Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tập bài giảng Tài chính Tiền tệ - Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.38 KB, 123 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI

TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
Tập bài giảng
Biên soạn: Bùi Thị Bích Thuận

LÀO CAI NĂM 2020


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tài chính tiền tệ đóng một vai trị quan trọng cho
sự phát triển kinh tế xã hội. Nó có mối quan hệ mật thiết và ảnh hưởng nhiều đến các vấn đề
kinh tế vi mô cũng như vĩ mô.
Môn học Tài chính tiền tệ nằm trong nội dung chương trình đào tạo về các ngành kinh
tế, kế toán. Đây là một môn cơ sở ngành, cung cấp cho Sinh viên những kiến thức cơ bản về
lĩnh vực tài chính, tiền tệ như cung cầu tiền, lạm phát, hệ thống tài chính, thu chi NSNN, tài
chính doanh nghiệp, tín dụng, bảo hiểm, thị trường tài chính, tài chính quốc tế,… làm nền tảng
cho các môn học chuyên ngành.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về tài liệu học tập và giảng dạy cho giảng viên, sinh viên, chúng
tôi biên soạn tập bài giảng: Tài chính – Tiền tệ.
Tập bài giảng có cấu trúc gồm 7 chương:
Chương 1. Tổng quan về tài chính – tiền tệ
Chương 2. Ngân sách nhà nước
Chương 3. Tài chính doanh nghiệp
Chương 4. Các khâu tài chính trung gian
Chương 5. Ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại
Chương 6. Thị trường tài chính
Chương 7. Tài chính quốc tế
Mặc dù tác giả đã cố gắng nghiên cứu lý luận, đồng thời tìm hiểu các vấn đề thực
tiễn liên quan, nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định trong tập bài giảng. Rất


mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp và sinh viên, để sửa chữa hồn thiện cho
lần tái bản sau.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Bùi Thị Bích Thuận

3


DANH MỤC TỪ NGỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1. ADB: Ngân hàng phát triển châu Á
2. BHKD: Bảo hiểm kinh doanh
3. BHXH: Bảo hiểm xã hội
4. BHYT: Bảo hiểm y tế
5. CSTT: Chính sách tiền tệ
6. NHTM: Ngân hàng thương mại
7. NHTW: Ngân hàng trung ương
8. NSNN: Ngân sách nhà nước
9. PTTĐ: Phương trình trao đổi
10. TCDN: Tài chính doanh nghiệp
11. TCTD: Tổ chức tín dụng
12. TCQT: Tài chính quốc tế
13. TDNH: Tín dụng ngân hàng
14. TDNN: Tín dụng nhà nước
15. TDTM: Tín dụng thương mại
16. TNDN: Thu nhập doanh nghiệp
17. TTCK: Thị trường chứng khốn
18. TTTC: Thị trường tài chính

19. TTTT: Thị trường tiền tệ

4


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
1.1. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ
1.1.1. Nguồn gốc ra đời, bản chất, chức năng của tiền tệ
1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời và bản chất của tiền tệ
Kinh tế chính trị đã chỉ ra rằng nguồn gốc của tiền tệ là từ sự hình thành và phát triển
của các quan hệ trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy việc đi tìm sự ra đời của tiền tệ phải bắt nguồn
từ phân tích q trình hình thành và phát triển của các quan hệ trao đổi.
Qúa trình ra đời của tiền tệ được trải qua bốn hình thái giá trị:
+ Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
Hình thái này xuất hiện khi cộng đồng nguyên thủy bắt đầu tan rã, giữa các công xã phát
sinh quan hệ trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng, rất lẻ tẻ, không thường xuyên và mang tính ngẫu
nhiên.
Phương trình thể hiện quan hệ trao đổi: H  H’
Ví dụ: 5 đấu thóc = 1 tấm vải
Trong phương trình trên hàng hóa A là vật chủ động trong trao đổi và là vật tương đối,
nó biểu hiện giá trị của hàng hóa B. Hàng hóa B là vật bị động trong trao đổi và là vật ngang
giá, làm chức năng của hình thái ngang giá.
+ Hình thái giá trị mở rộng
Cuộc phân cơng lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt,
năng suất lao động tăng lên, có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cộng đồng nguyên thủy tan rã,
hình thành gia đình, chế độ tư hữu, địi hỏi phải tiêu dùng sản phẩm của nhau.
Từ hai điều kiện đó, lúc này có nhiều hàng hóa tham gia trao đổi và được thể hiện dưới
hình thái mở rộng.
Phương trình trao đổi được mơ phỏng như sau:
H


H
H’

Một hàng hố có thể được đổi ra nhiều hàng hố
khác nhau.

