Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.71 KB, 52 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài
Trong thời đại ngày nay hội nhập kinh tế quốc là một yếu tố không thể
thiếu. Một trong những cơ sở quan trọng của việc hình thành và phát triển các
quan hệ kinh tế quốc tế là hợp tác, phân công lao động quốc tế. Mỗi quốc gia
đều có lợi thế riêng về vị trí địa lý, về vốn, lao động, công nghệ, ngoài ra
những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội cũng rất khác biệt. Cho nên họ chỉ
thuận lợi để phát triển một số ngành kinh tế nhất định. Do đó chỉ nên chuyên
môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu những hàng
hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. Như vậy nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ là yếu tố không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của một
quốc gia. Tuy nhiên nhập khẩu mặt hàng gì, khối lượng bao nhiêu lại không
phải vấn đề đơn giản. Để xác định được cơ cấu hàng nhập khẩu phù hợp đòi
hỏi việc nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn các học thuyết kinh tế liên
quan vào thực tiễn nền kinh tế của mỗi quốc gia . Đối với Việt Nam, mục tiêu
đặt ra là thực hiện thành công quá trình CNH- HĐH đất nước, phấn đấu đến
năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Do đó việc xác
định cơ cấu nhập khẩu hợp lí là sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và
định hướng phát triển đất nước là một yêu cầu tất yếu.
Chính vì những lí do kể trên, chúng em quyết định nghiên cứu đề tài:
“Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt
Nam”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: lý thuyết H- O và việc vận dụng vào thực
tiễn các mặt hàng NK của Việt Nam.
• Phạm vi nghiên cứu: Việc vận dụng lý thuyết H- O vào các mặt
hàng XK cuả Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích lý thuyết H-O và thực
trạng các mặt hàng NK của Việt Nam trong thời gian, rút ra các
nhận xét, đánh giá về việc vận dụng lý thuyết H-O trong thực tiễn


của Việt Nam, từ đó đưa ra định hướng cho hoạt động NK của Việt
Nam.
• Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nội dung lý thuyết H- O
- Xem xét thực trạng hoạt động NK hàng hóa của Việt Nam trong
thời gian vừa qua
- Đưa ra các kiến nghị, biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động NK của Việt Nam trong thời gian sắp tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ của mình
nhóm chúng em có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
• Phương pháp biện chứng
• Phương pháp phân tích
• Phương pháp thống kê toán
• Phương pháp chuyên gia, điều tra khảo nghiệm tổng kết thực tiễn
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu theo 3 chương
chính:
Chương I: Tổng quan về lí thuyết H-O
Chương II: Thực trạng nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời gian qua
(giai đoạn từ 2000 đến nay)
2
Chương III: Vận dụng lí thuyết H-O vào xác định cơ cấu hàng nhập
khẩu của Việt Nam
6. Đóng góp của đề tài
Với ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu cho thấy cái nhìn toàn diện
về thực trạng cũng như việc áp dụng lý thuyết H- O vào thực tiễn hoạt động
NK của Việt Nam thời gian vừa qua. Đồng thời bài nghiên cứu cũng nêu ra
định hướng phát triển cho chính hoạt động này thời gian tới. Bài nghiên cứu
là nguồn tham khảo cho những người lập kế hoạch vĩ mô và những người

muốn tìm hiểu các vấn đề liên quan tới lý thuyết H-O cũng như hoạt động NK
của Việt Nam thời gian vừa qua.
7. Hướng phát triển của đề tài
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài còn tạo tiền đề cho những nghiên cứu
chuyên sâu hơn về xác định cơ cấu NK hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động
XNK, các vấn đề cơ chế, chính sách NK tại Việt Nam..

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT H –O
1.1 Cơ sở hình thành lý thuyết H- O
Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là
một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và
phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt
3
hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Eli Heckscher
và Bertil Ohlin của Thụy Điển là hai người đầu tiên xây dựng mô hình này,
nên mô hình mang tên họ, dù sau này có nhiều người khác tham gia phát triển
mô hình. Mô hình dựa vào lý luận về lợi thế so sánh của David Ricardo.
1.1.1 Lí thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricacrdo
David Ricardo (1772-1823) là nhà duy vật, nhà kinh tế học người Anh,
ông được C. Mác đánh giá là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị
tư sản cổ điển”. Năm 1817 Ricardo xuất bản cuốn “Những nguyên tắc kinh tế
chính trị và thuế”. Trong tác phẩm này ông đã trình bày lí thuyết về lợi thế so
sánh và coi đó là cơ sở để các quốc gia giao thương với nhau. Qui luật lợi thế
so sánh là một trong những qui luật quan trọng của kinh tế học nói chung và
của kinh tế quốc tế nói riêng. Qui luật này được áp dụng rất nhiều trong thực
tiễn và cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Để xây dựng qui luật lợi thế so sánh, Ricardo đã đưa ra một số giả thiết
làm đơn giản hoá mô hình trao đổi mậu dịch, các giả thiết đó là:
• Thế giới chỉ có 2 quốc gia và chỉ sản xuất 2 loại sản phẩm.

