Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.54 KB, 31 trang )






 !"
#$"
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Thầy BÙI VĂN MƯA NGUYỄN HỮU BÌNH
LỚP: CHKT K20 ĐÊM 1
STT: 05 - NHÓM 1
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
%&'()*+

,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,-


2
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
./011
2-3456789:;<=> ?
@-0A6:3679B7>C96DE:;<=> ?
7FG9B2H>;9;I67J%KL>MN>O>P<86 9L6Q:R>S=OE9B
#ET66Q:R> U
1.Khái quát triết học Phương Đông cổ đại 6
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Ấn Độ Cổ 7
3.Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Trung Quốc Cổ 10
7FG9B@HVFG9BW9BB>XMO>P<86 9L6Q:R>S=OE9B#ET66Q:R>2Y
1.Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo đức, con người 14
2.Trong triết học có sự đan xen yếu tố Duy vật và duy tâm không rõ ràng 19
M-O59B<O>P<786 9L6Q:R> 2Z
7FG9BYHV[7\6]>^<B>XMO>P<86 9L6Q:R>S=OE9B#ET66Q:R> @2
1.Bản thể luận 21
2.Nhận thức luận 25
 @Z
O>P<786 9L6Q:R>S=<O>P<786OE9B5M6Q:R>_=7M>9;9<O>P<786_`96aM
b7FG9Bc9B-`>];4=d_I67eJ7=9B9B=99fgh9i:K:j_R>97>;E<F<Fk9B
lEm]\E67597n9_5R>[7c9B67oklEdgcheT_Fp9B6aM6\6<\6b7qg:j_R>hk
eV:M4R9B6aM6\6<OFN9Bb7\>g=6r9keVb759Bb7s<O59B6\67<7j7>^9S=
:t6]>^<_=eVenEOL9BS;9L>4E9Bb7u9\97hBibb7v9Ow<_`9<O59BlE\<Ox97
b7\<<O>j9<F<Fk9BSf97iM[7ESV667nE @Z
0y Y2
3
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
0z/

2- 3456789:;<=>
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học
về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử Triết học đã
trải qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao
như giai đoạn triết học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn nhưng cũng có lúc biến
thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo
bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Sự phát triển của Triết học là sự
phát triển song song giữa hai nền Triết học phương Tây và phương Đông. Do
điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá mà sự phát triển của hai nền
Triết học có sự khác nhau. Nói đến triết học phương Đông phải kể đến Triết học
Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Đây là hai trong số những chiếc
nôi Triết học sớm nhất, lâu đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho
nền lịch sử Triết học. Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại đều
có chung đặc điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên
do đặc điểm kinh tế - chính trị, xã hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng
có những đặc trưng khác nhau. Do đó nhóm 1 chọn đề tài: “Sự tương đồng và
khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để phân
tích sâu hơn về các vấn đề như sự hình thành, phát triển và nét đặc thù cũng như
những điểm tương đồng và khác biệt của hai nền Triết học này.
@- 0A6:3679B7>C96DE:;<=>
Đề tài này đặt ra các mục đích cần nghiên cứu sau:
• Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại
• Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại
Y-Gek_m_E{9S=b7FG9Bb7\b9B7>C96DE:;<=>
Để thực hiện mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nêu trên, đề tài được thực
hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài còn kết hợp và sử dụng một
4
Nguyễn Hữu Bình

Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
số phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui
nạp, lịch sử và lôgic…
?- |9B7}M[75M786S=m9B7}M<7V6<>~96aM:;<=>
Về ý nghĩa khoa học: Sự thành công của đề tài sẽ góp phần làm sáng t~ vào
sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học
Trung Quốc cổ đại. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí luận
và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực công tác chuyên môn của
chính mình.
Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo đối với các sinh viên nói chung cũng như sinh viên
chuyên ngành triết học nói riêng khi nghiên cứu về vấn đề này.
•-P<6wE6aM:;<=>
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
5
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
7FG9B2H>;9;I67J%KL>MN>O>P<86
9L6Q:R>S=OE9B#ET66Q:R>
  
2- 7\>lE\<<O>P<786.7FG9Bc9B6Q:R>
Lịch sử triết học Phương Đông nỗi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai thời
kỳ chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời kỳ cổ
điển (còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến thế kỷ
VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng nội",

đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự
phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn
Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học
này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến
duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ,
Thương, Chu). Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá
trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho gia,
Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng
Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức
của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra
những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã
có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ
quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính
trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa
thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự
6
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những
hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và
biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới
quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà cả những nước
chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
@- >;E[>^9OM:N>hb7\<<O>j9S=9€<:t6<7•6aMO>P<
786 9LQ
M‚ >;E[>^9OM:N>
− Điều kiện tự nhiên
Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á có những yếu

tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao gồm cả nước Pakixtan,
Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng; vừa có sông ấn chảy về phía
Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có
sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức
− Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện và dân cư rất đa dạng. Từ trong
nền văn minh sông Ấn của người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã
xuất hiện, đến thế kỷ XVII trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên sông Ấn…)
đã làm cho nền văn minh này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công nguyên,
các bộ lạc du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định cư
và tiến hành quá trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa
Đraviđa. Kinh tế tiêu biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự
cung, tự cấp, lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng
vững chắc cho các công xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã nông
thôn đã hình thành bốn đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai
dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các đế vương; nhà nước
kết hợp với Tôn giáo thống trị nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao
trùm mọi mặt của đời sống xã hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và
khao khát được giải thoát. Sư phân biệt về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn
giáo, nghề nghiệp,v.v… đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội
7
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước –tôn giáo. Xã hội phát
triển một cách chậm chạp và nặng nề.
− Điều kiện về văn hóa
Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên và
hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều kiến thức về thiên
văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực ở
đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về

đại số, lượng giác, phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất
hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo
mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời văn hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi
sớm xuất hiện; Nghệ thuật tạo hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện
trong các cung điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn
giáo lớn như đạo Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
]‚ \6:t6:>jgO>P<786 9L6Q:R>
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn giáo. Tôn giáo và Triết học
xen kẽ vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu
sắc Tôn giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu
tìm hiểu sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại”
như các tôn giáo phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân
bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh
các vấn đề: Bản nguyên vũ trụ, Con người, linh hồn, đạo đức.
6‚ #E\<Ox977x97<7=97S=b7\<<O>j96aMO>P<786
9L6Q:R>
Người ta phân chia quá trình thành 2 thời kỳ chính
– Thời kỳ thứ nhất:Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các
biểu tượng huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các
tác phẩm chủ yếu là kinh Vêđa và Upanisal
8
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
– Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ
7 TCN đến thế kỷ 6 SCN.
Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn Độ đã phát triển cao. Trong thời
kỳ này, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống,

thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này vừa
mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học đã dẫn đến
việc hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái
triết học thành hai phái chính: Hệ thống chính thống bao gồm 6 trường phái
(Vêdanta, Samkhya, Yoga, Mimansa, Nyaya và Vaisêsika), hệ thống triết học
không chính thống gồm 3 trường phái (Lokayata, Jaina và Phật giáo).
4‚ L>4E9B6G]u9O>P<86 9L6Q:R>
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế
giới quan và Nhân sinh quan.
– Thế giới quan: Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô
thường, nhân duyên.
• c<R5B>uHNghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật
đều có nhân, có quả, không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không
thừa nhận đấng sáng tạo)-
• c9BKH Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu
tạo từ các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội
tụ nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác,
sinh sinh, hóa hóa, tan hợp, hợp tan.
• c<7FN9BH Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là
thường định (ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều
thường xuyên biến đổi theo một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt.
• 7n94EdC9: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự
vật, hiện tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều
kiện. Duyên là điều kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên
mà thành nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới. Cứ như
thế không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
– Nhân sinh quan
9
Nguyễn Hữu Bình

Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự "giải thoát" (Moksa)
kh~i vòng luân hồi, "nghiệp báo" để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn [Nirvana].
Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết "tứ đế"- có nghĩa là bốn chân
lý, cũng có thể gọi là "tứ diệu đế" với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời.
1. Khổ đế [Duhkha - satya]. Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có
tám nỗi khổ (bát khổ): sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán
tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ, ngũ thụ uẩn khổ.
2. Tập đế hay nhân đế (Samudayya - satya). Phật giáo cho rằng cuộc sống
đau khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra
thuyết "thập nhị nhân duyên" - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo
nhau, cuối cùng dẫn đến các đau khổ của con người: 1/ Vô minh, 2/ Hành; 3/
Thức; 4/ Danh sắc; 5/ Lục nhập; 6/ Xúc; 7/ Thụ; 8/ ái; 9/ Thủ; 10/ Hữu; 11/ Sinh;
12/ Lão - Tử. Trong đó "vô minh" là nguyên nhân đầu tiên
3. Diệt đế (Nirodha - satya). Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt
để đạt tới trạng thái Niết bàn.
4. Đạo đế (Marga - satya). Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ. Đó là
con đường "tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính
đạo): 1/ Chính kiến; 2/ Chính tư; 3/ Chính ngữ; 4/ Chính nghiệp; 5/ Chính mệnh;
6/ Chính tinh tiến; 7/ Chính niệm; 8/ Chính định. Tám nguyên tắc trên có thể thâu
tóm vào "Tam học", tức ba điều cần học tập và rèn luyện là Giới - Định - Tuệ.
Y- >;E[>^9OM:N>hb7\<<O>j9S=9€<:t6<7•6aMO>P<
786OE9B#ET6Q
M‚ >;E[>^9OM:N>H
1. Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là
Hán. Cờ có 5 ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi
sao lớn tượng trưng cho dân tộc Hán
2. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương
Tây – Trong lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 