H’’

Ví dụ: 5 đấu thóc = 1 tấm vải = 2 cái cốc = 1 con cừu…
Khi số lượng hàng hoá càng lớn thì mối quan hệ trao đổi trực tiếp hàng hố ngày càng
phức tạp. Để trao đổi có thể diễn ra thì cần phải tìm được sự trùng khớp về nhu cầu và phải tìm
nhiều đối tác cùng nhu cầu.
Điều này dẫn đến xuất hiện một hình thái mới – hình thái vật ngang giá chung.
+ Hình thái giá trị chung

5


Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp, năng suất lao động tăng lên, trao đổi trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến. Từng vùng,
khu vực hình thành thị trường trao đổi hàng hóa, địi hỏi tách ra một hàng hóa để trao đổi nhiều
lần với các hàng hóa khác. Hàng hóa đó phải có thuộc tính: gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên
chở và phù hợp với tập quán của từng địa phương. Khi hội tủ đủ những tiêu chuẩn trên hàng
hóa đó sẽ trở thành vật ngang giá chung.
PTTĐ được thể hiện như sau:
H1
H2

H


A
B

Một hàng đổi nhiều hàng hố
Nhiều hàng đổi được qua một hàng hố

C

H3

Ví dụ:
1 rìu đá = 1 chuỗi ngọc
20 kg thóc = 1 chuỗi ngọc

1 rìu đá, 20 kg thóc và 2m vải
có giá trị tương tự nhau và

2m vải

bằng 1 chuỗi ngọc

= 1 chuỗi ngọc

 Chuỗi ngọc trở thành vật ngang giá chung.
- Khi có sự chun mơn hố sản xuất phát triển, nhu cầu trao đổi ngày càng tăng, một
hoặc một nhóm hàng hố tác ra trở thành các vật trao đổi trung gian (vật ngang giá chung) tạo
điều kiện cho những hàng hoá khác nhau rất dễ trao đổi được với nhau.
- Vật ngang giá chung thường là những hàng hố có giá trị sử dụng thiết thực, q hiếm,
dễ bảo quản, dễ vận chuyển và tuỳ thuộc vào đặc tính của từng địa phương.

- Khi trao đổi hàng hố trở thành nhu cầu thường xuyên thì con người chọn kim loại làm
vật ngang giá chung bởi thuộc tính bền, dễ chia nhỏ và cất trữ … Về sau chỉ cịn lại vàng trở
thành độc quyền đóng vai trị là vật ngang giá chung ở cuối thế kỷ XIX.
+ Hình thái tiền
- Vàng trở thành vật ngang giá chung duy nhất vì đặc tính tự nhiên của vàng: đồng nhất,
dễ chia nhỏ, dễ bảo quản, giá trị lớn, không bị ảnh hưởng nhiều bởi tính chất tự nhiên.
- Khi vàng có vai trị độc quyền ngang giá chung trong trao đổi thì cái tên “vật ngang giá
chung” được thay bằng tiền tệ và vàng được coi là kim loại tiền tệ. Từ đây nền kinh tế dần hình
thành và hình thái tiền tệ dần trở nên rõ nét.
Tiền ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của hàng hố, ở đâu có hàng hố thì sẽ
xuất hiện tiền. Như vậy, tiền là một phạm trù kinh tế và lịch sử.
1.1.1.2. Bản chất của tiền tệ
a) Định nghĩa cổ điển về tiền
Quan niệm cổ điển cho rằng tiền là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra khỏi thế giới
hàng hố đóng vai trị vật ngang giá chung để đo giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Nó trực
tiếp thể hiện hao phí lao động xã hội và quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hố.
Tiền có thể thoả mãn một số nhu cầu của người sở hữu nó, tương ứng với lượng giá trị mà
người đó tích luỹ được.
6