• Mậu dịch tự do.
• Lao động có thể di chuyển tự do chỉ trong một quốc gia nhưng
không có khả năng di chuyển giữa các quốc gia.
• Chi phí sản xuất là cố định.
• Không có chi phí vận chuyển.
• Chi phí sản xuất được đồng nhất với tiền lương.
Tư tưởng chính của David Ricardo về mậu dịch quốc tế là:
• Mọi quốc gia luôn có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế. Bởi vì phát triển ngoại thương cho
phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước: chỉ chuyên môn
4
hoá vào sản xuất một số mặt hàng nhất định và xuất khẩu hàng hoá
của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác.
• Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn các nước khác hoặc
bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản
phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia và phân công lao
động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh
nhất định về một số mặt hàng và một số kém thế so sánh nhất định
về các mặt hàng khác.
Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau đây của Ricardo, ông đã chứng minh
mọi nước đều có lợi thông qua phân công lao động và thương mại quốc tế, và
lời kêu gọi sự tự do mậu dịch quốc tế, phá bỏ mọi trở ngại cho quá trình này.
Bảng 1.1 Lợi thế so sánh của Mỹ và châu Âu trong sản xuất lương
thực và quần áo
Qua bảng 1.1 ta thấy: ở Mỹ sản xuất 1 đơn vị lương thực hết 1 giờ lao
động và sản xuất 1 đơn vị quần áo hết 2 giờ lao động. Còn ở Châu Âu sản
xuất 1 đơn vị quần áo hết 4 giờ lao động.
Nếu căn cứ vào học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì quá
trình phân công lao động quốc tế sẽ không diễn ra và sẽ không có trao đổi
quốc tế bời vì Mỹ có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn so với Châu Âu, cho nên

sản xuất quần áo và lương thực đều với chi phí thấp hơn Châu Âu.
5
Quốc gia
Sản phẩm
Mỹ Châu Âu
Lương thực (kg/giờ)
1 0,1875
Quần áo (bộ/giờ)
0,5 0,25
Nhưng theo Ricardo cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi thế nếu 2 nước thực
hiện phân công lao động và trao đổi buôn bán với nhau: Mỹ chuyên vào sản
xuất lương thực và Châu Âu chuyên vào sản xuất quần áo. Sự chuyên môn
hoá này dựa vào lợi thế so sánh của mỗi nước:
Theo nguyên tắc trao đổi nguyên giá thì:
Ở Mỹ : 1 lương thực = 0,5 quần áo
1 quần áo = 2 lương thực
Còn ở Châu Âu: 1 lương thực = ¾ quần áo
1 quần áo = 1,33 lương thực
Qua tỷ lệ trao đổi này ở 2 khu vực ta thấy: ở Mỹ có giá lương thực
tương đối rẻ hơn so với giá quần áo và giá quần áo tương đối đắt hơn so với
gía lương thực. Còn ngược lại ở Châu Âu giá lương thực tương đối đắt hơn so
giá quần áo. Gỉa định xoá bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch, thực hiện sự tự do
thương mại và chi phí vận tải không đáng kể thì khi thương mại diễn ra: Mỹ
chuyên môn hoá vào sản xuất lương thực và mang một phần lương thực sang
Châu Âu , nơi đó có giá lương thực tương đối cao hơn và giá quần áo tương
đối rẻ hơn ở Mỹ. Và Châu Âu thì ngược lại. Như vậy cả 2 khu vực đều có lợi
thông qua thương mại.
Ngoài ra sau khi có thương mại , một giờ công lao động của công nhân
Mỹ mua được nhiều quần áo nhập khẩu hơn và công nhân Châu Âu mua được
nhiều lương thực nhập khẩu hơn.

Theo qui luật này, ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối để
sản xuẩt cả hai loại sản phẩm vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia
khác được coi là có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai loại sản phẩm. Trong
điều kiện đó, quốc qia thứ hai lại càng có lợi hơn so với khi họ không giao
thương. Trong trường hợp này, nếu một quốc gia bất lợi hoàn toàn trong sản
xuất tất cả các sản phẩm thì họ vẫn có thể chuyên môn hóa sản xuất và xuất
khẩu sản phẩm bất lợi là nhỏ nhất thì họ vẫn có lợi. Còn quốc gia có lợi hoàn
toàn trong sản xuất tất cả các sản phẩm sẽ tập trung chuyên môn hóa trong
việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có lợi là lớn nhất thì họ vẫn luôn có lợi.
6
Tóm lại phát triển thương mại quốc tế có lợi cho tất cả các nước tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế
1.1.2 Những hạn chế trong của lí thuyết của D. Ricacrdo dẫn tới sự
hình thành của lí thuyết H-O
Qui luật lợi thế so sánh được xem là một trong những lí thuyết kinh tế
quốc tế quan trọng. Tuy nhiên lí thuyết của Ricardo vẫn còn những hạn chế
cơ bản như sau:
• Các phân tích của Ricardo không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu
dùng của mỗi nước, cho nên dựa vào lí thuyết của ông người ta
không thể xác định giá tương đối mà các nước dùng trao đổi sản
phẩm.
• Các phân tích của Ricardo không đề cập tới chi phí vận tải, bảo
hiểm hàng hoá và hàng raò bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên.
Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương mại
quốc tế.
• Lý thuyết của Ricardo không giải thích được nguồn gốc phát sinh
thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên
không giải thích triệt để được nguyên nhân sâu xa của quá trình
thương mại quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế của Ricardo, E. Hecksher (1949) và

