TRIẾT HỌC, SỐ 1 (368), THÁNG 1 - 2022
VỀ CÁC GIAI TÀNG TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
Nguyễn Ngọc Hà’ *
Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email:
Nhận ngày 11 tháng 11 năm 2021. Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2021.
Tóm tắt: ơ các nước có nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhóm xã hội cơ bản là người lao
động, cơng nhân, nơng dân, trí thức, doanh nhân. Các nhóm xã hội này cũng được gọi là các giai
cấp hoặc các tầng lóp, các giai tầng. Đặc điểm của mỗi nhóm xã hội này và tỷ lệ giữa số người
của mỗi nhóm trong tổng số dân cư là khác nhau tùy theo từng nước và từng thời kỳ. Do sự phát
triển của cách mạng công nghiệp và kinh tế thị trường, hiện nay tỷ lệ giữa số người lao động
trên số người không lao động, giữa số người lao động chân tay nói chung và cơng nhân, nơng
dân nói riêng trên số dân cư ít hơn, vai trị của trí thức và doanh nhân đối với sự phát triển xã
hội cao hơn so với cách đây một thế kỷ.
Từ khỏa: Giai cấp, tầng lớp, giai tầng, người lao động, cơng nhân, nơng dân, trí thức, doanh nhân.
Giai tầng là một khái niệm dùng để chỉ
cấp công nhân, giai cấp nơng dân, tầng
một nhóm người nào đó của một xã hội
nào đó. Các tác giả cuốn sách Giảo trình
lớp trí thức, tầng lóp doanh nhân, tầng lớp
chủ nghĩa xã hội khoa học viết: “Cơ cấu
xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp,
tầng lóp xã hội tồn tại khách quan trong
tiểu chủ, tầng lớp thanh niên, phụ nữ,
v.v...”1. Theo đó, người lao động, cơng
nhân, nơng dân, trí thức, doanh nhân, tiểu
một chế độ xã hội nhất định, thơng qua
chủ, thanh niên, phụ nữ và các nhóm xã
hội khác được coi là các giai tầng ở Việt
những mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản
Nam hiện nay. Tuy nhiên, các giai tầng
xuất, về tổ chức quản lý q trình sản
này khơng chỉ có ở Việt Nam hiện nay mà
cịn có ở các nước có nền kinh tế thị
xuất, về địa vị chính trị - xã hội... giữa các
giai cấp và tầng lớp đó”, “các giai cấp,
tầng lớp xã hội và các nhóm xã hội cơ bản
trong cơ cấu xã hội - giai cấp của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình chủ
nghĩa xã hội khoa học (Dùng cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 166-167.
61
VÊ CÁC GIAI TÀNG TRONG XẢ HỘI HIỆN NAY
trường. Trong các nhóm xã hội đó, người
Trái ngược với người lao động là người
lao động, cơng nhân, nơng dân, trí thức,
khơng lao động. Người khơng lao động thì
khơng tạo ra sản phấm vật chất và tinh
doanh nhân là những nhóm xã hội cơ bản.
Tính chất và tỷ lệ của mỗi nhóm xã hội
thần cho xã hội. Người khơng có khả năng
này (sau đây gọi tắt là nhóm) là khác nhau
lao động, như người mất sức lao động,
ở từng nước và từng thời điểm khác nhau.
người tàn tật, đương nhiên là người khơng
lao động. Trên thực tế, khơng chỉ những
Khi tìm hiểu các giai tầng của một nước
hiện nay, chúng ta cần tìm hiểu xem trong
số dân cư của nước đó có bao nhiêu phần
người khơng có khả năng lao động, mà
một số người có khả năng lao động nhưng
trăm là người lao động, cơng nhân, nơng
dân, trí thức, doanh nhân; tính chất và vị
lại không tạo ra bât cứ một sản phâm vật
chất hay tinh thần nào cho xã hội cũng là
trí của các nhóm này hiện nay có khác biệt
như thế nào so với giai đoạn đầu thế kỷ
XX? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần
người không lao động.
