Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quá trình mở cửa kinh tế đối ngoại của trung quôc từ năm 1978 đến nay Thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.42 KB, 22 trang )

Phần I
Vai trò của hợp đồng ngoại thơng đối với
hợp đồng ngoại thơng
I. Vai trò của ngoại thơng đối với nền kinh tế nớc ta.
1. Ngoại thơng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Công cuộc đổi mới của nớc ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn và rất
quan trọng về kinh tế - xã hội. Chặng đờng đổi mới tiếp theo đòi hỏi chúng ta
phải tìm tòi, nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ và phức
tạp của nền kinh tế thị trờng và hội nhập quốc tế. Trong đó hợp đồng ngoại th-
ơng là khâu trọng yếu luôn đợc Đảng, Nhà nớc quan tâm nhiều nhất.
Giai đoạn 1975 - 1985 đất nớc thống nhất, chúng ta có điều kiện và khả
năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nớc để đẩy mạnh ngoại thơng
phát triển mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nớc ngoài thu hút vốn
và kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ chế độ
kinh tế của nớc nhà, cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu kinh tế hàng hoá cha
phát triển, cha có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và còn bị lệ thuộc nhiều vào bên
ngoài. Mặt khác do chiến tránh kéo dài đã gây ra những vết thơng về kinh tế -
xã hội mà hàng thế hệ mới hàn gắn đợc.
Giai đoạn này chúng ta đã thực hiện chế độ độc quyền về ngoại thơng-
điều này đợc ghi nhận trong hiến pháp 1980 tại điều 21:"Nhà nớc độc quyền
quản lý ngoại thơng và các quan hệ kinh tế khác".
Việc ghi nhận nguyên tắc độc quyền về ngoại thơng trong hiến pháp là
nền tảng vững chắc cho toàn bộ pháp luật về ngoại thơng Việt Nam trong giai
đoạn này điểm nổi bật của chế độ này là chỉ các tổ chức ngoại thơng của nhà n-
ớc mới đợc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, mọi hoạt động về kinh tế đối
ngoại đều do nhà nớc quyết định theo chỉ tiêu pháp lệnh do Bộ ngoại thơng trực
tiếp quản lý điều hành. Bộ ngoại thơng đã can thiệp sâu vào các công việc cụ
thể của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, chính vì vậy đã làm mất đi khả
1
năng sáng tạo tính linh hoạt trong kinh doanh, kết quả là hợp đồng ngoại thơng


kém hiệu quả.
Cuối 1986 thực hiện đờng lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra,
kinh tế đối ngoại đã đợc coi là mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới, xuất khẩu đợc
còn là một trong 3 chơng trình kinh tế trọng điểm.
Chế độ Nhà nớc độc quyền về ngoại thơng đã bị bãi bỏ, các hoạt động về
kinh tế đối ngoại đã điều chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết cuả
nhà nớc.
Từ năm 1987 chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia vào sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu tuy nhiên doanh
nghiệp nhà nớc vẫn chiếm u thế hơn.
Ngày 7/4/1992 HĐBT (nay là chính phủ) đã ban hành nghị định số
114/HĐBT qui định về quản lý nhà nớc đối với xuất nhập khẩu. Theo nghị định
114 các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải đáp ứng đợc những điều
kiện:
Đợc thành lập theo đúng pháp luật, hoạt động theo đúng ngnàh hàng đã
đăng ký, phải có vốn lu động bằng tiền Việt Nam tơng đơng với 200.000 USD
tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, số vốn này phải đợc xác định
về mặt pháp lý.
Có thể thấy những yêu cầu để đợc cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu đã trở thành một cản trở không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nớc.
Yêu cầu về số vốn không dới 200.000USD là một sự thách đố đối với các
doanh nghiệp, và các nhà doanh nghiệp đợc cấp giấy phép cũng chỉ đợc phép
XNK mặt hàng đã đăng ký. Do đó đã làm thu hẹp rất nhiều phạm vi hoạt động
của các doanh nghiệp cản trở việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu giảm
hiệu quả kinh tế trong hợp đồng ngoại thơng.
Đầu năm 1997, luật thơng mại đã đợc Quốc hội thông qua đặt nền tảng
cho những thay đổi căn bản trong hệ thống quản lý ngoại thơng của Việt Nam.
Năm 1998 chúng ta đã chứng kiến những thay đổi căn bản về quyền kinh
doanh ngoại thơng đó là việc Thủ tớng chính phủ đã ký quyết định cho phép tất
cả các doanh nghiệp Việt Nam đợc tham gia trực tiếp vào hoạt động XNK mà