B.Ohlin trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế” xuất bản năm
1933 đã cố gắng giải thích nguyên nhân làm nên lợi thế so sánh trong quan hệ
thương mại quốc tế.
1.2 Nội dung lí thuyết H- O
1.2.1 Các giả thiết của Heckescher - Ohlin
Mô hình ban đầu do Heckscher và Ohlin xây dựng chưa phải là mô
hình toán, chỉ giới hạn với hai quốc gia, hai loại hàng hóa có thể đem trao đổi
7
quốc tế và hai loại yếu tố sản xuất (đây là hai biến nội sinh). Vì thế mô hình
ban đầu còn được gọi là Mô hình 2 x 2 x 2.
Về sau, mô hình được Paul Samuelson là người đầu tiên áp dụng toán
học vào, nên có khi được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-Samuelson hay
Mô hình H-O-S. Jaroslav Vanek mở rộng để áp dụng cho nhiều quốc gia và
nhiều sản phẩm, nên cũng thường được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-
Vanek.
Mô hình Heckscher-Ohlin dựa trên các giả thiết sau:
• Thế giới chỉ có 2 quốc gia chỉ có 2 loại hàng hóa (X và Y) và chỉ có
2 yếu tố sản xuất là lao động và tư bản.
• Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hóa giống nhau và
thị hiếu của các dân tộc như nhau.
• Hàng hóa X chứa đựng nhiều lao động, còn hàng hóa Y chứa đựng
nhiều tư bản.
• Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hóa trong 2 quốc gia
là một hằng số. Cả hai quốc gia đều chuyên môn hóa sản xuất ở mức
không hoàn toàn.
• Cạnh tranh hoàn hảo ở thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố
đầu vào ở cả 2 quốc gia.
• Công nghệ sản xuất cố định ở mỗi quốc gia và như nhau giữa các
quốc gia
• Công nghệ đó ở mỗi quốc gia đều có lợi tức theo quy mô cố định.

• Lao động và vốn có thể di chuyển tự do trong biên giới mỗi quốc
gia, nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế.
• Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở
ngại khác trong thương mại giữa hai nước.
8
1.2.2 Hàm lượng các yếu tố sản xuất trong các hàng hóa và
đường giới hạn khả năng sản xuất
Mô hình Heckscher-Ohlin phiên bản 2 x 2 x 2 sử dụng hàm Cobb-
Douglass vì nó phù hợp với giả thiết về lợi tức theo quy mô không đổi.
Chúng ta nói rằng hàng hóa Y là hàng hóa chứa đựng nhiều tư bản nếu
tỷ số tư bản/ lao động (K/L) được sử dụng để sản xuất hàng hóa Y lớn hơn
hàng hóa X trong cả 2 quốc gia.
Chúng ta cũng nói rằng quốc gia thứ II là quốc gia có sẵn tư bản với
quốc gia thứ I nếu tỷ giá giữa tiền thuê tư bản lãi suất trên tiền lương (r/w) ở
quốc gia này thấp hơn so với quốc gia thứ I. Như vậy, đường giới hạn khả
năng sản xuất của quốc gia thứ II sẽ nghiêng về OY và của quốc gia thứ I sẽ
nghiêng về phía OX.
Hình 1.2 Đường giới hạn khả năng sản xuất
9
Xét ví dụ quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nga. Ta giả thiết, để
sản xuất mặt hàng quần áo cần nhiều lao động, còn mặt hàng thép cần nhiều
vốn hơn. Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động hơn nên họ sẽ sản
xuất và nhập khẩu hàng dệt may. Còn Nga có nhiều tư bản nên họ sản xuất
và xuất khẩu thép.
1.2.3. Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher- Ohlin
Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Hẹkscher- Ohlin được tóm tắt
trong sơ đồ hình 1.2. Bắt đầu tại góc phải phía dưới cuả sơ đồ ta thấy rằng sở
thích và sự phân phối theo quyền sở hữu các yếu tố sản xuất ( nghĩa là theo
phân phối thu nhập) xác định nhu cầu hàng hóa. Nhu cầu hàng hóa xác định
nhu cầu dẫn xuất về yếu tố cầu để sản xuất chung. Lượng cầu về các yếu tố