Người lao động sống bằng kết quả lao
phải định nghĩa về các khái niệm người
động của mình. Người khơng lao động
sống bằng các nguồn khác nhau, chang
lao động, công nhân, nơng dân, trí thức,
hạn bằng nguồn tiền tích lũy hoặc từ tiền
doanh nhân. Các khái niệm này đã được
định nghĩa trong các từ điển phổ thông2.
trợ giúp của người khác. Sự phân biệt giữa
Bài viết này sẽ giải thích cụ thể hơn về
người lao động và người không lao động
là tương đối. Bởi vì, một người cụ thể tuy
các khái niệm ấy.
lúc này là người lao động nhưng có thể
Người lao động:
Khái niệm người lao động ở đây được
hiểu là người tạo ra các sản phẩm vật chất
và tinh thần cho xã hội. Ví dụ, cơng nhân,
nơng dân, trí thức, doanh nhân, cơng chức,
cán bộ, viên chức, nhà chính trị, nhà quản
lý, nhà lãnh đạo, nhà khoa học, người
nghiên cứu, nghệ sĩ, giáo viên, thầy
thuốc,... là người lao động. Kết quả hoạt
động của người lao động là sản phẩm vật
chất và tinh thần, sản phẩm đó đáp ứng
nhu cầu vật chất và tinh thần chính đáng
của con người. Khi chúng ta làm một việc
hợp pháp và sản phẩm hoạt động của
chúng ta đáp ứng một nhu cầu vật chất và
tinh thần chính đáng của người khác thì
chúng ta được coi là người lao động.
62
lúc khác là người không lao động, hoặc
tuy lúc này là người khơng lao động
nhưng có thể lúc khác là người lao động,
2 “Từ điển tiếng Việt” (do Hoàng Phê chủ biên,
Nxb Đà Nằng, Đà Nang, 1998) viết: “Lao động là
hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra
các loại sàn phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội”
(tr. 525), “công nhân là người lao động chân tay
làm việc ăn lương” (tr.202), “nông dân là người
lao động sống bằng nghề làm ruộng” (tr.717), “Trí
thức là người chun làm việc trí óc và có tri thức
chun mơn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp
của mình” (tr.999). Từ doanh nhân khơng có trong
từ điên này và cũng khơng có trong “Từ điên bách
khoa Việt Nam” (do Hội đồng quốc gia biên soạn
Từ điển bách khoa Việt Nam biện soạn, Hà Nội,
1995). Từ năm 1986, Việt Nam mới có thêm nhóm
doanh nhân; nhóm này khơng có ở miền Bắc giai
đoạn từ năm 1960 đến năm 1986, không có ở miền
Nam giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1986, vì từ
năm 1986 Việt Nam mới chuyên sang cơ chê kinh
tế thị trường.
NGUYỀN NGỌC HÀ
trong quan hệ này là người không lao
được. Thứ hai, một người lao động cụ thể
động, còn trong quan hệ khác lại là người
lao động.
có lúc là người lao động chân tay nhưng
Khái niệm người lao động được phàn
chia thành người lao động chân tay và
người lao động tri óc; người lao động
trong lĩnh vực kinh tế, người lao động
có lúc là người lao động trí óc. Ví dụ, một
người có lúc tham gia trồng lúa, có lúc
tham gia hoạt động chính trị và hoạt động
nghệ thuật. Thứ ba, một số sản phẩm cùa
người lao động vừa có tính chất vật chất,
trong lĩnh vực chính trị, người lao động
vừa có tính chất tinh thần. Ví dụ, sản
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội; người lao
động trong độ tuổi lao động và người lao
phâm của bác sĩ, kiến trúc sư xây dựng
tuy có tính chất tinh thần, nhưng ít nhiều
động ngoài độ tuổi lao động và nhiều loại
đều có tính chất vật chất. Thứ tư, con
khác theo những căn cứ phân chia khác.
người bao giờ cũng phải lao động bằng cả
Cách phân loại người lao động thành
người lao động chân tay và người lao
động trí óc là cách phân loại cơ bản trong
nghiên cứu xã hội. Dấu hiệu phân biệt
người lao động chân tay và người lao
động trí óc là ở chỗ bộ phận cơ the được
sử dụng chủ yêu đê lao động là chân tay
hay là trí óc, sàn phâm trực tiêp làm ra là
vật chất hay là tinh thần. Người sử dụng
trí óc và chân tay, trong đó tùy từng việc
mà lao động bằng trí óc hay lao động bàng
chân tay là chính. Ví dụ, nghệ sĩ, nhà khoa
học, nhà quản lý, thầy giáo chủ yếu lao
động bằng trí óc; cịn thợ xây, thợ may,
người cày, người cấy chủ yếu lao động
bằng chân tay.