cách mạng tư sản.
Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ
10
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
3. Chiến tranh diễn ra liên miên
Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh.
Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành
đất thì thây chất đầy đồng”.
]‚ \6:t6:>jgO>P<786OE9B#ET66Q:R>
1. Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham
mưu cho các vương triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời –
như Khổng Tử.
2. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là
“Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua
tiếng”
3. Vấn đề cơ bản của triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra
xung quanh các vấn đề: Khởi nguyên vũ trụ, Vấn đề con người, Nhận thức.
4. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy vật,
duy tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
5. Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
6‚ #E\<Ox977x97<7=97S=b7\<<O>j96aMO>P<786
OE9B#ET66Q:R>
Trong hàng trăm học thuyết triết học ra đời trong thời kỳ Bách gia chư tử, có
sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh

gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên vai trò thống trị
Năm 136 Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh
bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò
thống trị lâu dài, Nho gia phải hấp thụ các tư tưởng của các trường phái khác.
Kinh học do Nho làm chủ đã xuất hiện. Sau giai đoạn thống trị của Nho gia đến
11
Nguyễn Hữu Bình
5
Hán nho
3 TCN
Chiến
quốc
8 TCN
Chiếm hữu nô lệ
21 TCN
Chiếm hữu nô lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển
Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử
Xuân
thu
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo, với sự xuất hiện của Huyền học do Đạo làm
chủ. Rồi tiếp theo là sự vươn lên của Phật học do Phật giáo làm chủ (Đường). Sự
phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung Hoa sáng
tạo nên một nền văn hóa huy hoàng, xán lạn trong thời kỳ cực thịnh của xã hội
phong kiến Trung Quốc phải trải qua quá trình phát triển gần một vòng, đến thời
Tống. Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao.… Như vậy, sự phát
triển của triết học Trung Hoa cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm nhập
lẫn nhau của các trường phái.
4‚ L>4E9B6G]u9<O>P<786OE9B#ET66Q:R>

− 86<7EdP<975B>\5
Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ
mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội. Ông coi hoạt động đạo
đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân
cách cá nhân cho con người.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào tạo
cho được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị; Quân tử
= người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu thân. Có ba tiêu
chuẩn chính:
5. Đạt “đạo”: Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn (quân
thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi là ngũ luân (luân
= thứ bậc, cư xử).
6. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí – dũng
thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử b~ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi
là ngũ thường.
7. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi - thư
- lễ - nhạc.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành động cho việc cai trị là 2 phương châm
là Nhân trị và Chính Danh.
12
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
− 86<7EdP<:R5B>M
Đạo gia được Lão tử sáng lập ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm vào
thời Chiến quốc. Đạo gia xem xét đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn
là quy luật của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép
hiểu đạo như nguyên lý thống nhất – vận hành của vạn vật – đạo lý – nguyên lý
đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan,vừa mang tính phổ biến; vì

vậy trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo đạo.
Trong quan niệm về nhân sinh và chính trị – xã hội, Lão Tử đã xây dựng
thuyết vô vi tức là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hội lý
tưởng đối với ông là những nước nh~, dân ít.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều do
đạo sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là
một. Trang Tử đã đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành
chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh
quan khác nhau Cả hai học thuyết của Khổng Tử và Lão Tử đều không được xã
hội đương thời chú ý. Song cả hai đều là những trường phái có ảnh hưởng to lớn
đến đời sống xã hội sau này.
7FG9B@HVFG9BW9BB>XMO>P<86 9L6Q
:R>S=OE9B#ET66Q:R>
  
Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và
Trung Quốc là những Trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất
của nền văn minh ấy. Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại là hai nền
triết học lớn nhất của triết học phương đông. Ra đời trong những điều kiện lịch
sử - xã hội khác nhau với hệ thống triết học rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên
triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại vẫn có những nét tương đồng nhau.
13
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Đó là: (1) nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề về đạo đức và con
người và (2) trong triết học có sự đan xen yếu tố duy tâm và duy vật không rõ
ràng.
2- L>4E9B<O>P<78667adPE7F`9BS;6\6Sw9:;
:R5:D6h6599BFN>
M- O59B<O>P<786 9L6Q:R>

Chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những tư tưởng tôn giáo, triết học Ấn Độ cổ đại
có sự đan xen với tôn giáo, có xu hướng đi sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh
thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người. Triết học Ấn Độ
cổ đại đặt ra nhiều vấn đề, song nó đặc biệt chú ý tới vấn đề con người: phần lớn
các trường phái triết học thường tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và con
đường “giải thoát” Điều này được thể hiện qua một số trường phái như:
− Trong tư tưởng triết học Upanisát
Upanisát cho rằng, trong thế giới, tồn tại brátman (đại ngã) và átman (tiểu
ngã). Trong đó, átman là linh hồn con người, là sự biểu hiện cụ thể, cá biệt của
brátman. Nó là cái nh~ bé nhưng cũng là cái vĩ đại, bất diệt như brátman. Tuy
nhiên, do gắn bó với thể xác và thông qua thể xác mà átman luôn bị lôi cuốn vào
dục vọng; vì vậy nó phải chịu nghiệp báo, luân hồi và phải trải qua số kiếp. để
thoát kh~i nghiệp báo, luân hồi, số kiếp, átman phải toàn tâm, toàn ý tự giác ngộ
bản chất thành thánh nơi chính mình (tu luyện) để được giải thoát quay về với
brátman.
Như vậy, Upanisát đã giải thích bản tính con người và mối quan hệ giữa đời
sống tinh thần của con người với nguồn bất diệt của vũ trụ, từ đó tìm ra con
đường giải thoát con người ra kh~i sự ràng buộc của thế giới sự vật, hiện tượng
hữu hình.
Kinh Upanisát đã nói: “Átman chẳng có thể nhận biết được bởi học vấn, bởi
sức mạnh của trí óc. Átman chẳng thể nhận thức được bằng giác quan. Tự ngã
mở các giác quan ra ngoài, bởt thế người ta chỉ trông ra thế giới bên ngoài mà
không nhìn về bản ngã”. Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:
ƒ Con đường tri thức đòi h~i tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện,
sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
14
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
ƒ Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích
chung, vì cái thiện, vì đại ngã.

ƒ Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó là con
đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao – Átman có thể
hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả thiêng liêng.
Giải thoát là con người không còn bị đau khổ nữa, bởi vì đau khổ là trạng
thái con người bị giới hạn. Ta không còn khao khát, ghét b~, mơ tưởng… con
người ra kh~i thế giới nhị nguyên tương đối, bước vào cảnh giới nhất nguyên
tuyệt đối.
− Trường phái Yoga
Nội dung cơ bản của trường phái Yoga đề cập tới những phương pháp tu
luyện mà người tu hành phải thực hiện, nhằm giải thoát linh hồn kh~i sự tác động
của các giác quan và sự ràng buộc của thể xác, của thế giới vật chất để trở nên
trong sạch, để đạt dược sự hiểu biết siêu phàm, tối cao và vĩnh hằng. Trường phái
này cho rằng: muốn được giải thoát thì phải trải qua tiến trình tu tập. Phải toàn
tâm kiên trì tu luyện đạo đức (karma-yoga) và tu luyện tri thức (jnàna-yoga),
nhằm diệt mọi dục vọng, lo âu, phiền não, rũ b~ hết mọi ràng buộc, lôi kéo bởi
thế giới vật dục biến ảo, vô thường của thế giới trần tục; dày công thiền định
(dhyàna) suy tư chiêm nghiệm nội tâm, “thực nghiệm tâm linh” bằng trực giác;
nhận cho ra chân bản tánh của mình, để đạt chân lý tối thượng hòa nhập vào bản
thể tuyệt đối. Đó chính là sự giải thoát, ý nghĩa tối cao của cuộc sống…
− Trong triết học Phật giáo
Trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, triết học phật giáo được xem là
một trào lưu triết học lớn, có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tinh thần
của các nước phương Đông.
Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh, Phật giáo đặt vấn đề tìm
kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moska) kh~i vòng luân hồi, “nghiệp
báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Đạo Phật cho rằng một
người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì đời sau thiện báo, còn đời này ác
15
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại

thì đời sau ác báo: Thiện giả  Thiện báo; Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con
người trong vòng số kiếp này là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Toàn bộ triết lý nhân sinh của Phật giáo được trình bày trong thuyết Tứ diệu
đế và thập nhị nhân duyên với ý nghĩa là để giải thoát chúng sinh ra kh~i mọi nỗi
khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi.
Tứ diệu đế được Phật giáo coi là 4 chân lý vĩ đại: Khổ đế, tập đế, diệt đế và
đạo đế.
• 7Q:P„*E7[7M…eM<dM†H Theo đức Phật, đời người đầy rẫy những
khổ đau (bể khổ). Sự khổ là rất nhiều, nhà Phật quy vào 8 loại (sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán khổ, sở cầu bất đắc
khổ, thụ ngũ uẩn khổ)
• {b:P7Md97n9:P „MgE4MddM…eM<dM†: Nguyên nhân của sự khổ
thì nhiều, không phải tìm đâu xa, tìm ở chính bản thân mình. Có thấy
được nguyên nhân mới diệt được khổ. Nguyên nhân trực tiếp là do dục
vọng của con người gây ra, vì dục vọng mà dẫn đến tham lam, giận giữ,
ngu muội (Tam độc: tham, sân, si). Để giải thích về nguyên nhân khổ,
Phật giáo nêu ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” – 12 nguyên nhân dẫn
đến khổ: vô minh, duyên hành, duyên thức, danh – sắc, lục nhập, duyên
xúc, duyên thụ, duyên ái, duyên thủ, duyên hữu, duyên sinh, duyên lão
– tử. Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn
quẩn của nỗi khổ đau nhân loại.
• *>^<:PH Phật giáo khẳng định: Cái khổ có thể tiêu diệt được, vòng luân
hồi có thể chấm dứt được, phải làm theo “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra
nguồn cội của nỗi khổ, dứt b~ nó đưa chúng sinh thoát kh~i nghiệp
chướng luân hồi. Lý tưởng của Phật tử là làm sao thoát khổ, có được sự
bù đắp ở thế giới bên kia (mai sau) mà thế giới này không đạt được và
cao nhất là được thoát kh~i vòng luân hồi, nghiệp chướng được lên niết
bàn.
• R5:PH Là con đường phải theo để diệt khổ, mà thực chất là xóa kh~i
vô minh. Con đường đó là tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm nội tâm, thực

nghiệm linh tâm. Phật giáo nêu ra 8 con đường chính (\<67397:R5H
16
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính
tinh tiến, chính niệm, chính định‚
]- O59B<O>P<786OE9B#ET66Q:R>
Trong các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại thì Nho gia chiếm một vị
trí đặc biệt quan trọng. Nó chi phối mọi mặt của đời sống xã hội và ảnh hưởng
sâu rộng vào các nước lân cận trong suốt 2000 năm lịch sử.
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết tư tưởng triết học của Nho gia là
các kinh, các sách viết về xã hội, con người, chính trị- đạo đức là những tư tưởng
cốt lõi của Nho giáo.
Thứ nhất: Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ
nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan
hệ này vào ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất
là quan hệ vua- tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì
vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha-
chồng xếp ở hàng làm chủ. ” Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền
và phụ quyền của Nho gia. Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước
hết là mối quan hệ “tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để
thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Đức trị” chức không phải
“pháp trị”
Thứ hai: Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được
đức nhân, “Lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm
nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không
giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng
lễ để khôi phục lại chính danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm
đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối

với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ
thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như
chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính
trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu”. Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những
17
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo
ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường t~ thái
độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”. Người tàn tặc là một kẻ
thất phu.
Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tưởng “đại đồng”, nền giáo dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo
đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
“Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu đều là
những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề
cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy
định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc
đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ
thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản sắc riêng trong triết lý nhân sinh
của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là
sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang
trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân
đức để giáo hoá con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được
năm điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh
nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì
đủ khiến được người. Người có nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những
điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”.
Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên

“nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú
nhưng chung quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. Là
“mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì
cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con
người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc,
phân biệt được phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với
18
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
“thiên lý”. Nhưng người muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải
có dũng khí nữa. Người nhân có dũng phải là người có thể t~ rõ ý kiến của mình
một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc,
khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân có dũng mới tự chủ được mình,
mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực khó không nao núng
làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời đạo
lý.
Thứ tư: Về vấn đề bản tính con người. Quan điểm của Mạnh Tử cho rằng
“bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con
người từ khi mới sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị
chính trị- đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con
người là thiện nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện
với những chuẩn mực đạo đức sẵn có. Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là
thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người
ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về tính người,
Tuân tử đã chủ trươngđường lối trị nước kết hợp Nho gia với pháp gia.
Đối với Mặc gia thì lại cho rằng:
− Nhân là kiêm ái, tức là yêu thương mọi người, không phân biệt đẳng cấp
thân sơ, trên dưới…yêu người như yêu mình, yêu người ngoài cũng như
yêu người thân.

− Nghĩa là lợi: làm lợi và trừ hại cho người
Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về phân biệt thứ bậc, thân sơ…
trong học thuyết nhân. Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau, không phân
biệt thân sơ, đẳng cấp….
@- O59B<O>P<7866ieV:M9‡ˆ9dPE<T*EdS{<S=
4Ed<ng[7c9BO‰O=9B
M- O59B<O>P<786 9L6Q:R>
Những tư tưởng của phái Samkhuya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính
duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Đây là trường phái triết
học đi sâu vào cặp nhân-quả, từ đó họ đưa ra những luận điểm nhân quả là quá
19
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
trình liên tục. Theo họ, yếu tố tạo nên vạn vật của thế giới với tính cách là
nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) - một dạng
vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được.
Ngược lại, những nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh
hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là
vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa - yếu tố tinh thần mang
tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hóa vào
yếu tố vật chất.
Trường phái Nyaya và Vaisêsika: Đây là hai phái khác nhau nhưng có những
quan điểm triết học tương đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ của mỗi phái. Các
phái Nyaya và Vaisêsika ban đầu có tư tưởng vô thần đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm triết học: Trong quan điểm về bản nguyên của thế giới, hai phái này cho
rằng nguyên tử là bản ngyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế giới và sự kết
hợp của các nguyên tử khác nhau tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên, hay trong
lý luận về nhận thức phái này thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng
nhân thức… Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối, họ lại có thần và cho rằng thần đã dùng
nguyên tử để xây dựng nên thế giới.