Đây là một định nghĩa ngắn gọn và giản đơn về tiền.
- Tiền là một hàng hố đặc biệt vì: tiền có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hố trong
bất kỳ điều kiện nào và tiền có thể thoả mãn được nhiều nhu cầu của người sở hữu nó.
- Cũng như hàng hố khác, tiền tệ có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Vì tiền là
hàng hố đặc biệt nên nó có giá trị sử dụng đặc biệt, đó là giá trị sử dụng xã hội.
- Tiền có thể đáp ứng một số nhu cầu: đây là một hạn chế của định nghĩa này bởi ngày
nay tiền có thể đáp ứng được hầu hết các nhu cầu của con người: nhu cầu vật chất, giải trí, tinh
thần...
Tuy nhiên, định nghĩa cổ điển chỉ nêu ra được bản chất của tiền tệ, nhưng chưa đủ để

giải thích được hết những hiện tượng kinh tế xã hội có liên quan hiện nay.
Chính vì vậy người ta đưa ra định nghĩa hiện đại về tiền được nhiều người sử dụng.
b) Định nghĩa hiện đại về tiền
Quan niệm hiện đại cho rằng tiền là tất cả những phương tiện có thể đóng vai trị làm
trung gian trao đổi, được xã hội thừa nhận.
- Tiền không chỉ đơn thuần là giấy bạc ngân hàng mà còn là những phương tiện trao đổi
được mở rộng ra rất nhiều như: hối phiếu, thương phiếu, trái phiếu...
- Đây là một định nghĩa mới, được nhiều nhà khoa học và thị trường ngày nay chấp nhận
và sử dụng.
HỘP 1.1. CÁC HÌNH THÁI PHÁT TRIỂN CỦA TIỂN
Hóa tệ: là loại tiền tệ bằng hàng hóa. Đây chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và
được sử dụng trong một thời gian dài, bao gồm hai loại:
a. Hóa tệ khơng kim loại
Tức là dùng hàng hóa khơng kim loại làm tiền tệ. Đó là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ,
tùy theo từng quốc gia, từng địa phương, người ta dùng những loại hàng hóa khác nhau
làm tiền tệ. Chẳng hạn:
- Ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò và cừu.
- Ở Tây Tạng, người ta dùng trà đóng thành bánh.
- Ở Việt Nam trong các vùng dân tộc Tây Nguyên, trước khi thực dân Pháp xâm lược,
người ta dùng khố thêu, lưỡi thuổng, chiêng,…
Nói chung, hóa tệ khơng kim loại có nhiều bất lợi khi đóng vai trị tiền tệ như:
tính chất khơng đồng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia, khó bảo quản cũng như vận
chuyển, nó chỉ được cơng nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Vì vậy, hóa tệ
khơng kim loại dần dần bị loại bỏ vì người ta bắt đầu dùng hóa tệ kim loại thay thế cho
hóa tệ khơng kim loại.
b. Hóa tệ kim loại tức là lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng làm tiền
tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc…
Các kim loại có nhiều ưu điểm hơn hẳn hàng hóa khơng kim loại khi được sử
7



dụng làm thành tiền tệ như: phẩm chất, trọng lượng có thể quy đổi chính xác hơn, dễ dàng
hơn. Mặt khác, nó hao mịn chậm hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi…
Trải qua thực tiễn trao đổi và lưu thơng hóa tệ kim loại, dần dần người ta chỉ chọn hai kim
loại qu dùng để làm tiền tệ lâu dài hơn là vàng và bạc, vì bản thân nó có những thuận tiện
mà những kim loại khác khơng có được như: tính đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất
trữ, tính dễ lưu thơng.
Tín tệ là loại tiền mà bản thân nó khơng có giá trị mà nó được sử dụng dựa trên
cơ sở uy tín hoặc quyền lực của người phát hành. Tín tệ gồm hai loại: tín tệ kim loại và
tiền
giấy.
Ở Việt Nam, tiền giấy ra đời vào thế kỷ 15, dưới thời Hồ Qúy Ly. Ngày nay, Tín
tệ do NH Nhà nước Việt Nam phát hành với các loại: tiền polymer có các mệnh giá
500.000đ, 200.000đ, 100.000đ, 50.000đ, 20.000đ, 10.000đ và tiền kim loại có các mệnh
giá 5.000đ, 2.000đ, 1.000đ, 500đ, 200đ.
Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ được tạo ra khi phát tín dụng thơng qua tài
khoản tại ngân hàng, do vậy bút tệ khơng có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả
tiền hay chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất, bút tệ là tiền phi vật
chất, nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh
tốn qua những cơng cụ thanh tốn của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền…mà cịn có
những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, đó là: an tồn hơn, chuyển đổi ra tiền giấy dễ dàng,
thanh toán rất thuận tiện, kiểm nhận nhanh.
1.1.1.3. Các chức năng của tiền tệ
Tiền tệ có 5 chức năng: thước đo giá trị, phương tiện thanh tốn, phương tiện lưu thơng,
phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới.
a) Chức năng thước đo giá trị
Trên thực tế, để đo chiều dài - dùng thước; đo cân nặng - dùng cân ...Như vậy, khi ta đo
phải có một đơn vị chuẩn để so sánh.
Giá trị của tiền được sử dụng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hoá hay
dịch vụ khác. Giá trị của tiền được coi là “chuẩn mực” để tất cả các hàng hố khác được so