Trong xã hội hiện nay, số người lao
động nhiều hơn số người không lao động.
chu yêu chân tay đè lao động và trực tiêp
làm ra sản phẩm vật chất là người lao
Điều này vần giống như hàng ngàn năm
động chân tay. Người sử dụng chủ yếu trí
người khơng lao động so với số người lao
óc để lao động và trực tiếp làm ra sản
động, đặc biệt ở các nước có sự già hóa
dân số, là nhiều hơn; năng suất lao động
và mức sống của con người là cao hơn,
phẩm tinh thần là người lao động trí óc.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa người lao
động chân tay và người lao động trí óc là
tương đối. Bởi vì, thứ nhất, người lao
động trí óc cũng gián tiếp góp phần tạo ra
sán phẩm vật chất. Ví dụ, người dạy học,
nhà khoa học, nghệ sĩ là người lao động trí
óc, các sản phẩm tinh thần của họ cũng
trước. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ giữa số
thời gian mà người lao động dành cho các
hoạt động phi lao động như nghỉ ngơi, vui
chơi, học tập, du lịch là nhiều hơn.
Người lao động chân tay và người lao
động trí óc đều trực tiếp hay gián tiếp tạo
ra sản phâm vật chất, họ đều có vai trị
góp phần to lớn vào việc tạo ra sản phẩm
quan trọng đối với cuộc sống của con
vật chất. Một phát minh của nhà khoa học
người; trong đó, lao động chân tay có vai
trị quan trọng trực tiếp, vì cái ăn, cái mặc,
có thể tạo ra một lượng của cải vật chất
khổng lồ đến mức khơng thể tính tốn
cái ở, cái đi lại, tức là những cái đáp ứng
63
VÈ CÁC GIAI TẦNG TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
những nhu cầu vật chất của con người, do
không phải người lao động nào cũng là
người lao động chân tay trực tiếp làm ra.
cơng nhân. Ví dụ, người quản lý, người
Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ giữa người lao
làm việc văn phòng không phải là người
động chân tay so với người lao động trí óc
ít hon vì nhiều cơng việc lao động chân
lao động chân tay nên không phải là công
nhân. Người lao động chân tay nếu không
tay của con người đã được thay thế bằng
làm việc ăn lương thì cũng khơng phải
máy móc tự động hóa, q trình chuyển
hóa từ của cải tinh thần thành của cải vật
cơng nhân. Ví dụ, người lao động tự do
trong mọi ngành nghề, nông dân cá thê
chất nhanh hon.
tuy là người lao động chân tay nhưng do
Hiện nay người lao động chân tay có
mức sống thấp hon người lao động trí óc;
khơng làm việc ăn lương nên không phải
số lượng người lao động chân tay nhiều
hon so với số lượng người lao động trí óc;
bản tư nhân, không phải người lao động
làm thuê nào cũng là cơng nhân. Ví dụ,
thu nhập của người lao động chân tay ít
người quản lý, người làm việc văn phịng,
hon so với thu nhập của người lao động trí
óc. Vì vậy, nhiều người muốn trở thành
người lao động trí óc tuy là người người
người lao động trí óc chứ khơng muốn trở
người lao động chân tay nên không phải là
thành người lao động chân tay. Tuy nhiên,
hiện nay khoảng cách chênh lệch về mức
công nhân.
Để xác định một người cụ thế nào đó là
sống của người lao động chân tay so với
có phải là cơng nhân hay khơng, chúng ta
người lao động trí óc được thu hẹp hơn, số
phải xem người đó có phải là người lao
người muốn trở thành người lao động trí
động chân tay hay khơng và có làm việc
ăn lương hay khơng. Nếu ai đáp ứng đủ
óc và khơng muốn trở thành người lao
động chân tay ít hon, sự khác biệt giữa
người lao động trí óc và người lao động
thu hẹp hon.