10
OY
O
sản xuất, cùng với lượng cung xẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất trong điều
kiện cạnh tranh hoàn hảo. Giá cả các yếu tố sản xuất cùng với công nghệ sẽ
xác định giá cả hàng hóa cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối cùng
của hàng hóa giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương mại
( nghĩa là nước nào sản xuất hàng hóa gì?).
Hình 1.3 Quá trình hình thành giá cả sản phẩm- khung cân bằng
tổng quát của lý thuyết Hecksher- Ohlin
11
Sơ đồ trên hình 1.3 cho thấy tất cả các lực lượng sản xuất cùng với
nhau quyết định giá cả hàng hóa cuối cùng như thế nào. Đây chính là cái mà
chúng ta nói rằng mô hình Heckscher- Ohlin là mô hình cân bằng chung. Tuy
nhiên, trong số tất cả các lực lượng tương tác này, định lí Heckscher- Ohlin
tách riêng sự khác biệt khả năng vật chất hay khả năng cung cấp các yếu tố
sản xuất giữa các nước ( với sở thích và công nghệ như nhau) để giải thích sự
khác biệt về giá tương đối của hàng hóa và thương mại giữa các nước. Đặc
biệt, Ohlin giải thích sở thích ( và phân phối thu nhập) giống nhau giữa các
nước. Điều này dẫn đến nhu cầu giống nhau về hàng hóa cuối cùng và yếu tố
sản xuất ở các nước khác nhau. Do đó, sự khác biệt về cung các yếu tố sản
xuất ở các nước khác nhau là nguyên nhân của sụ khác biệt yếu tố khác nhau
dẫn đến giá tương đối của hàng hóa khác nhau và diễn ra thương mại giữa các
nước. Sự khác biệt về khả năng cung cấp tương đối các yếu tố dẫn đến sự
12
Cầu sản phẩm cuối
cùng
Cầu yếu tố sản xuất

hình

mậu
dịch
Giá cả sản
phẩm so sánh
cân bằng nội
địa
Giá cả yếu tố sản xuất
Giá cả sản phẩm
Phân
phối thu
nhập
Thị hiếu
hay sở
thích
người tiêu
dùng
Cung
yếu tố
sản xuất
Kỹ
thuật
công
nghệ
khác biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả hàng hóa mà
chúng được chỉ ra bởi đường đậm trong hình 1.3.
Mô hình đưa ra những kết luận sau: Trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi
nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử
dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác
bằng cách thừa nhận là mỗi sản phẩm đòi hỏi một sự liên kết khác nhau các
yếu tố sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên, đất đai…) và có sự chênh lệch

giữa các nước về các yếu tố này, mỗi nước sẽ chuyên môn hoá trong những
ngành sản xuất cho phép sử dụng các yếu tố với chi phí rẻ hơn, chất lượng tốt
hơn so với các nước khác đồng thời nhập khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu
tố đầu vào kia. Kết luận này được kinh tế học gọi là Định lý Heckscher-Ohlin.
1.2 Kiểm nghiệm mô hình H-O
Do lý thuyết thương mại tỷ lệ các yếu tố sản xuất là một trong những lý
thuyết có ảnh hưởng nhất trong kinh tế học quốc tế, nó đã và đang là một chủ
đề được đem ra kiểm nghiệm rộng rãi bằng các dẫn chứng thực tế. Kết quả
những cuộc kiểm nghiệm đó không thuận: các nước trong thực tế không xuất
khẩu những hàng hoá mà lý thuyết này phán đoán. Do đó, câu hỏi đặt ra là
liệu lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản xuất có còn phù hợp với suy nghĩ về thương
mại quốc tế không ???
1.3.1 Kiểm định với nền kinh tế Mỹ
Kiểm nghiệm trên các số liệu của Mỹ cho thấy trước đây, và ở mức độ
nào đó thậm chí hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là một trường hợp đặc biệt trong số các
nước trên thế giới. Cách đây không lâu, Hoa Kỳ vẫn là nước giàu có hơn các
nước khác, công nhân Mỹ rõ ràng có số vốn theo đầu người nhiều hơn công
nhân ở các nước khác. Ngay cả hiện nay, mặc dù một số nước Tây Âu và
Nhật gần như đuổi kịp, Mỹ tiếp tục đứng hàng đầu trong số các nước có tỷ lệ
vốn – lao động cao.
13
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể cho rằng Hoa Kỳ sẽ là nước xuất khẩu
hàng hoá sử dụng nhiều vốn, và là nước nhập khẩu hàng hoá cần tập trung
nhiều lao động. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là điều đó lại không diễn ra
trong suốt 25 năm từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Trong một công trình
nghiên cứu nổi tiếng xuất bản năm 1953, nhà kinh tế Wassily Leontief (người
được giải thưởng Nobel năm 1973) thấy rằng hàng xuất khẩu của Mỹ lại sử
dụng ít vốn hơn hàng nhập khẩu. Kết quả đó được gọi là nghịch lý Leontief.
Đây là một dẫn chứng giá trị nhất chống lại lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản xuất.
Bảng 1.3 minh hoạ nghịch lý Leotief và một số thông tin khác về mô