Trong triết học phật giáo, ở giai đoạn đầu, học thuyết triết học này chứa đựng
những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng, nó nói lên được tiếng nói phản
kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng
xã hội. Đồng thời, nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con người kh~i những bi
kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác ái. Chính vì thế,
ngay từ đầu học thuyết ấy đã đi sâu vào lòng người, truyền bá một cách nhanh
chóng và rộng rãi không chỉ ở Ấn Độ mà nhiều nước khác. Tuy nhiên, điểm hạn
chế lớn của triết học phật giáo là lý giải con đường giải thoát con người kh~i nỗi
khổ đau của cuộc đời có tính chất duy tâm và ảo tưởng.
M- O59B<O>P<786OE9B#ET66Q:R>
Trong bối cảnh nước Trung Quốc thời Xuân Thu, một xã hội loạn lạc, cha
không ra cha, con không ra con, mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. Chủ trương dùng
“Nhân” để giáo hoá con người, cải biến xã hội từ loạn thành trị của Nho gia đã
20
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho. Nhưng do chưa hiểu rõ
nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền lợi giai cấp quy
định nên phương pháp cải biến con người và xã hội của Khổng Tử chỉ đạt ở mức
cải lương, duy tâm chứ không phải bằng cách mạng hiện thực. Trong triết học
của Khổng Tử các phạm trù “nhân” “lễ”, “trí”, “dũng” có nội dung hết sức
phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm nhập vào nhau vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nó luôn cố gắng giải đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và
đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của ông. Do hạn chế
bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên trong triết học của Khổng Tử luôn
chứa đựng những mâu thuẫn giằng co, đan xen giữa những yếu tố duy vật, vô
thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan
điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng bị giằng xé của ông trước biến chuyển của thời
cuộc.Tính không nhất quán ấy của ông đã là cơ sở để các thế hệ sau khai thác,
xuyên tạc theo khuynh hướng duy tâm, tôn giáo thần bí.

Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là những
quan niệm của ông về tự nhiên về lịch sử xã hội cũng như về luôn lý đạo đức,
nhưng trong học thuyết về chính trị xã hôị với tư tưởng “nhân chính”, “bảo
dân” có ý nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã
hội.
7FG9BYHV[7\6]>^<B>XMO>P<86 9L6Q:R>
S=OE9B#ET66Q:R>
  
Bên cạnh những điểm tương đồng về vấn đề đạo đức; con người; sự đan xen
của yếu tố duy vật và duy tâm trong triết học, thì những quan điểm về bản thể
luận và nhận thức luận lại là điểm khác biệt giữa hai nền triết học lớn nhất
phương Đông này.
2- u9<7j_E{9
M- O59B<O>P<786 9L6Q:R>
Vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ đại cũng được thể hiện khá
21
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
phong phú trong các tư tưởng, trường phái triết học duy tâm lẫn duy vật.
Nổi bật trong các tư tưởng duy tâm về vấn đề tồn tại của thế giới phải kể đến
tư tưởng triết học trong Upanisát. Upanisát cho rằng, tồn tại brátman (đại ngã) là
linh hồn vũ trụ hay thực thể tinh thần tối cao, là căn nguyên của vạn vật. Nó tồn
tại tuyệt đối, vĩnh viễn sản sinh ra mọi cái và cũng là đích cuối cùng của mọi cái.
Sau này, trường phái Vêđanta xuất hiện phát triển tiếp các tư tưởng trong
Upanisát, thừa nhận sự tồn tại của brátman – linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần
tối cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự hình
thành và hủy diệt của mọi cái trong thế giới.
Các tư tưởng duy vật về vấn đề tồn tại thế giới được thể hiện trong khá nhiều
trường phái triết học. Đầu tiên, phải kể đến những tư tưởng của phái Samkhya sơ
kỳ, những tư tưởng này đã bộc lộ tính duy vật và ít nhiều biện chứng về bản