Công nhân:
Khái niệm công nhân ở đây được hiểu
là công nhân. Trong các doanh nghiệp tư
lao động làm th nhưng do khơng phải là
hai tiêu chí này thì người đó là cơng nhân.
Việc xác định một người nào đó có phải là
người làm việc ăn lương hay khơng là
điều dễ dàng vì người làm việc ăn lương
thì phải đóng thuế thu nhập cho nhà nước,
là người lao động chân tay làm việc ăn
lương. Theo cách hiểu này, người lao
các cơ quan thu thuế của nhà nước đều có
động trí óc khơng phải là cơng nhân. Ví
dụ, giáo viên, thầy thuốc, nhà khoa học,
Nhưng việc xác định một người có phải
nghệ sĩ, nhà quản lý là người lao động trí
óc nên khơng phải là cơng nhân. Cơng
danh sách người đóng thuế thu nhập.
người lao động chân tay hay khơng thì
khơng dễ dàng, vì ranh giới giữa lao động
chân tay và lao động trí óc là rất tương
chức tuy làm việc ăn lương nhưng không
phải là lao động chân tay nên không phải
đối. Sự phân biệt giữa người lao động
là công nhân. Trong các doanh nghiệp,
động chân tay làm việc không ăn lương
64
chân tay làm việc ăn lương và người lao
NGUYỀN NGỌC HÀ
cũng là tương đối, vì nhiều người lao động
Ớ các nước có nền kinh tế thị trường
làm việc ăn lương khó xếp vào danh sách
nhìn chung đều có công nhân nhà nước và
người lao động chân tay hoặc vào danh
cơng nhân ngồi nhà nước vì đều có khu
sách người lao động trí óc. Ví dụ, trong
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế
một doanh nghiệp gia đình thì những
người lao động chân tay có thể được coi là
ngoài nhà nước với những tỷ trọng khác
người làm việc ăn lương nếu doanh
nhân nhà nước so với công nhân ngồi nhà
nước có thế là như nhau hoặc chênh lệch
nghiệp hạch tốn, hoặc là người làm việc
khơng ăn lương nếu doanh nghiệp khơng
hạch tốn. Do tính tương đối như trên nên
con số thống kê về số lượng công nhân
của mồi nước chỉ là tương đối3.
Khái niệm cơng nhân có thể được phân
thành nhiều loại theo những căn cứ khác
nhau tùy từng nước. Mức lương của công
nhau tùy từng nước. Tuy nhiên, mức lương
của công nhân, kê cả công nhân nhà nước
và cơng nhân ngồi nhà nước, vẫn thấp hơn
so với mức lương của lao động trí óc. Vì
thế, nhiều người vẫn muốn ưở thành lao
nhau. Căn cứ vào ngành hoạt động, cơng
động trí óc, chứ khơng muốn trở thành
cơng nhân4. Quan hệ giữa cơng nhân ngồi
nhân được chia thành cơng nhân ngành
nhà nước nói riêng và người lao động làm
cơng nghiệp, cơng nhân trong ngành nơng
th nói chung với chủ doanh nghiệp tư bản
nghiệp, công nhân trong ngành thương
nghiệp, công nhân ngành dịch vụ. Một số
tư nhân thường phức tạp hơn so với quan
người sử dụng khái niệm công nhân theo
nghĩa là người tạo ra sản phâm công
nghiệp, chứ không phải là sản phẩm nông
hệ giữa công nhân nhà nước với nhà nước;
bởi vì một số chủ doanh nghiệp tư bản tư
nhân ưa lương cho người lao động thấp hơn
mức mà họ xứng đáng được hưởng.
nghiệp. Khái niệm công nhân ở bài viết
này được dùng để chỉ cả công nhân trong
ngành nông nghiệp, tức là dùng để chỉ cả
những người tạo ra sản phâm nông nghiệp
nếu họ là người lao động chân tay và làm
việc ăn lương. Những người lao động
chân tay trong các nông trường quốc
doanh, những người lao động chân tay
làm thuê trong các trang trại nông nghiệp
tư nhân cũng là cơng nhân vì họ cũng làm
việc ăn lương.