thức thương mại của Mỹ. Chúng ta so sánh các yếu tố sản xuất sử dụng để
làm ra một triệu đô la hàng hoá xuất khẩu của Mỹ 1962 với các yếu tố dùng
để sản xuất một giá trị như trên hàng nhập khẩu của Mỹ năm 1962. Như ta đã
thấy ở hai hàng đầu trong bảng, nghịch lý Leotief vẫn xuất hiện trong năm dó;
hàng hoá xuất khẩu cảu Mỹ vẫn được sản xuất bằng một tỷ lệ vốn – lao động
thấp hơn so với hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, như phần còn lại của bảng
này cho thấy, những so sánh khác cảu hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu
trùng hợp hơn với suy nghĩ thông thường. Mỹ xuất khẩu những sản phẩm cần
tập trung nhiều lao động tay nghề cao hơn so với hàng hoá Mỹ nhập khẩu. Mỹ
cũng có xu hướng xuất khẩu những sản phẩm cần nhiều “công nghệ cao”, đòi
hỏi lao động của nhiều nhà khoa học và kỹ sư trên mỗi đơn vị sản phảm bán
ra. Những nhận xét đó phù hợp với vị trí của Mỹ là một nước có tay nghề lao
động cao, và có lợi thế so sánh ở các sản phẩm tinh vi.
Nhưng tại sao lại có nghịch lý Leontief ??? Không ai có thể trả lời 1
cách chắc chắn cả. Tuy nhiên, một cách giải thích có thể chấp nhận được sẽ
như sau: Mỹ có một lợi thế đặc biệt trong việc snả xuất những sản phẩm hoặc
hàng hoá sử dụng những công nghệ mới phát minh. Nhưng sản phẩm này có
thể cần sự tập trung vốn ít hơn so với những sản phẩm mà kỹ thuật có đủ thời
gian chin muồi và trở nên phù hợp cho việc sản xuất hàng loạt. Vì vậy, Mỹ có
14
thể sẽ xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao và
kỹ năng kinh doanh đổi mới, trong khi nhập khẩu hàng công nghiệp nặng sử
dụng khối lượng vốn lớn.
Bảng 1.4 Nội dung các yếu tố trong hàng xuất khẩu và nhập khẩu
của Mỹ năm 1962.
Các yếu tố Hàng nhập khẩu Hàng xuất khẩu
Vốn 2.132.000$ 1.876.000$
Lao động (người-năm) 119 131
Số năm giáo dục trung bình 9.9 10,1
Tỷ lệ kỹ sư và nhà KH 0.0189 0.0255

1.3.2 Kiểm nghiệm số liệu trên thế giới
Gần đây hơn, các nhà kinh tế đã tiến hành kiểm nghiệm mô hình H-O
trên số liệu của nhiều nước. Một công trình nghiên cứu quan trọng của Harry
P.Bowen, Edward E.Leamer và Leo Sveikauskas dựa trên ý tưởng đã nói trên
đây rằng việc trao đổi, buôn bán hàng hoá là một cách buôn bán gián tiếp các
yếu tố sản xuất. Vì thế nếu ta muốn tính toán các yếu tố sản xuất hàm chứa
trong những hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu của một nước, chúng ta nên
tìm ra xem nước đó xuất khẩu ròng những yếu tố sản xuất nào mà nó có nhiều
một cách tương đối và nhập khẩu ròng những yếu tố nào mà nó có tương đối
ít.
Bảng 1.4 cho thấy một trong những kết quả kiểm nghiệm của Bowen
và các đồng nghiệp. Với một mẫu gồm 27 nước và 12 yếu tố sản xuất, các tác
giả đã tính toán tỷ lệ của từng mà mỗi quốc gia có so với sự cung cấp của thế
giới. Sau đó họ so sánh những tỷ lệ này với phần của từng nước trong tổng
thu nhập thế giới. Nếu như lý thuyết tỷ lệ các yếu tố mà đúng, một nước luôn
luôn xuất khẩu các yếu tố có tỷ phần lớn hơn tỷ phần thu nhập và nhập khẩu
15
các yếu tố có tỷ phần nhỏ hơn. Trong thực tế, đối với 2/3 các yếu tố sản xuất,
thương mại diễn ra theo xu hướng phán doán ở mức độ thấp hơn 70%. Kết
quả này khẳng định nghịch lý Leontief ở mức độ rộng hơn: thương mại không
diễn ra theo hướng mà mô hình H-O phán đoán.
1.3.3 Ý nghĩa của các kiểm nghiệm
Kết quả tiêu cực của các kiểm nghiệm lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản
xuất đã đặt các nhà kinh tế học quốc tế vào tình thế khó khăn. Chúng ta đã
thấy các bằng chứng thực tế phần lớn đều ủng hộ sự phán đoán của mô hình
Ricardo: các nước sẽ xuất khẩu hàng hoá mà nước đó có năng suất lao động
đặc biệt cao. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế học quốc tế đều coi mô hình
Ricardo quá hạn chế để có thể trở thành mô hình cơ bản của thương mại quốc
tế. Ngược lại, mô hình H-O từ lâu đã chiếm một vị trí trung tâm trong lý
thuyết thương mại,bởi vì nó cho phép xử lý cùng một lúc các vấn đề về phân