2
không phải đáp ứng bất cứ điều kiện gì ngoài việc phải tự đăng ký mã số hàng
hoá của mình tại cơ quan hải quan.
Ngày 31/7/98 Chính phủ ban hành nghị định 57/1998/NĐ - CP quy định
chi tiết luật thơng mại về hoạt động XNK gia công và đại lý mua bán hàng hoá
với nớc ngoài, theo khoản 1 điều 8 thì thơng nhân là doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đợc thành lập theo quyết định của pháp luật đợc phép XNK
hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cũng theo khoản 3 điều 8 nghị định 57 thì các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế khi (tham gia) hoạt động kinh doanh XNK không phải xin
giấy phép kinh doanh XNK của bộ thơng mại nữa mà trớc khi kinh doanh XNK
doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh XNK tại cục Hải
quan tỉnh, thành phố. Bên cạnh đa dạng hoá và đa phơng hoá các mối quan hệ
kinh tế với nớc ngoài là một trong những thành tựu nổi bật của chính sách đổi
mới do Đảng ta khởi xớng.
Cho tới nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 104 nớc và vùng lãnh thổ
trên thế giới trong đó đã ký hiệp định thơng mại với 60 nớc, ký hiệp định khung
và hiệp định hàng dệt may với liên minh châu âu (theo tạp chí kinh tế và dự báo
số 4/1999).
Ngày 13/07/2000 (14/7 theo giờ Việt Nam) tại Oasinton, thay mặt chính
phủ Việt Nam, bộ trởng Bộ thơng mại Vũ khoan đã ký hiệp định thơng mại với
Hoa kỳ, đây chính là mối quan trọng đánh dấu sự bình thờng hoá hoàn toàn
giữa Việt Nam và Hoa kỳ.
Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN năm 1995, và
APEC năm 1998. Việt nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động trong
khuôn khổ hợp tác á - Âu và đang trong qúa trình chuẩn bị những bớc cơ bản
để gia nhập tổ chức thơng mại thế giới WTO.
Đó là những điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế mở rộng buôn bán và hợp tác kinh tế với các nớc và các tổ chức
kinh tế trong khu vực cũng nh trên toàn thế giới.

2. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế nớc nhà.
3
2.1. Vai trò của xuất khẩu.
Xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là
phơng tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho
tài chính. Đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cũng nh tạo cơ sở cho sự phát triển cơ sở
hạ tầng.
Thứ nhất: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc theo những bớc đi thích hợp là
con đờng tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nạn lạc hậu của nớc ta. Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc đòi hỏi phải có một số ngoại tệ lớn để nhập
khẩu các máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhanh tốc độ xuất khẩu
để đáp ứng đợc nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nớc
nhà.
Thứ hai: Xuất khẩu góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hớng phát
triển của nền kinh tế thế giới là một đòi hỏi tất yếu đối với nền kinh tế nớc ta.
Thứ ba: xuất khẩu không những thúc đẩy sự phát triển của chính ngành
nghề xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển thuận
lợi.
Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho
các ngành sản xuất nguyên liệu nh trồng bông, tơ tằm phát triển
Thứ t: Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và
nâng cao năng lực sản xuất trong nớc, nói cách khác xuất khẩu tạo ra vốn, kỹ
thuật công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, hiện đại hoá nền sản xuất trong n-
ớc tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu còn là cơ sở đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy các

quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển.
4
Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc đẩy
quan hệ tín dụng, đầu t, vận tải quốc tế ng ợc lại chính các quan hệ kinh tế
đối ngoại này sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu.
2.2. Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động quan trọng có tác dụng (trực tiếp) tới hoạt động
sản xuất và đời sống trong nớc nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá mà
trong nớc không sản xuất đợc hoặc sản xuất cha đủ để đáp ứng nhu cầu trong
nớc. Cụ thể nh sau:
Thứ nhất: Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Thứ hai: Nhập khẩu bổ sung kịp thời các mặt mất cân đối của nền kinh tế
đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định.
Thứ ba: Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân
dân. Thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của ngời tiêu dùng, đảm bảo đầu vào cho sản
xuất tạo việc làm cho ngời lao động.
Thứ t: Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu thể hiện: nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi tr-
ờng thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nớc ngoài.
ở Việt Nam do việc mở rộng hợp đồng ngoại thơng nên nguồn thu từ thuế
XNK cũng tăng lên qua các năm và đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của
ngân sách nhà nớc.
II. Hợp đồng mua bán ngoại thơng đối với hoạt động kinh
doanh XNK.
1. Khái niệm về hợp đồng mua bán ngoại thơng
Với sự phát triển nhanh chóng của lực lợng sản xuất và phân công lao
động trên quy mô toàn thế giới đang diễn ra ngày càng sâu sắc xuất hiện ngày
càng nhiều các hình thức hợp tác. Tuy vậy trao đổi hàng hoá vốn là một hình
thức mang tính chất cổ điển của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế

quốc tế nói riêng và có vị trí quan trọng bậc nhất trong các hoạt động kinh tế
đối ngoại.
5
Để các hoạt động trao đổi hàng hoá đợc diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải có
cơ sở pháp lý nhất định cho các bên thông qua một hình thức pháp lý nhất định.
Hợp đồng mua bán ngoại thơng là hình thức pháp lý cơ bản của trao đổi hàng
hoá quốc tế.
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm hợp đồng mua bán
ngoại thơng. Tuy nhiên trong mọi hợp đồng mua bán bao giờ cũng có ít nhất
hai bên chủ thể là bên bán và bên mua các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đều
chủ yếu liên quan đến việc giao hàng và trả tiền hàng. Để xác định một hợp
đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc tế, các luật gia thờng dựa trên một số
tiêu chí nh sau:
Thứ nhất: Hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của
bên mua và bên bán đợc đăng ký tại hai quốc gia khác nhau.
Thứ hai: Hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tợng của hợp
đồng là hàng hoá phải đợc giao tại một nớc khác với nớc mà hàng hoá đó đợc
tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng đợc ký kết.
Thứ ba: Đợc coi là hợp đồng mua bán quốc tế khi:
+ Có sự vận chuyển hàng hoá là đối tợng của hợp đồng từ lãnh thổ của
quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác.
+ Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ng thuận không đợc
thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia.
+ Sự giao hàng đợc thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với
quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ng thuận đã đợc
hoàn thành. Quan điểm trên đã đợc đề nghị trong dự thảo luật ROMA 1956.
Công ớc Vienne ngày 11/04/1980 đã không chấp nhận quan điểm trong
dự thảo luật Roma và chấp thuận tiêu chuẩn thứ nhất: Hợp đồng mua bán có
tính chất quốc tế khi hai bên có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau. Dấu hiệu
quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt.