Căn cứ vào loại hình doanh nghiệp nhà
nước hay tư nhân, công nhân được chia
thành công nhân nhà nước và cơng nhân
ngồi nhà nước.
3 Theo một cách thống kê thi tông số lao động làm
công hường lương trong các loại hình doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay có khống 24,5 triệu
người, trong đó cơng nhân chiếm khoang 60%
(chiếm tý lệ khoang 14% số dân và 27% lực lượng
lao động xã hội. Tuy nhiên, con số thống kê này có
tính tương đối.
/>4 Nhìn chung ở hầu hết các nước, cơng nhân là
những người lam lũ, nghèo kho, học vấn thấp so
với trí thức, doanh nhân, vì thế, cơng nhân bị một
số người giàu coi thường. Phê phán thái độ đó, một
nhà thơ viết: “Neu khơng có bác cơng nhân/ Lấy
đâu nhà cửa trú thân đêm này? Áo quan ta mặc ai
may/ Lấy đâu máy móc dựng xây nước nhà”. Bài
thơ này tuy viết cho thiếu nhi nhằm giáo dục lòng
biết ơn đối với cơng nhân, nhưng có hàm ý phê
phán thải độ coi thường công nhân.
65
VỀ CÁC GIAI TẦNG TRONG XÀ HỘI HIỆN NAY
Hiện nay, cuộc đấu tranh của công
nông nghiệp và không làm việc ăn lương.
nhân ngồi nhà nước nói riêng và người
Nơng dân không phải là người làm việc ăn
lao động làm thuê trong doanh nghiệp tư
bản tư nhân nói chung nhằm chống lại
lương vì họ là người lao động cá thê chứ
giới chủ tuy vẫn tồn tại dưới các hình thức
và quy mơ khác nhau, nhưng mục đích
đấu tranh của họ khơng phai là địi xóa bo
chế độ tư hữu. Nhiều Đảng Cộng sản và
cơng nhân trong cương lĩnh của mình
cũng khơng đặt ra mục đích xóa bỏ chế độ
khơng phải là người lao động làm thuê
trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân
nơng nghiệp. Nơng dân là người có quyền
sở hữu ruộng đất hoặc có quyền sừ dụng
ruộng đất ở mức độ nhỏ. Họ tự làm cho
mình. Đây là đặc điểm khác biệt của nông
dân so với công nhân nông nghiệp.
tư hữu. Hiến pháp của các nước có nền
Cơng cụ lao động của nông dân trước
kinh tế thị trường đều thừa nhận quyền tư
đây là cơng cụ thủ cơng, cịn ngày nay là
công cụ bằng máy. Người làm nông
nghiệp dù sử dụng công cụ bàng máy
hữu về tư liệu sản xuất và quyền tự do
kinh doanh cùa công dân. Các đảng cộng
sàn và cơng nhân ở các nước có nền kinh
nhưng khơng làm việc ăn lương thì cũng
tế thị trường cơ bản thừa nhận tính hợp lý
khơng phải là cơng nhân. Người lao động
của các quyền này và do đó đều thừa nhận
chân tay trong lĩnh vực nông nghiệp và
và họ cũng hoạt động trong khuôn khô
hiến pháp và pháp luật.
làm việc ăn lương là công nhân nông
So với thế kỷ trước, hiện nay cách
nghiệp, chứ không phải là nông dân. Ví
mạng khoa học - cơng nghệ phát triển
dụ, người làm ruộng trong các nơng
trường quốc doanh vì làm việc ăn lương
hơn, vì thế người lao động được trang bị
nên là công nhân, chứ không phải là nông
công cụ lao động hiện đại hơn. Điều này
dân, người lao động chân tay trong các
dẫn đến kết quả là, mức độ nặng nhọc của
doanh nghiệp tư bản tư nhân nông nghiệp
công nhân được giàm bớt, thu nhập của
công nhân được nâng cao hơn; số lượng
vì làm việc ăn lương nên là cơng nhân,
chứ không phải là nông dân.