phối thu nhập và mô thức thương mại. Do đó, một mô hình phán đoán một
cách tốt nhất chiều hướng thương mại cũng bị hạn chế đối với các mục đích
khác, trong khi đến thời điểm này đã có những bằng chứng mạnh mẽ chống
lại mô hình H-O.
Câu trả lời tốt nhất vào lúc này dường như là phải quay trở về với ý
tưởng của Ricardo rằng mô thức thương mại phần lớn được thúc đẩy bởi
những khác biệt quốc tế về trình độ công nghệ hơn là những khác biệt về
nguồn lực. Ví dụ, ở Mỹ xuất khẩu máy vi tính và máy bay, không phải do các
nguồn lực của Mỹ đặc biệt thích hợp với những hoạt động này, mà là do Mỹ
sản xuất những hàng hoá này một cách có hiệu quả hơn so với sản xuất ôtô
hoặc thép. Điều này vẫn bỏ qua các lý do chưa được giải thích về sự khác biệt
công nghệ.
Vì thế hiểu được nguồn gốc của những khác biệt về công nghệ giữa các
nước là một chủ đề cơ bản của công nghệ giữa các nước là một chủ đề cơ bản
của công việc nghiên cứu hiện nay.
Bảng 1.5 Kiểm nghiệm mô hình Heckscher – Ohlin
16
Yếu tố sản xuất Mức độ thành công của phán đoán*
Vốn 0,52
Lao động 0,67
Công chức chuyên nghiệp 0,78
Nhân viên quản lý 0,22
Nhân viên văn phòng 0,59
Nhân viên bán hàng 0,67
Công nhân dịch vụ 0,67
Công nhân nông nghiệp 0,63
Công nhân sản xuất(công nghiệp) 0,70
Đất trồng hoa màu 0,70
Đất trồng cỏ 0,52
Rừng 0,70

(*Tỷ lệ của các nước có xuất khẩu ròng yếu tố sản xuất diễn ra theo
hướng đã phán đoán).
Tuy nhiên, khi quay về với sự giải thích của Ricardo về thương mại,
chúng ta không quay lại với quan điểm với quan điểm cho rằng thương mại
không gây tác động đến sự phân phối thu nhập.
Chừng nào mà có trên một yếu tố sản xuất được sử dụng, thương mại
sẽ có những tác động quan trọng đến sự phân phối thu nhập. Vì thế, vẫn rất
cần phải đặt câu hỏi những yếu tố nào hàm chứa trong hàng hoá xuất khẩu và
nhập khẩu của một nước. Mỹ xuất khẩu những sản phẩm cần tập trung nhiều
lao động có tay nghề cao, và nhập khẩu những sản phẩm cần tập trung nhiều
lao động có tay nghề thấp.
Do đó, thương mại có xu hướng đem lại lợi ích cho công nhân có tay
nghề cao ở Mỹ trước những thiệt hại của công nhân có tay nghề thấp, mặc dù
việc có nhiều hay ít các yếu tố sản xuất này không giúp gì được nhiều cho
việc phán đoán mô thức thương mại.
17
Mô hình Heckscher – Ohlin vì vầy vẫn được sử dụng một cách hạn chế
để phán đoán tác động của thương mại và chính sách thương mại đến sự phân
phối thu nhập .
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.1 Vai trò và nhiệm vụ của nhập khẩu đối với Việt Nam
2.1.1 Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Việt
Nam trên các mặt như sau:
Thứ nhất, nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh
thương mại vì thông qua hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế
60-100% nguyên, nhiên vật liệu chính phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện
sản xuất nguyên liệu trong nước chưa phát triển, việc nhập khẩu những
nguyên liệu cao cấp như sợi cho ngành dệt, vải cho ngành may, phân bón cho

nông nghiệp, các linh kiện cho ngành lắp ráp xe hơi, điện tử…Hoạt động
nhập khẩu đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước hướng về xuất khẩu.
18
Thứ hai, nhập khẩu tác động mạnh vào quá trình đổi mới công nghệ,
trang thiết bị sản xuất. Qua đó nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao
động trong nước.
Thứ ba, nhập khẩu có vai trò nhất định trong việc nâng cao mức sống,
mở rộng nhu cầu trong nước của người dân. Bởi vì không chỉ cải thiện đồng
lương của đội ngũ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu mà hoạt
động này còn cung cấp các yếu tố đầu vào ( khoa học công nghê, máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu…) qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất, giải quyết
công ăn, việc làm cho người lao động. Mặt khác, việc nhập khẩu hàng hóa
tiêu dùng, sách báo, văn hóa phẩm đã góp phần nâng cao trình độ dân trí , cải
thiện đời sống của người dân.
2.1.2 Nhiệm vụ của công tác nhập khẩu
• Đảm bảo kịp thời đầy đủ và đồng bộ nhu cầu về tư liệu sản xuất
trong nước.
• Góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
• Bổ sung kịp thời những nhu cầu đời sống trong nước mà hoạt động
sản xuất trong nước chưa đáp ứng kịp.
Trong suốt hơn 20 năm đổi mới kinh tế thì Việt Nam luôn trong tình
trạng nhập siêu, cùng với tiến trình mở cửa theo lộ trình AFTA và WTO thì
nhập siêu ngày càng lớn: năm 2005 nhập siêu 4,5 tỷ USD; năm 2006: 4,8 tỷ
USD; năm 2007 đã lên đến 12,44 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008
của Việt Nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007. Trong đó, kim
ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5 tỷ
USD, chiếm 33,9% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 31,3% so với năm
2007. Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước
đạt 55,5 tỷ USD, chiếm 66,1 % tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước và tăng

