUYỄN HÀ PHƯƠNG
Ngày sinh
: 09/10/1990
Lớp
: Cao học Quản lý BCTT 24.2A
Hà Nội, T1/2019
0
MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có nền văn minh lớn và sớm,
Khoảng từ 1.700 năm đến 1.000 năm trước công nguyên, người Trung Quốc đã
có bốn phát minh lớn: chế tạo ra la bàn, kỹ thuật chế tạo giấy, chế tạo thuốc
súng, phương pháp in chữ.
Thành tựu đạt được của Trung Quốc đã làm rung chuyển cả thế giới đó là con
đường cải cách kinh tế và chính trị vào năm 2007.
Tại sao những năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc lại đạt được một bước tiến dài
trong tiến trình phát triển của nó? Đó chính là kết quả của sự kết hợp những yếu
tố nội sinh cùng những thời cơ khách quan trong đó yếu tố nội sinh đóng vai trị
quyết định. Sức mạnh tiềm tàng từ trong lòng dân tộc Trung Quốc bắt nguồn từ
quá khứ, từ những giá trị ông cha sáng tạo nên thời cổ đại rồi cuối cùng trở thành
sợi dây gắn kết bền chặt con người ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Hãy cứ thử
hình dung xem một đất nước phát triển qua mỗi thời kỳ lịch sử như một con
người lớn lên qua mỗi thời kỳ để trưởng thành và theo đó thời kỳ cổ đại chính là
tuổi ấu thơ của lịch sử. Đất nước Trung Quốc đã có một "tuổi thơ" khơng hề êm
đềm như đất nước Việt Nam mà đầy sóng gió, đầy dấu ấn, ít một dân tộc nào có
được. Nhưng cũng chính từ trong hồn cảnh khắc nghiệt đó, con người Trung
Quốc mới vươn lên khắc phục khó khăn tự làm giàu cho một cuộc sống của
mình bằng những giá trị văn hố, vật chất và tinh thần vơ cùng q báu, đóng
góp vào kho tàng tri thức của thế giới cổ đại. Đó là một nền triết học rực rỡ.
Đồng thời cũng chính từ đó con người có mối dây liên hệ cội nguồn, hình thành
nên ý thức dân tộc, những tư tưởng triết học được thử thách và tôi luyện qua
mỗi biến động lịch sử. Và như một lẽ tự nhiên, những tư tưởng triết học cổ đại
ấy đã ngấm sâu vào con người Trung quốc, tạo nên nền tảng tinh thần hay ít ra
cũng định hình cho lối sống, phong cách, tâm lý của dân tộc Trung Quốc. Một
thời kỳ cổ đại đầy những
biến động lịch sử đã làm nên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong thực
1
tiến và góp phần vào cải tạo hiện thực xã hội Trung quốc ngày nay trên bước
đường hội nhập thế giới.
Tuy có nhiều người cho rằng, con người đang sống ở hiện tại nên chỉ cần
biết tới hiện tại, còn quá khứ đã lùi xa nên chỉ là dĩ vãng. Đặc biệt, trong bối cảnh
tranh chấp biển đảo của Trung Quốc với Việt Nam như hiện nay, nhưng theo tôi,
hiện tại là hiện tại, quá khứ nếu vẫn còn giá trị lớn và nhiều sự ảnh ảnh hưởng
thì chúng ta cũng phải nên tơn trọng. Thực tế, trong q trình phát triển lịch sử,
Việt Nam cũng là một trong những nước ảnh hưởng rất nhiều về văn hóa của
trung Quốc. Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Quốc thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng
sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương – Ngũ hành tuy
còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính
chất duy vật và biện chứng của người Trung Quốc thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến
thế giới quan triết học sau này ở Trung Quốc và một số nước khác trong khu
vực.Vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc cổ là rất cần thiết để góp
phần tìm hiểu lịch sử tư tưởng, văn hóa của dân tộc ta . Chính vì vậy, tôi đã chọn
nghiên cứu đề tài “Tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học Trung
Quốc cổ - trung đại” làm tiểu luận hết môn.
NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại :
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên
kỷ III TCN kéo dài tới tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống
nhất Trung Quốc mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử
ấy, lịch sử Trung Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX
TCN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII TCN đến cuối thế kỷ III TCN.
1.1. Thời kỳ thứ nhất:
Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu. Theo các văn bản cổ, nhà
Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI TCN, đánh dấu sự mở dầu cho chế độ chiếm
hữu nô lệ ở Trung Quốc. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII TCN, người đứng đầu bộ
tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đơ ở đất
Bạc( Hà Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI TCN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên
nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI TCN, Chu Vũ Vương đã
giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai đoạn đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ
ở Trung Quốc lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản
xuất (gồm ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền
quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối
lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí
thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện, nhưng
chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền,
lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị – xã hội với lĩnh vực đạo đức
luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm
có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành của
mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sơng và quy luật sinh trưởng của
cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.2. Thời kỳ thứ hai: thời kỳ Đơng Chu (cịn gọi là thời kỳ Xn Thu
– Chiến quốc).
Thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Sự phát
triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và
kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà
vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã
hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây chính là
điều kiện lịch sử địi hỏi giải thể chế độ nơ lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ
phong kiến; địi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước
phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm,
những trung tâm của những “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra
những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách
gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong q trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành
nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này
là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung
là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo đức của xã hội. Theo Lưu
Hâm (đời Tây Hán), Trung Quốc thời kỳ này có chín trường phái triết học chính
(gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia,
Danh gia, Pháp gia, Nơng gia, Tung hồnh gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du
nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái
triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều
giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Quốc cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn,
chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự
nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Quốc cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo
đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất
của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là ngun nhân dẫn đến sự kém
phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung
Quốc.
Thứ ba, triết học Trung Quốc cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa
tự nhiên và xã hội, phản đối sự “thái quá” hay”bất cập”.
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Quốc cổ,
trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái “Tâm”, coi đó là gốc
rễ của nhận thức.
3. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung
đại
3.1. Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “âm – dương”, “ngũ
hành” đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu – Chiến quốc, những tư
tưởng về Âm dương – Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm
về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm – Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và
phổ biến của vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và
Dương.
“Âm” là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn
(2,4,6…). “Dương” là phạm trù đối lập với “Âm”, phản ánh khái quát những tính
chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khơ, phía trên, phía trái, số lẻ
(1,3,5…). Nhưng hai thế lực Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất
với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm – Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý của sự
thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính tồn
vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng
về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng
biến đổi Âm – Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm – Dương khái qt bằng
vịng trịn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa
(đen trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen
có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho nguyên lý trong
Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm – Dương cịn bao hàm ngun lý: Dương
tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời “Âm thịnh thì Dương
khởi”, “Dương cực thì Âm sinh”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú
của vạn vật, phái Âm – Dương đã đưa ra lơgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi
(Âm – Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương – Thiếu Âm – Thiếu
Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn
– Ly – Khơn – Đồi); Bát qi sinh vạn vật (vơ cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm – Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong
tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái,
một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ,
Thái, Truân…; Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời
đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành”
của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn
vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim –
Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khơ, cay, phía
Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng
trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đơng, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất
đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh
hưởng sinh – khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh
Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc
Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm – Dương và Ngũ hành đã làm cho mỗi
thuyết có sự bổ túc, hồn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn (Càn –
Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khơn – Đồi) đều được quy về Ngũ hành để
biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm – Dương. Chẳng hạn:
Kiền – Đoài thuộc hành Kim; chấn – Tốn thuộc hành Mộc v.v. và Kim cũng
có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
3.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người sáng
lập là Khổng Tử (551 – 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng
khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dịng Nho gia Khổng – Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung,
Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này
hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc. Điều này cho
thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị – đạo đức là những tư tưởng
cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ
yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị – đạo đức là những quan hệ nền
tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua – tôi, cha – con,
chồng – vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị
trí cao nhất, cịn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua – cha – chồng xếp
ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền
của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã
hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là
xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên – dưới, có vua
sáng – tơi hiền, cha từ – con thảo, trong ấm – ngoài êm trên cơ sở địa vị và
thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó
là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến
đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
“đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo
dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong
bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn
mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ
thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Quốc thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con
người. Trong học thuyết Nho gia khơng có sự thống nhất quan điểm về vấn đề
này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ơng, “bản tính con người
vốn là thiện” (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức
tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ
.v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị – đạo đức đến mức coi chúng là
tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dịng Khổng – Mạnh)
đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những
chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người
vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở
thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí….). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người,
Tn Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 – 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử ln có những mâu thuẫn.
Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tơn giáo đương thời, ông thừa nhận
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên ln ln tự vận động,biến hóa khơng phụ
thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn
vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dịng nước
chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử
Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của
ơng. Mặt khác, ơng lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của
con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của
ơng. Ơng nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế
cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được
mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện
tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một
mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ơng lại
nhấn mạnh vai trị quan trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không
đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà
có). Theo ơng, tri thức có hai loại là “thượng trí” (khơng học cũng biết) và “hạ
ngu”(học cũng khơng biết). Nghĩa là ơng đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có
trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa
“trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Cịn khơng
học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ơng là chủ trương “hữu giáo vơ loại” (học
thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý
nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn
cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử
là ở quan niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động
chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị – xã hội là một trong những vấn đề cốt
lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học
thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng…cùng với một hệ thống
quan niệm về chính trị – xã hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”,
“quân tử”, “tiểu nhân”…
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của
mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có
lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hồn cảnh mà ơng giảng giải về
nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình khơng
muốn, đừng đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”…
Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những
phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể
chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hơn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình
pháp…Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của
nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó
lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tơn ty trật tự, kỷ cương. Để
làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc
cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì người nào có địa vị,
bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh,
vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)…Theo
Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh
khơng chính thì lời nói khơng thuận; lời nói khơng thuận thì sự việc khơng thành
cơng; sự việc khơng thành cơng thì lễ nhạc khơng hưng thịnh; lễ nhạc khơng
hưng thịnh thì hình phạt khơng đúng; hình phạt khơng đúng thì dân khơng biết
theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung
Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên
thực tế, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà
Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngơi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp
xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức,
tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ, 2). Việc ông mở
trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức tham
gia vào cơng cuộc cai trị.
Tồn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh… của Khổng Tử là nhằm phục vụ
mục đích chính trị là “Đức trị”. Ơng phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì
làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ khơng phục. Theo ơng, làm chính trị mà
dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao
khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó cịn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp
thống trị Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành
hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai
đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả
là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh
Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đơn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình
Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại
được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của
Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị
của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị
nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia
trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều
trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ
sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương – Ngũ hành, những
quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy,
có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Quốc.
Nho gia cịn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết
hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho
gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự
kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 –
1279).
3.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN). Học thuyết của
ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và
phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo
gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết “Vô vi” về lĩnh vực chính trị – xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của
Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
– “Đạo” là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về
với cội nguồn của Đạo.
– “Đạo” là cái vơ hình, hiện hữu là cái “có”; song Đạo và hiện hữu
không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu
hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn
tại.
– “Đạo” là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là
“đạo pháp tự nhiên”.
Chính trong quan niệm về “Đạo” đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về
những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống
nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về
“Đạo”, trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” (cân
bằng và quay trở lại cái ban đầu).
– Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện
tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” trong biến dịch nên
Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải
quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều
hịa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao
hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị – xã hội với cốt lõi là luận điểm “Vô vi”. Vô vi không phải
là cái thụ động, bất động hay khơng hành động mà có nghĩa là hành động theo
bản tính tự nhiên của “Đạo”.
3.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập
thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây
là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho – Đạo – Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về “Phi thiên
mệnh”. Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu…không phải là do định
mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của
thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên
mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dịng Khổng – Mạnh.