nguyên hiện hữu. Đây là trường phái triết học đi sâu vào luật nhân – quả, họ thừa
nhận tồn tại luật nhân – quả chi phối mọi sự chuyển hóa trong thế giới vật chất.
Theo họ, kết quả đã tiềm ẩn trong nguyên nhân; bởi vậy, nếu vạn vật của thế giới
này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật của thế giới với tính cách là nguyên
nhân cũng phải là vật chất; đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) – một dạng vật
chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được. Ngoài ra, họ cũng thừa nhận
rằng, bất kỳ vật thể nào trong thế giới cũng đều là kết quả của sự thống nhất, hợp
nhất, chuyển hoá, tác động liên hệ của ba yếu tố là sativa (nhẹ nhàng, thuần
khiết), razas (tích cực, năng động), tamas (nặng, ỳ). Khi sự cân bằng của ba yếu
tố này bị phá vỡ thì nó biến hoá không ngừng, phát triển trong không gian và thời
gian, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, do đó, nó chính là nguyên nhân
tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên
Tuy nhiên, những nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh
hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là
vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa - yếu tố tinh thần mang
tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hóa vào
yếu tố vật chất.
Nyaya và Vaisêsika là hai trường phái khác nhau nhưng họ lại có chung quan
22
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
điểm triết học vô thần chống chủ nghĩa duy tâm. Họ cho rằng nguyên tử – những
hạt vật chất bé nh~, không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất
lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức kết hợp – là bản nguyên duy nhất tạo
nên vạn vật trong thế giới. Các nguyên tử này khi kết hợp lại với nhau tạo thành
bốn thực thể vật lý đất, nước, gió và lửa (theo phái Nyaya) hay tạo ra chín thực
thể là đất, nước, gió, lửa, ête, thời gian,không gian, linh hồn và trí tuệ (theo phái
Vaisêsika) và khi kết hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng.
Một trường phái duy vật, vô thần khác thuộc hệ thống không chính thống
cũng có quan điểm tương tự đó là trường phái Lokayata. Theo trường phái này

thì mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều được tạo thành từ bốn yếu tố là đất,
nước, lửa,gió (tứ đại). Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động
trong không gian và cấu thành vạn vật, kể cả con người.Tính đa dạng của vạn vật
là do với những phương thức, tỷ lệ, trật tự khác nhau của những yếu tố bản
nguyên đấy mà thành.
Ngoài ra, phái này còn cho rằng linh hồn (ý thức) chỉ là một thuộc tính của
cơ thể, do thể xác (vật chất) sinh ra. Không có linh hồn bất tử. bản thân linh hồn
hay ý thức cũng do sự liên kết của các nguyên tử vật chất theo cách thức đặc biệt,
vật chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất
mà gạo không có là làm người ta say. Từ đó, phái Lokayata phủ nhận thuyết
“luân hồi” và “nghiệp”, chế giễu “sự giải thoát”. Họ cho con người không phải gì
khác là thân thể có ý thức, khi con người chết thì linh hồn cũng mất.
Jaina – trường phái duy vật thứ hai trong hệ thống không chính thống – đề
cao thuyết về cái tương đối. Theo thuyết này thực thể đầu tiên là bất biến, vô
thủy, vô chung, nhưng vạn vật – các dạng tồn tại cụ thể của nó – thì biến đổi
không ngừng; vì vậy, vạn vật (thế giới) là sự thống nhất của cái bất biến và cái
biến đổi. Thực thể có hai dạng cơ bản là jiva (sống) – bao gồm quỷ, thần, người,
chim, thú, cây, c~…mang lý tính, có linh hồn; và ajiva (không sống) – bao gồm
không gian, thời gian, vận động, vật chất…jiva và ajiva luôn liên kết tác động lẫn
nhau để tạo ra vạn vật.
]- O59B<O>P<786OE9B#ET66Q:R>
23
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Khác với cách hiểu về Thượng đế của một số tôn giáo hay Thượng đế của
triết học duy tâm. Quan điểm về sự tồn tại của thế giới vật chất của người Trung
Hoa thượng cổ cho rằng vũ trụ lúc đầu là cõi hỗn mang, mờ mịt. Trong cái hỗn
mang ấy có cái “lý” gọi là “Thái cực” vô hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt
tiềm ẩn, đối lập liên hệ với nhau là âm và dương. Sự tương tác chuyển hóa giữa
hai thế lực căn bản nhất của vũ trụ, vạn vật trong một thể thống nhất là Thái cực