So với thế kỷ trước, hiện nay nơng dân
cơng nhân ít hơn; số cơng nhân “cổ trắng”
và công nhân trung lưu nhiều hơn; mức độ
gay gắt của cuộc đấu tranh cua công nhân
được trang bị công cụ lao động hiện đại
nhiều hơn, tỳ lệ công nhân nơng nghiệp so
ngồi nhà nước chống lại giới chủ để địi
với nơng dân nhiều hơn, tỷ lệ nơng dân so
tăng lương và giảm giờ làm ngày càng
giảm hơn; quan hệ hợp tác và đoàn kết
với những người lao động khác ít hơn,
giữa cơng nhân ngồi nhà nước với giới
mức độ nặng nhọc của nơng dân ít hơn,
mức sống của nơng dần cao hơn.
chủ được tăng cường hơn.
Nông dân:
Khái niệm nông dân ở đây được hiểu là
Mặc dù ngày nay nông dân được trang
bị công cụ lao động hiện đại nhiều hơn,
nhưng nhìn chung ở hầu hết các nước,
người lao động chân tay trong lĩnh vực
phương thức lao động của nông dân vần
66
NGUYÊN NGỌC HÀ
lạc hậu hơn so với phương thức lao động
cao cấp trong các đảng chính trị và các cố
của cơng nhân, trình độ văn hóa và khoa
học cơng nghệ của nông dân vẫn thấp hơn
vấn của họ là những trí thức.
so với cơng nhân. Vì thế, đại biểu cho
thức so với phần dân cư còn lại tàng hơn
phương thức sản xuất tiến bộ vẫn là cơng
vì sự phát triên của giáo dục và đào tạo.
Người có trình độ học vấn tương đương
nhân, chứ không phải là nông dân.
So với thế kỷ trước, hiện nay tỷ lệ trí
Trí thức:
bậc đại học dù có bằng hay khơng có
Khái niệm trí thức ở đây được hiêu là
băng đại học nếu lao động trí óc thì được
người lao động trí óc có trình độ chun
coi là trí thức. Tỷ lệ người có bằng đại
học ngày nay trên thế giới tăng hơn nhiều
môn cao. Trí thức làm việc trong mọi
ngành nghề cúa xã hội, cả trong khu vực
so với cách đây một thế kỷ. Vì thế, hiện
nhà nước và khu vực ngồi nhà nước. Các
lĩnh vực thu hút nhiều trí thức là chính trị,
nay tỷ lệ trí thức so với phần dân cư cịn
văn hóa, khoa học, giáo dục. Với tư cách
Trong nền kinh tế tri thức thì trí thức là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nếu
là người lao động trí óc có trình độ chun
mơn cao, trí thức là người có học vấn ở
lại nhiều hơn.
khơng có sản phẩm sáng tạo của trí thức
trình độ cao. Người có học vấn ở trình độ
cao, kể cả người có bằng và khơng có
thì sẽ khơng có nền kinh tế tri thức. Để có
bằng, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số
người lao động trí óc và càng chiếm một
tỷ lệ nhỏ hơn so với số người lao động
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp tư bản tư nhân, đều hết sức trọng
dụng trí thức và đầu tư nhiều tài chính cho
chân tay. Bởi vì, chi phí để đào tạo một trí
nghiên cứu khoa học và cơng nghệ. Vì
thức lớn gấp nhiều lần so với chi phí đào
vậy, vai trị của trí thức trong lĩnh vực
kinh tế nói riêng và trong các lĩnh vực
tạo một người lao động bình thường, hơn
nữa thường chỉ những người có tư chất trí
tuệ bẩm sinh trên mức trung bình thì mới
được chọn để đi học ờ trình độ cao.
sản phẩm mang tính cạnh tranh cao, các
khác của xã hội nói chung cũng cao hơn.