sánh với nó. (cùng chất khác lượng).
Thước đo giá trị ở đây nghĩa là đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hố đó.
Bản thân hàng hố khơng tự bộc lộ giá trị mà phải thông qua một công cụ đo lường, được xã
hội chấp nhận, pháp luật, Nhà nước bảo vệ. Đó là tiền, và biểu hiện giá trị của hàng hố chính
là giá cả. Hay nói một cách khác đi, giá cả chính là sự so sánh giữa giá trị của hàng hoá và giá
trị của tiền tệ.
* Điều kiện để tiền là thước đo giá trị
Để đo giá trị của hàng hóa, bản thân tiền tệ phải đảm bảo những điều kiện sau:
- Tiền phải có đầy đủ giá trị. Mỗi hàng hố đều có giá trị nội tại nên tiền tệ là thước đo
giá trị cũng phải có đầy đủ giá trị. Với tiền đủ giá: là cách so sánh trực tiếp giá trị của hàng hoá
với giá trị của vàng. Với tiền dấu hiệu là cách so sánh giá trị danh nghĩa của tiền mà xã hội thừa
nhận với giá trị của hàng hoá.
8


- Tiền phải có tiêu chuẩn giá cả: Tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của một
quốc gia, được pháp luật nhà nước quy định bao gồm 2 yếu tố tên gọi đơn vị tiền tệ và hàm
lượng vàng trong một đơn vị tiền tệ.
Ở Mỹ : Đơn vị tiền tệ sử dụng là Đôla - USD; hàm lượng vàng là 0,888671gr vàng.
Ở Pháp: Đơn vị tiền tệ sử dụng là Phơrăng - FRF; hàm lượng vàng là 0,0655gr vàng
Hiện tượng “phi vật chất” thước đo giá trị xuất hiện khi khơng có mặt những đồng tiền
vàng thì những người trao đổi hàng hố vẫn có thể ước lượng giá trị của hàng hố tương đối
chính xác.
Do xuất hiện quá trình “phi vật chất” thước đo giá trị mà “hàm lượng vàng” của tiêu
chuẩn giá cả đã mất dần đi ý nghĩa của nó. Người ta không quan tâm đến hàm lượng vàng trong
đơn vị tiền nữa mà chỉ quan tâm đến sức mua của đồng tiền đó là cao hay thấp.
b) Chức năng phương tiện lưu thông
Thực hiện chức năng này, tiền tệ làm môi giới trung gian trong trao đổi hàng hố, nó
vận động đồng thời và ngược chiều với sự vận động của hàng hố.
Cơng thức:


H - T - H’