tạo ra mọi sự biến đổi vô cùng tận, gọi là “đạo” hay “dịch”, đó là đạo biến hóa
của trời đất. Theo đạo, âm dương tạo ra thanh khí và trọng khí. Thanh khí làm
trời, trọng khí làm đất, còn sự điều hòa giữa âm dương, trời đất sẽ sinh ra vạn
vật. Ngay từ trong tiềm ẩn, vạn vật đã bẩm thụ thanh khí và trọng khí. Vật nào
bẩm thụ nhiều thanh khí thì làm thần, vật nào bẩm thụ ít, tùy theo độ đậm nhật
của thanh khí, trọng khí mà làm quỷ, làm người hay làm vật.
Quan niệm trên cho thấy, người Trung Hoa cổ đại đã xếp ngôi thứ trong vũ
trụ là: Trời, thần, thần, quỷ thần, người và vạn vật, và Trời không phải là một
giới siêu nhiên sáng tạo ra vũ trụ mà trời chỉ giữ ngôi cao nhất trong vũ trụ các
thần cũng không phải hoàn toàn hư vô, huyền bí mà chỉ là sự bẩm thụ khí âm
dương mà ra.
Chịu ảnh hưởng từ quan niệm cho rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc và
vận động không ngừng theo “đạo” của nó. Trong quan điểm về thế giới, cả
Khổng Tử và Mặc Tử đều tin có một lực lượng với quyền năng tối cao chi phối
vũ trụ và vạn vật, đó là Trời. Theo Khổng Tử, “đạo trời”, “thiên lý” là lẽ tự
nhiên, lưu hành khắp vũ trụ định phép sống cho vạn vật như một sức mạnh tuyệt
đối: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn vận hành, trăm vật vẫn sinh hóa mãi.
Trời có nói gì đâu” (Luận ngữ, Dương Hóa).
Mặc Tử, mặc dù bác lại học thuyết “Thiên mệnh” đó của Khổng Tử. Nhưng
ông lại đưa ra một thế giới quan mang tính chất tôn giáo, thần bí, coi ý chí của
trời là nguyên tắc tối cao của hành vi con người, đồng thời cho rằng sự biến hóa
của hiện tượng tự nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Trời tạo ra muôn vật,
nuôi dưỡng muôn loài. Trời xoay vần bốn mùa, sinh ra các tiết, tạo ra hoa là c~
24
Nguyễn Hữu Bình
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
cây, động vật và con người. Trời là một đấng thiêng liêng tối cao có ý chí, có
nhân cách và quyền uy như gia trưởng của một nhà, quốc dân một nước.
Trong khi đó, xét về mặt bản thể luận, “đạo” được Lão Tử trình bày theo ba
mặt, đó là thể, tướng và dụng. Mặt thể của “đạo”, theo quan niệm của Lão Tử là

để chỉ nguồn gốc tối sơ nguyên thủy của vũ trụ vạn vật. Nó là cái “tổng nguyên
lý” chi phối sự hình thành và biến hóa của trời đất, là cái cực diệu, cực huyền cho
vạn vật noi theo. Vì thế mà Lão Tử đã viết: “Có vật gì hỗn độn mà nên, sinh ra
trước trời đất, vừa trống không, vừa lặng yên, đứng một mình không thay đổi,
lưu hành khắp mọi nơi mà không m~i, là mẹ của cả thiên hạ”. Tính chất khách
quan, tự nhiên, thuần phác của “đạo” được Lão Tử đưa lên hàng đầu. Nó được
hiểu là nó vốn như thế, mộc mạc, thuần phác, không bị nhào nặn, gọt giũa bởi
con người và nó hoàn toàn độc lập với ý muốn, nguyện vọng của con người.
Lão Tử không đi tìm những thuộc tính chung của vạn vật mà thực chất là đi
tìm những nguyên nhân đầu tiên, sơ tối, uyên nguyên sinh ra vũ trụ, vạn vật để
trả lời cho câu h~i truyền thống của triết học Trung Hoa cổ đại, cái gì là cái đầu
tiên sinh ra vũ trụ, vạn vật? Vì thế mà ông coi “đạo” là mẹ của muôn loài, là chủ
của đất trời.
Như vậy, “đạo” không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình nào, mà nó
là cái tất cả mọi vật từ đó sinh ra và là cái thay đổi tiềm ẩn dưới những thay đổi
của vạn vật. Do đó, “đạo” vừa duy nhất, vừa thiên hình vạn trạng, vừa bất biến,
vừa biến hóa.
@- 7{9<7D6_E{9
M- O59B<O>P<786 9L6Q:R>
Xuất phát từ quan điểm về sự tồn tại linh hồn vũ trụ – là căn nguyên của vạn
vật – Upnisát cho rằng tồn tại hình thức nhận thức cho phép vượt lên trên cái hữu
hình, cảm tính, cái thay đổi để nắm bắt cái vô hình, bất biến, cái thực tại tuyệt
đối, ẩn mình đằng sau cái hữu hình, cảm tính thay đổi; nghĩa là nhận thức được
brátman. Đó là hình thức nhận thức là thượng trí – chiêm nghiệm tâm linh. Ngoài
ra, theo Upnisát, còn tồn tại hình thức nhận thức thứ hai là nhận thức hạ trí – gắn
liền với trực quan cảm tính. Hạ trí là hình thức nhận thức bị giới hạn trong cái
25
Nguyễn Hữu Bình

×