19
35,3% so với năm 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc,
thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, thép…Năm 2008, nhập khẩu máy móc thiết bị
tăng 21,4% so với năm 2007, trong đó xăng dầu: 8,9%, thép thành phẩm:
2,2% , phôi thép: 16,1%, bông các loại: 42,9%, đặc biệt ô tô nguyên chiếc:
64,9%.
Thị trường nhập khẩu năm 2008 chủ yếu tập trung vào châu Á, trong
đó nổi bật từ các thị trường Trung Quốc, Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái
Lan… Trong đó nhập siêu từ thị trường Trung Quốc đạt khoảng từ 13 tỷ
USD. Với việc thực hiện tích cực các biện pháp kiềm chế nhập khẩu như tăng
thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ô tô và linh kiện ô tô, vàng, kiểm
soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách hiệu quả. Tỉ lệ
nhập siêu trong quí I là 62,4%, quí II giảm xuống 34%. Bắt đầu từ tháng 8 tốc
độ tăng kim ngạch nhập khẩu đã nhanh chóng giảm mạnh. Đặc biệt kim
ngạch nhập khẩu trong tháng 11 và tháng 12 còn giảm mạnh so với cùng kỳ
năm 2007. Tuy nhập khẩu và tỷ lệ nhập siêu đang được kiềm chế, nhưng vẫn
ở mức cao. Con số nhập siêu cả năm 2008 của Việt Nam là 19 tỷ USD, bằng
29,2% kim ngạch xuất khẩu, tăng 10% so với năm 2007, gần bằng cả thời kì
2001-2005 và vượt xa con số kế hoạch( 10,8-10,9 tỷ USD).
Nhưng qua thống kê có thể thấy, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2008
tăng chủ yếu là do giá tăng mạnh trong khi khối lượng nhập khẩu tăng không
đáng kể. Điều đáng nói là ở một số mặt hàng khối lượng hàng nhập về tăng
mạnh lại đúng vào thời điểm giá trên thị trường thế giới lên đến đỉnh, điển
hình ở một số mặt hàng như xăng dầu, thức ăn chăn nuôi, giấy… Chính điều
này đã cản trở cho việc giảm giá bán lẻ ở trong nước, gây thiệt hại cho nền
kinh tế, cho người tiêu dùng và cho chính bản thân doanh nghiệp.
Năm 2009 kim ngạch nhập khẩu đạt 69.95 tỷ USD, tăng 16% so với
năm 2008. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt
26.07 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp (DN) trong nước tăng 15,1% và các
20

DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,9%. Nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị
phụ tùng, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ cho đầu vào sản xuất xuất khẩu sẽ
tiếp tục gia tăng, chiếm tỷ trọng 76% với 53.162 tỷ USD. Nhóm mặt hàng bị
kiểm soát nhập khẩu bao gồm giấy, dầu mỡ động thực vật, sản phẩm dầu gốc,
gas..., chiếm tỷ trọng 16,7% với 11.68 tỷ USD. Nhóm hàng hạn chế nhập
khẩu bao gồm nguyên phụ liệu thuốc lá, ô tô và phụ tùng ô tô dưới 12 chỗ
ngồi, linh kiện xe gắn máy... sẽ chiếm 7,2%, khoảng 5 tỷ USD. Châu Á vẫn là
thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam, với tỷ trọng khoảng 75-85%, tiếp
theo là EU và châu Mỹ. Trong năm 2009, các biện pháp kiểm soát nhập khẩu
thông qua các biện pháp thuế quan và phi thuế quan đã được áp dụng mạnh để
giảm nhập siêu.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4/2010 ước tính đạt gần 7 tỷ USD,
tăng 3% so với tháng trước và tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 24,8 tỷ
USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong
nước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 24,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt
10,2 tỷ USD, tăng 55,6%. Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng
máy móc, nguyên liệu phục vụ sản xuất đều tăng so với cùng kỳ năm trước,
trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 14,8%; xăng
dầu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 19,6%; vải đạt 1,5 tỷ USD, tăng 19%; sắt thép đạt
1,6 tỷ USD, tăng 33,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,4 tỷ USD, tăng
43,7%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 54,7%; ô tô đạt 825 triệu USD, tăng
57%, trong đó ô tô nguyên chiếc 227 triệu USD, giảm 0,3%; nguyên phụ liệu
dệt, may, giày dép đạt 737 triệu USD, tăng 24,8%; hóa chất đạt 584 triệu
USD, tăng 44,9%;
Nhập siêu tháng 4/2010 ước tính 1,3 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước và
bằng 21,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Nhập siêu 4 tháng đầu năm
đạt 4,7 tỷ USD, bằng 23,1% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
Hình 2.1 Kim ngạch NK của Việt Nam giai đoạn 2000-2009
ĐVT: Tỷ đồng