Với sự xuất hiện của tiền thì việc trao đổi hàng hố trở nên phong phú, hiện đại và thuận
tiện hơn. Quá trình trao đổi được tách làm 2 giai đoạn:
+ “H - T”: là giai đoạn bán hàng chuyển giá trị của hàng thành tiền. Thông thường,
người sản xuất sẽ thực hiện giai đoạn này.
+ “T – H”: là giai đoạn mua hàng - sử dụng tiền để đạt tới một giá trị sử dụng mới và
được thực hiện dễ dàng hơn. Thông thường đây là quá trình mà người tiêu dùng thực hiện.
Việc tách quá trình trao đổi thành 2 giai đoạn sẽ làm tách rời quá trình mua và bán cả về
khơng gian lẫn thời gian. Q trình mua bán dễ dàng, lưu thông linh hoạt.
* Điều kiện để thực hiện chức năng lưu thông
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ phải đảm bảo đủ các điều kiện
sau:
- Phải sử dụng tiền mặt:
+ Tiền mặt là tiền đang có giá trị lưu hành, có hình dáng, kích thước và tiêu chuẩn giá cả
nhất định, được nhà nước, pháp luật thừa nhận.
+ Trong q trình trao đổi có sự chuyển quyền sở hữu giữa người sở hữu hàng hoá với
người sở hữu tiền tệ. Tiền mặt xuất hiện và tồn tại như một “giấy chứng nhận” giá trị hàng hố,
hay nói khác đi là “ giấy chứng nhận” lao động của người sản xuất hàng hoá là cần thiết cho xã
hội.
- Có thể sử dụng tiền dấu hiệu: Mục đích của người bán hàng hố khơng phải để sở hữu
tiền vĩnh viễn mà để tiếp tục mua hàng hoặc đầu tư kinh doanh trong chu kỳ mới, nhằm đạt tới
một giá trị sử dụng mới. Chính vì vậy, tiền chỉ như “mơi giới thống qua” nên có thể sử dụng
tiền đủ giá (tiền vàng) và tiền dấu hiệu (giấy bạc ngân hàng và các dấu hiệu giá trị khác). Tiền
chỉ như một phương tiện truyền tải giá trị chứ không phải là sở hữu vĩnh viễn.
9


- Lưu thông chỉ chấp nhận một lượng tiền nhất định: Số lượng hàng hố được đưa vào

lưu thơng với tổng giá cả đã được xác định. Do đó, lưu thông cũng chỉ chấp nhận một khối
lượng tiền nhất định, tương đương với tổng giá trị hàng hóa đó, để trao đổi. Đó gọi là số lượng
tiền cần thiết cho lưu thơng (Mn). Nó phụ thuộc vào tổng giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nền
kinh tế và tốc độ luân chuyển của tiền tệ thông qua quy luật lưu thông tiền tệ.
c) Chức năng phương tiện cất trữ
Sự cất trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện giá trị
truyền tải được xã hội chấp nhận với mục đích để chuyển hoá thành các hàng hoá hay dịch vụ
trong tương lai. Người bán hàng sau khi sở hữu một lượng tiền tệ nào đó tiếp tục đầu tư vào
những chu kỳ kinh doanh tiếp theo, tiền sẽ tạm ngừng trong lưu thông và trở về dạng tĩnh tức là
dưới dạng dự trữ giá trị.
Khi tiền ở dạng dự trữ giá trị thì khơng tự nó lớn lên theo thời gian thậm chí có thể giảm
đi nếu người sở hữu khơng lựa chọn những phương tiện truyền tải giá trị phù hợp, đồng tiền chỉ
đứng im với những người sở hữu nó và thực chất nó ln ln vận động trong q trình sản
xuất và lưu thơng hàng hố.
Cùng với q trình sản xuất và lưu thơng hàng hố thì chức năng phương tiện cất trữ
được thể hiện bằng những hình thức khác nhau:
Phương tiện cất trữ thường được sử dụng: tiền mặt, chứng khoán, vàng, bất động sản ...
* Điều kiện để tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện cất trữ
Để thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền tệ phải đảm bảo những điều kiện sau:
- Giá trị cất trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực: cân, đo, đong,
đếm được. Chẳng hạn như: tiền mặt, vàng, bất động sản,…
- Phương tiện cất trữ mang tính thời gian tuỳ thuộc vào từng thời kỳ. Chẳng hạn: Khi
nền kinh tế có lạm phát, đồng tiền quốc gia bị mất giá so với vàng và ngoại tệ thì lựa chọn
phương án cất trữ vàng, hoặc ngoại tệ mạnh là tối ưu so với việc cất trữ nội tệ.
- Giá trị cất trữ phải bằng phương tiện mà xã hội và pháp luật bảo vệ, thừa nhận.
d) Chức năng phương tiện thanh toán
Tiền là phương tiện thanh toán các khoản nợ về hàng hoá dịch vụ đã trao đổi trước đây.
Khi chức năng thanh toán được thực hiện thì quan hệ trao đổi kết thúc.
Ví dụ: Mua hàng hố hơm nay nhưng chưa thanh tốn – trao đổi chưa kết thúc. Sau vài
ngày thanh tốn số tiền đó – trao đổi kết thúc.