2. Vai trò của hợp đồng mua bán ngoại thơng trong hoạt động kinh
doanh XNK.
Do đặc điểm về tự nhiên mỗi quốc gia có lợi thế riêng về sản xuất. Chính
những lợi thế riêng biệt khác nhau này giữa các quốc gia là tiền đề dẫn tới phân
6
công lao động quốc tế và dẫn đến nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng.
Thực tiễn đã chứng minh trong thời đại ngày nay khi trình độ quốc tế hoá
đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu hội nhập quốc tế là nhu cầu không thể
thiếu và ngày càng phải đợc mở rộng. Các quốc gia sẽ không thể phát triển,
không thể theo kịp sự phát triển của thế giới và sẽ bị tụt hậu nếu thực hiện
chính sách cô lập. Các quốc gia đều có ý thức đợc giá trị to lớn của việc hội
nhập kinh tế toàn cầu đặc biệt là các quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế đang
ngày càng đợc phát triển sâu rộng hơn.
Để quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá đợc diễn ra bình thờng ổn định và
bảo vệ đợc quyền lợi của các bên đòi hỏi phải có một cơ sở pháp lý nhất định,
trong đó có các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ đối với nhau đồng thời cũng
là cơ sở để các nớc hữu quan thực hiện (nhiệm vụ) quyền quản lý nhà nớc đối
với hoạt động XNK hàng hoá.
Hợp đồng ngoại thơng có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động trao đổi
hàng hoá. Cụ thể nh sau:
- Hợp đồng ngoại thơng là cơ sở pháp lý quy định quyền và nhiệm vụ của
các bên trong quan hệ trao đổi hàng hoá.
- Hợp đồng ngoại thơng là căn cứ để bảo vệ các nguồn và lợi ích hợp pháp
của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
- Hợp đồng ngoại thơng là công cụ pháp lý trung tâm của hoạt động kinh
doanh XNK đồng thời là co sở để các bên ký kết các hợp đồng khác. Hợp đồng
vận chuyển, hợp đồng Bảo hiểm, hợp đồng bảo lãnh
- Hợp đồng ngoại thơng là cơ sở quan trọng của cơ quan nhà nớc: Hải
quan, cơ quan thuế thực hiện các chức năng quản lý nhà n ớc trong các lĩnh

vực liên quan.
7
Phần Hai
Hợp đồng ngoại thơng -
những vấn đề pháp lý cơ bản
I. Sự hình thành quy chế pháp lý về hợp đồng mua bán
quốc tế.
Mua bán quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời. Tới đầu thế kỷ
XIX các hợp đồng mua bán quốc tế vẫn đợc thiết lập theo các quy tắc pháp
lý đợc quy định trong các bộ luật dân sự của các quốc gia do vậy khi quy chiếu
vào đó các thơng gia thờng lo sợ rằng hợp đồng của họ sẽ bị các toà án coi rằng
trái với trật tự xã hội.
Năm 1817 trên thế giới đã có sự xuất hiện những dấu hiệu của cuộc khủng
hoảng kinh tế, hàng hoá sản xuất ra d tha. Sự cạnh tranh về thị trờng ngày càng
gay gắt.
Để khắc phục tình trạng này các thơng gia đã có sự quy tụ theo ngành
nghề dới dạng các hiệp hội với mục đích:
- Thiết lập một quy chế pháp lý chi phối các hoạt động mua bán quốc tế
nhằm thống nhất các điều kiện mua bán thiết lập môi trờng cạnh tranh công
bằng, hợp lý.
- Tớc bỏ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp của các toà án quốc gia
và chuyên quyền này vào tổ chức trọng tài quốc tế.
Trong giai đoạn đầu các hiệp hội, các nhà kinh doanh tại mỗi quốc đã
soạn ra những hợp đồng mẫu cho từng loại hàng hoá tuy nhiên các hợp đồng
này vẫn mang tính chất riêng biệt do vậy hợp đồng mẫu của từng quốc gia vẫn
có sự khác biệt về chi tiết nhng cũng là nguyên nhân dẫn đến các vụ tranh
chấp. Do đó những hiệp hội của các quốc gia đã tìm cách xích lại gần nhau hơn
và ký kết với nhau những thoả hiệp, trong đó quyền lợi của các bên đợc giải
quyết thoả đáng. Các nỗ lực quốc tế nhằm đem lại một chế độ pháp lý thuần
nhất phải kể đến các công trình.

8

×