21
15.56
16
16.6
25.22
31.9
36.88
44.41
60.08
84
69.95
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
(Nguồn:tổng cục thống kê)
2.2.2 Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu.
2.2.2.1 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng:
Trong năm 2009 trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 12,67 tỷ USD
tăng 14,4% so với năm trước , nâng tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 lên
69,95 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt
Nam trong năm 2009 có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,1 tỷ USD,

giảm 6,2%; Nhật Bản: 1,26 tỷ USD, giảm 21,9%; Hàn Quốc: 439 triệu USD;
giảm 22,7%; Hoa Kỳ: 395 triệu USD, tăng 9,5%,... so với cùng kỳ năm 2008.
2.2.2.2 Sắt thép các loại:
Năm 2009, cả nước nhập khẩu hơn 9.7 triệu tấn thép các loại, tăng
13,8% so với năm trước với trị giá là 5.4 tỷUSD. Lượng phôi thép nhập khẩu
vào Việt Nam trong năm là 2.4 triêu tấn, tăng 22% so với năm trước, trị giá
trên 1tỷ USD.
Hình 2.2.2.2: Nhập khẩu sắt thép từ các thị trường chính
7 tháng 2009 so với 7 tháng 2008
22
2.2.2.3 Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Trong năm 2009, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 1.76 tỷ USD, cao
hơn nhiều so với năm 2008.
Trong đó, nhập khẩu từ Achentina là: 294 triệu USD, tăng 202,6%; Ấn
Độ : 285 triệu USD, giảm 52%; Trung Quốc: 98 triệu USD, tăng 32,4%; và
Hoa Kỳ: 97,6 triệu USD, giảm 6,9% so với 7 tháng 2008.
2.2.2.4 Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày:
Trong năm 2009 nhập khẩu 17.4 tỷ USD, tổng kim ngạch nhập khẩu
của nhóm hàng này giảm 8.62% so với năm 2008.
Bảng 2.2.2.4 : Lượng, trị giá nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu
ngành dệt may, da, giày năm 2009 và năm 2008
Tên hàng
2008 2009
Lượng
( tấn)
Trị gía giá
(1000 USD)
Lượng
( tấn)
Trịgiá

(1000 USD)
Bông 299563 467011 303093 392271
Xơ, sợi dệt 414055 775377 503069 810782
NPL dệt may, da, giày 2355102 1931907
Vải 4457807 4226364
Tổng cộng 8055297 7361324
23
Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ các
nước: Trung Quốc dẫn đầu với 1,14 tỷ USD, Đài Loan: 840 triệu USD, Hàn
Quốc: 801 triệu USD, Hồng Kông: 234 triệu USD, Nhật Bản: 266 triệu USD,

2.2.2.5. Xăng dầu:
Trong năm 2009 nhập khẩu 12.7triệu tấn, giảm 1.6% so với năm 2008
với gia tri 10.9 tỷ USD
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2009 chủ yếu có
xuất xứ từ Singapore với hơn 6,1 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 2,6 triệu tấn,
Trung Quốc: 1,41 triệu tấn, Hàn Quốc: 1.4 triệu tấn, Thái Lan: 880 nghìn
tấn, ...
2.2.2.6. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện:
Nhập khẩu trong năm 2009 là 3.95 tỷ USD, tăng 6.5% so với năm
2008.
Tính đến hết năm 2009, Nhật Bản là thị trường dẫn đầu về cung cấp
nhóm hàng này cho nước ta với 928 triệu USD. Tiếp theo là Singapo với
815triệu USD, Trung Quốc : 654 triệu USD; ...
2.2.2.7. Chất dẻo nguyên liệu:
Hết năm 2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước
là 2,2 triệu tấn, tăng 29.4% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 2.8 tỷ
USD.
Năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ
yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 291 nghìn tấn, tăng 44,0% so với cùng kỳ 2008;

Đài Loan: 319 nghìn tấn, giảm 3,9%; Thái Lan: 270 nghìn tấn, tăng 7,1%.
2.2.2.8 Phân bón:
Trong năm 2009 nhập khẩu 4.5 triêu tấn, tăng 50% so với năm 2008
với trị giá đạt trên 1.4 tỷUSD.
24
Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2009 qua là 1.4
triêu tấn, phân SA là 1.1 triệu tấn, phân DAP là 981 tấn, phân Kali là 481
nghìn tấn, phân NPK là 334 nghìn tấn.
Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có
xuất xứ từ Trung Quốc với 1.5 triệu tấn. Tiếp theo là 346 nghìn tấn,Nhật Bản:
199 nghìn tấn, Hàn Quốc: 161 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 102 nghìn tấn, Đài Loan:
102 nghìn tấn,…
2.2.2.9. Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: trong
năm 2009, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là hơn 80 nghìn chiếc, với giá
trị 1.3tỷ USD tăng 57.85% so với năm 2008, trong đó loại xe từ 9 chỗ ngồi trở
xuống là hơn 47 nghìn chiếc
Biểu đồ 2.2.2.9: Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2009
Ô tô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ chủ yếu từ Hàn
Quốc với 24 nghìn chiếc, chiếm 64% tổng lượng ôtô nhập khẩu của cả nước
trong 7 tháng 2009. Nguồn hàng lớn tiếp theo là từ Mỹ: 9.8 nghìn chiếc,
Trung Quốc: 7.8 nghìn chiếc, …
Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong năm đạt 1.7 tỷ USD,
giảm 11.7% so với năm 2008.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao trong thời gian
vừa qua trước hết là do sản xuất trong nước còn phụ thuộc quá lớn vào nguồn
25

×