Doanh nhân:
Hiện nay, các từ điển chưa có định
Trong quan hệ giữa trí thức với nông
nghĩa về doanh nhân. Tuy nhiên, chúng ta
dân và công nhân, trí thức thường có mức
sống cao hơn, khơng bị hoặc ít bị thiệt
có thể hiểu doanh nhân là người quản lý
doanh nghiệp tư bản tư nhân. Khái niệm
thòi hơn. Trí thức vì có trình độ chun
doanh nhân khác với khái niệm nhà tư
môn cao nên bao giờ cũng là người “vạch
đường chỉ lối” cho phần dân cư còn lại.
bàn. Nhà tư bản là người chủ của doanh
nghiệp tư bản tư nhân. Một trẻ em vẫn có
thể là chủ sở hữu một doanh nghiệp, điều
Ngay trong các cuộc cách mạng chính trị,
trí thức tuy khơng phải là lực lượng chủ
đạo và tiên phong, nhưng thường cũng là
bộ phận đầu não, vì những người lãnh đạo
này được ghi rõ trong văn bản pháp luật ờ
chứng nhận quyền sở hữu. Tuy nhiên, trẻ
em thì khơng thể tham gia quản lý; do đó,
67
VỀ CÁC GIAI TẦNG TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
trẻ em không phải là doanh nhân. Neu một
Doanh nhân là người thuê lao động và
người cụ thê nào đó là người chủ sở hữu
cơng nhân ngồi nhà nước là người lao
của một doanh nghiệp tư bản tư nhân mà
không tham gia quản lý doanh nghiệp ấy
động làm thuê. Quan hệ giữa doanh nhân
thì người ấy khơng phải là doanh nhân.
Nếu một người cụ thề nào đó là người chủ
doanh nghiệp tư bản tư nhân, một mặt, là
quan hệ hợp tác, đoàn kết vì hai bên đều
sờ hữu của một doanh nghiệp tư bản tư
nhân và tham gia quản lý doanh nghiệp ấy
cần nhau; mặt khác, là quan hệ mâu thuần,
vì nếu lợi ích của bên này được nhiều hơn
thì người ấy mới là doanh nhân. Doanh
thì lợi ích của bên kia sẽ ít đi. Tùy từng
nhân là người lao động quản lý thậm chí
nước, từng lúc, từng doanh nghiệp mà mặt
này hay mặt kia là chù yếu.
là người lao động quán lý với cường độ
cao. Trên thực tế, hầu hết người chủ sở
và người lao động làm thuê trong các
ơ nước nào và thời kỳ nào thì trong số
hữu của doanh nghiệp tư bản tư nhân là
doanh nhân cũng có một số người chân
doanh nhân. Ví dụ, Bill Gate, Phạm Nhật
chính và một số người khơng chân chính.
Vượng vừa là tỷ phú vừa là doanh nhân.
Một số người hiện nay vẫn có tâm lý kỳ
Khái niệm doanh nhân khác với khái
niệm người quản lý của doanh nghiệp nhà
nước. Ở các nước có nền kinh tế thị trường
thị với doanh nhân. Họ coi mọi doanh
nhân đều là người bóc lột. Tâm lý này
khơng có lợi cho sự phát triên của kinh tế
đều có các doanh nghiệp tư bản tư nhân và
tư bản tư nhân. Ở nước nào cũng có một
doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, người
số người có tâm lý ấy. Ớ Việt Nam từ
quản lý của doanh nghiệp nhà nước thì
khơng được gọi là doanh nhân5.
năm 1986 đến nay, Nhà nước khuyến
Doanh nghiệp tư nhân có nhiều loại
hình tùy theo ngành nghề và sản phẩm kinh
hướng xã hội chủ nghĩa, “trải thảm đỏ”
cho các nhà đầu tư; và, mức lương của
doanh. Có doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất; có doanh nghiệp hoạt
công nhân trong các doanh nghiệp tư bản
tư nhân nhìn chung cao hơn so với mức
động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ;
lương của công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước với cường độ và chất
có doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất các sản phẩm cơng nghiệp; có
khích phát triến kinh tế thị trường định
lượng lao động như nhau. Vì thế, tâm lý
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất các sản phẩm nông nghiệp. Từ đó, có
kỳ thị với doanh nhân về đạo đức ngày
nhiều loại doanh nhân theo các ngành nghề
trường trước năm 1986.
càng ít đi so với giai đoạn kinh tế phí thị
và sản phẩm kinh doanh.
Doanh nhân là người lao động quán lý
doanh nghiệp tư bản tư nhân. Vỉ thể, quan
hệ giữa doanh nhân và cơng nhân ngồi
nhà nước là quan hệ không tách rời.