Thực hiện chức năng này tiền tệ khơng làm trung gian trao đổi mà nó hình thành quá
trình này một cách độc lập. Sự vận động của tiền độc lập tương đối với sự vận động của hàng
hố cả về khơng gian và thời gian.
Ngồi thanh tốn các khoản nợ hàng hố, dịch vụ thì tiền cịn được thanh tốn ngồi
phạm vi: nộp thuế, trả lương, các khoản đóng góp...
Các hình thức thanh tốn: Thanh tốn bằng tiền đủ giá, tiền dấu hiệu, thanh tốn khơng
dùng tiền mặt như việc sử dụng các phương tiện séc, thư tín dụng, thẻ thanh tốn,…
e) Chức năng tiền tệ thế giới
10


Khi tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh tốn và chi trả chung giữa các quốc gia
thì tiền thực hiện chức năng tiền tệ thế giới.
* Điều kiện để tiền tệ trở thành tiền tệ thế giới
Để thực hiện chức năng này, tiền tệ phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Là một đơn vị tiền tệ có tính ổn định và có độ tin cậy cao.
- Có khả năng chuyển đổi một cách tự do sang các đồng tiền khác
Ví dụ: Khi đồng EURO ra đời thì toàn bộ đồng nội tệ ở các quốc gia trong khối Châu
Âu đó khơng cịn tồn tại và tạo nên một thị trường chung khơng phân biệt, khơng cịn hàng rào
thuế quan. Ở Châu Âu, nước Anh có đồng tiền mạnh nhất. Nhưng họ lại không tham gia vào
đồng tiền chung bởi: tính bảo thủ của họ và hơn nữa nếu tham gia vào đồng tiền chung thì đồng
tiền của họ sẽ bị mất giá.
1.1.1.4. Vai trò của tiền tệ
a) Tiền tệ là phương tiện để mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá
Tiền tệ là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nhưng khi xuất hiện lại trở thành công cụ
thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hoá lên mức cao hơn.
Tiền làm cho giá trị hàng hoá được thể hiện một cách giản đơn. Giá trị của hàng hoá
được biểu hiện bằng tiền, do vậy dễ dàng so sánh chúng với nhau. (Nhờ chức năng thước đo
giá trị).
Tiền làm cho giá trị hàng hoá được thực hiện một cách nhanh chóng. (nhờ chức năng

phương tiện lưu thơng) Do đó người sở hữu hàng hóa chỉ cần chuyển đổi hàng hóa của mình
thành tiền rồi từ đó họ có thể đạt tới giá trị sử dụng mới một cách dễ dàng theo “sở thích”.
Tiền làm cho sự trao đổi hàng hố khơng bị ràng buộc cả về không gian và thời gian.
(nhờ chức năng phương tiện thanh tốn). Chính vì thế đã làm cho sự lựa chọn của người tham
gia vào quá trình trao đổi trở nên thận trọng và chính xác hơn.
Tiền làm cho việc hạch toán kinh doanh thuận tiện, dễ dàng và khoa học (nhờ chức năng
thước đo giá trị)
b) Tiền là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ xã hội
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong q trình sản xuất và lưu
thơng hàng hoá, tiền là sợi dây liên kết giữa những người sản xuất, người tiêu dùng với nhau.
Những người sản xuất độc lập, riêng lẻ lại ràng buộc lẫn nhau thơng qua q trình trao đổi.
Trong xã hội sẽ xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa những người bán được nhiều
hàng hoá và thu được nhiều lợi nhuận với những người nghèo trong xã hội. Chính vì vậy sẽ
xuất hiện tâm lý sùng bái tiền.
c) Tiền là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu chúng
Tuỳ thuộc vào địa vị của người sở hữu tiền mà tiền được sử dụng vào những mục đích
khác nhau. Tiền có thể thoả mãn nhiều mục đích và quyền lợi của những ai nắm giữ chúng.
1.1.2. Quy luật lưu thông tiền tệ
1.1.2.1. Nội dung quy luật lưu thông tiền tệ
11


Số lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỉ lệ thuận với tổng số
giá cả trong lưu thông và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thơng bình qn của tiền tệ trong thời gian
đó
Cơng thức: Mn = H/V = Q*P/V
Trong đó :
Mn: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H: Tổng giá cả hàng hố cho lưu thơng
Q: Khối lượng giá cả hàng hố trong lưu thơng