Học thuyết “Tam biểu” của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận
thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi
đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết “Kiêm ái” là một chủ thuyết chính trị – xã hội mang đậm tư tưởng tiểu
nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân
sơ…trong học thuyết “Nhân”. Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau,
không phân biệt thân sơ, đẳng cấp…
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện
nhận thức luận.
3.5. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Quốc cổ đại, chủ trương dùng những
luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của
con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại
tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo
thủ, mê tín tơn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN). Tư tưởng Pháp trị
của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên:
Ơng giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan
mà ơng gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn
tại và không thay đổi. Cịn mỗi sự vật đều có “Lý” của nó. “Lý” là sự biểu hiện
khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái ln ln biến hóa và phát
triển. Từ đó, ơng u cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy
luật khách quan, mà cịn phải thay đổi theo sự biến hóa của “Lý”, chống thái
độ cố chấp và bảo thủ.
Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng khơng thể
có chế độ xã hội nào là khơng thay đổi. Do đó khơng thể có khn mẫu chung
cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính,
mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ
nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu
chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số
và của cải xã hội.
Về thuyết “Tính người”:
Ơng theo quan niệm của Tn Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý
cá nhân vị lợi, ln có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi…Kẻ thống
trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng,
nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết
Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng
phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép “vô vi trị” của Đạo gia. Phép
trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong
đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực
hiện chính sách đó.
+ “Pháp” là một phạm trù của triết học Trung Quốc cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là
quy định, luật lệ có tính chất khn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân
thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì
vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp
cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ “Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ “Thuật” cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua
nhằm lấy danh mà tránh thực.
4. Một số nhận định về triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng
đầu của các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực
tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để
giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những
tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo
mơ hình chế độ qn chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị
chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Quốc thời cổ cịn đóng góp cho lịch sử triết học thế giới những tư
tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ
hành tuy cịn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc
mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Quốc thời cổ, có ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Quốc và một số nước khác
trong khu vực.
KẾT LUẬN
Triết học Trung Quốc cổ - trung đại, mặc dù xuất hiện trong các điều kiện xã hội
còn sơ khai, cịn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ, tự phát những đã
đề cập đến những vấn đề cơ bản của thế giới theo hướng hiện đại, mà chủ yếu đề
cập đến vấn đề nhân sinh quan. Các vấn đề khác triết học Trung Quốc cổ - trung
đại thể hiện không rõ nét. Các trường phái triết học tiêu biểu đại diện cho thời
kỳ này là Nho giáo, Đạo giáo, Âm Dương.
Nghiên cứu về đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ - trung đại không chỉ
giúp ta làm giàu tri thức về sự phát triển của triết học nói chung và triết học
Trung Quốc nói riêng, thấy được sự khác biệt giữa triết học Trung Quốc với triết
học Ân Độ, Hy Lạp cổ đại. Qua đó cũng thấy được những ảnh hưởng, tác động
của triết học cổ - trung đại Trung Quốc đối với tư tưởng Việt Nam.
Nghiên cứu vấn đề này giúp cho chúng ta tiếp tục tiếp thu những tinh hoa tinh
túy của triết học Trung Quốc, tuy nó có những mặt hạn chế nhưng đến nay vẫn
cịn có ý nghĩa giỏ trị to lớn, truyền đạt cho thế hệ kế tiếp trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xó hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-
Khái lược lịch sử triết học – TS Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn
Văn Đại, NXB Chính trị hành chính 2011.
2-
Sử Trung Quốc (tập 1) Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hố, 1997
3-
Giáo trình triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh, PGS,TS Nguyễn Thế Kiệt, Nxb lý luận chính trị 2006
4-
Lịch sử triết học, Bộ giáo dục đào tạo, Nxb giáo dục, Hà Nội,
5-
Lịch sử tiết học, GS,TS Nguyễn Hữu Vui, Nxb chính trị quốc
2001.
gia, Hà Nội, 2001
6-
Hỏi đáp về triết học – Tập thể tác giả , Nhà xuất bản chính trị
Và một số tài liệu khác.