68
Một số người sừ dụng từ “doanh nhân” không
những đê chi người quản lý doanh nghiệp tư nhân
mà cịn đề chì người quản lý doanh nghiệp nhà
nước. Ở đây từ “doanh nhân” được sử dụng không
theo nghĩa như vậy.
NGUYỄN NGỌC HÀ
Trong nền kinh tế thị trường, doanh
đạo đức nghề nghiệp, quy mơ sở hữu; vì
nhân có vai trị quan trọng vì họ là người
thế, số lượng doanh nhân nhiều hơn, vai
lao động quản lý doanh nghiệp tư bản tư
trị của doanh nhân trong lĩnh vực kinh
tế nói riêng và trong các lĩnh vực khác
nhân. Doanh nghiệp tư bản tư nhân càng
phát triển, tỷ trọng giá trị sản phẩm do
doanh nghiệp tư bản tư nhân làm ra
trong tổng sản phẩm xã hội càng nhiều,
thì vai trị của doanh nhân càng quan
trọng hơn.
của xã hội nói chung cũng cao hơn. Mức
độ quan tâm của doanh nhân đến chất
lượng và giá thành sản phẩm, môi
trường làm việc của người lao động làm
th tốt hơn, từ đó, quan hệ đồn kết và
Mục đích hoạt động của doanh nhân là
tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần
hợp tác giữa doanh nhân với người lao
cho xã hội, tạo việc làm cho người lao
động, đem lại thu nhập cho mình, cho
nói riêng được tăng cường hơn, mơi
trường chính trị hịa bình hơn, kinh tế
người lao động và cho xã hội. Mặc dù ở
nước nào cũng có một số doanh nhân làm
phát triển nhanh hơn.
Tóm lại, ờ các nước có nền kinh tế thị
ăn phi pháp, nhưng đó chỉ là số nhỏ và
trường hiện nay đều có người lao động,
theo quy luật chung thì những doanh
cơng nhân, nơng dân, trí thức, doanh
nhân; họ là các giai cấp và tầng lóp cơ
nhân làm ăn phi pháp sớm muộn cũng sẽ
động làm thuê nói chung với công nhân
bị phá sản.
Xét trên lý thuyết, ở các nước có nền
bàn. Cơng nhân là người lao động chân
kinh tế thị trường phát triển, doanh nhân
lao động chân tay trong nông nghiệp và
là tầng lớp đi đầu trong hoạt động kinh tế.
khơng làm việc ăn lương; trí thức là người
Vì vậy, ở các nước đó, doanh nhân là một
tầng lớp được xã hội tơn vinh. Ví dụ, ở
lao động trí óc ở trình độ cao; doanh nhân
Việt Nam thời kỳ xóa bỏ chế độ tư hữu,
doanh nhân bị coi là tầng lóp bóc lột và
tay làm việc ăn lương; nơng nhân là người
là người chủ và người quản lý doanh
nghiệp tư bản tư nhân. Do sự phát triển
của cách mạng công nghiệp và kinh tế thị
trường nên các giai tầng trong xã hội hiện
nay có sự khác biệt đáng kể so với thế kỷ
cần phải bị xóa bỏ; cịn hiện nay doanh
nhân được coi là một tầng lóp đi đầu trong
cơ chế thị trường, và ngày 13 tháng 10
trước. Cách mạng công nghiệp và kinh tế
hàng năm được lấy làm ngày “Doanh
thị trường càng phát triển thì tỷ lệ người
nhân Việt Nam” để tôn vinh doanh nhân
lao động so với người không lao động, tỷ
Việt Nam.
So với thế kỷ trước, hiện nay quy mô
lệ của người lao động chân tay nói chung,
của nền kinh tế lớn hơn nhiều, các quy
tắc điều chỉnh kinh tế thị trường hoàn
thiện hơn rất nhiều; chất lượng doanh
nhân tiến bộ hơn về trình độ quản lý,
của cơng nhân và nơng dân nói riêng so
với dân cư sẽ ngày càng giảm đi; đồng
thời, vai trò của trí thức và doanh nhân đối
với sự phát triển xã hội sẽ ngày càng
tăng lên. □
69