P: Giá cả bình qn hàng hố trong lưu thơng
V: Tốc độ lưu thơng bình qn của tiền tệ
Tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thơng: giả sử trong nền kinh tế khơng có hiện tượng
mua bán chịu hàng hóa, khơng có lưu thơng ngoại tệ, chỉ lưu thơng một đồng tiền duy nhất thì
số lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa. Trong điều kiện hiện
nay do chức năng thanh toán của tiền tệ nên H được mở rộng ra như sau:
H = Tổng giá cả hàng hóa trong lưu thơng - Tổng giá cả hàng hóa bán chịu - Tổng giá cả
được thanh toán bù trừ + Tổng giá cả hàng hóa đến hạn thanh tốn.
Tốc độ lưu thơng bình qn của tiền tệ (V): là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian
nhất định một đơn vị tiền tệ thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông.
1.1.2.2. Cung cầu tiền
a. Cầu tiền tệ
Cầu tiền tệ là số lượng tiền cần thiết thỏa mãn các nhu cầu chi dùng của các chủ thể
trong xã hội.
Các yếu tố cầu tiền:
* Cầu tiền cho giao dịch: Là cầu tiền phản ánh lượng tiền mà các chủ thể trong nền kinh
tế cần giữ lại để đáp ứng nhu cầu sử dụng như: Phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, phục
vụ cho tiêu dùng.
Những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định cầu tiền cho giao dịch:
- Lãi suất tiền gửi: Khi lãi suất tiền gửi tăng thì xu hướng gửi tiền vào ngân hàng tăng,
nhu cầu tiền cho giao dịch giảm và ngược lại.
- Giá cả (giá trị giao dịch): giá cả tăng thì cầu tiền cho giao dịch tăng và tương ứng
ngược lại. (dự trữ tiền cho giao dịch nhiều).
- Chênh lệch giữa những khoản thu và khoản chi (sự lệch pha trong thu, chi). Khi sự
lệch pha này lớn thì nhu cầu cho giao dịch lớn.
- Thu nhập của cả nền kinh tế quốc dân: nền kinh tế quốc dân có thu nhập cao thì cầu
giao dịch cao và ngược lại.
- Tập quán, phong tục địa phương: Ví dụ điển hình cho sự ảnh hưởng của nhân tố này
đến cầu tiền giao dịch là sự khác nhau giữa tập quán chi tiêu của người miền Bắc và miền Nam
12



nước ta. Trong khi người miền Nam rất phóng túng trong chi tiêu, cầu tiền giao dịch của họ
cao, thì người miền Bắc thường có thói quen tiết kiệm, tích lũy nên cầu tiền giao dịch thấp hơn.
* Cầu tiền cho tích luỹ: Là bộ phận tiền nhằm mục đích tích luỹ giá trị phục vụ cho chi
tiêu trong tương lai.
Những nhân tố ảnh hưởng:
- Lãi suất tiền gửi: khi lãi suất thấp thì cầu tiền cho tích luỹ cho tiêu dùng càng cao (cầu
tiền tích luỹ cho ngan hàng giảm) và ngược lại.
- Thu nhập: thu nhập càng cao thì cầu tiền tích luỹ càng lớn và ngược lại.
- Giá trị các khoản chi: giá trị này càng cao thì cầu tiền cho tích luỹ càng cao. (Ví dụ:
mua ôtô sẽ phải tích luỹ nhiều tiền hơn mua xe máy).
* Cầu tiền cho dự phòng: là bộ phận tiền để dự phòng cho những chi tiêu bất ngờ xảy ra
nhằm hướng tới những mục đích: chờ những cơ hội mà khơng được báo trước, cho những rủi
ro có thể xảy ra.
Các nhân tố chung ảnh hưởng tới cầu tiền tệ:
- Giá trị các khoản giao dịch,.
- Lãi suất tiền gửi.
- Tập quán, thói quen của dân chúng trong việc sử dụng tiền.
- Thu nhập của dân chúng thay đổi.
- Sự ổn định của nền kinh tế và hệ thống chính trị.
b. Cung tiền tệ
Cung tiền tệ là việc tạo ra và đưa vào lưu thơng tổng phương tiện đóng vai trò tiền để
đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền trong nền kinh tế.
Các tác nhân cung ứng tiền bao gồm:
* Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng trung ương là một tổ chức được phát hành tiền vào lưu thông thông qua
những con đường sau:
- NHTW cung ứng tiền bằng con đường tín dụng dựa trên nhu cầu luân chuyển hàng hoá
và dịch vụ trong nền kinh tế. Tức là tái chiết khấu, cầm cố các giấy tờ có giá và quy định hạn

mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian tài chính.
- Mua chứng khốn Chính phủ trong nghiệp vụ thị trường mở.
- Mua vàng và ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
- Phát hành tiền vào lưu thông thông qua NHTW, tức là in tiền khi NSNN bị thiếu hụt.
Tuy nhiên, trường hợp này rất nguy hiểm và dễ gây lạm phát cao.
* Các ngân hàng thương mại
Các NHTM không được cung ứng tiền mặt mà chỉ tạo ra bút tệ thông qua các nghiệp vụ:

13


- Cho khách hàng vay quá nguồn vốn của mình dưới dạng bút tệ. Các NHTM cho khách
hàng vay bằng hình thức chiết khấu, cầm cố các thương phiếu, các giấy tờ có giá khác, hoặc
bằng tín chấp,… Tổng hợp lại, tại một thời điểm nào đó, tổng giá trị các khoản cho vay này, có
thể vượt quá nguồn vốn hiện có của NHTM đã góp phần làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu
thông.
- Cho khách hàng thấu chi: NHTM cho phép khách hàng thấu chi vượt quá số dư thực
có trên tài khoản tiền gửi trong một giới hạn thoả thuận đã ghi trong hợp đồng, như: xử lý
chứng từ thanh tốn địi tiền khách hàng bằng cách ghi “Có” trước, ghi “Nợ” sau. Thực chất
NHTM đã ứng tiền trước cho khách hàng chi tiêu, giống như cho vay không đảm bảo. Hoặc là
cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
* Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Các tổ chức này bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức, … Họ cung ứng tiền
qua những phương tiện truyền tải giá trị như: thương phiếu, cơng trái, tín phiếu kho bạc…
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức cung tiền tệ: Cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế do
NHTW quyết định thơng qua chính sách tiền tệ và bị ảnh hưởng bởi các nhân tố dưới đây
- Chỉ số trượt giá và tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ.
- Mức độ thâm hụt ngân sách nhà nước, thu không đủ chi.
- Mức độ thâm hụt cán cân thanh tốn.

1.1.2.3. Vận dụng quy luật lưu thơng tiền tệ
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông = H/V = (Q*P)/V
Các nhân tố tác động đến khối lượng tiền cần thiết: P, V, Q.
- Khối lượng hàng hoá, dịch vụ sản xuất hoặc cung cấp (Q): Khi nhà đầu tư tiến hành
sản xuất kinh doanh thì cầu tiền sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu tiền đó các ngân hàng sẽ cung ứng
cho các nhà đâu tư trước khi có hàng hố. Như vậy, nhu cầu tiền phụ thuộc vào yếu tố giao
dịch mua bán phát sinh chứ khơng phụ thuộc vào khối lượng hàng hố có thực trong nền kinh
tế.
- Giá cả hàng hoá, dịch vụ (P): Khi nhu cầu mua sắm, đầu tư tăng thì cầu tiêề sẽ tăng,
nhưng cung tiền không tăng nên giá cả sẽ tăng và có thể dẫn đến sự khan hiếm, hạn chế sự phát
triển sản xuất. Vì vậy, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì nên cung ứng thêm tiền để đáp
ứng nhu cầu tiền khi giá cả tăng.
- Tốc độ lưu thông của tiền (V): Trong điều kiện sản lượng không tăng nhưng tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng nhanh thì sẽ làm cho khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông giảm xuống và
ngược lại. Tuy nhiên theo quy luật lưu thơng tiền tệ thì điều kiện kinh tế tăng trưởng ổn định
mà đốc độ lưu thơng tiền tệ càng tăng thì sẽ kích thích nền kinh tế phát triển.
1.1.2.4. Các khối tiền trong lưu thông
a. Các khối tiền

14


Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện được chấp nhận là trung gian
trao đổi với mọi hàng hoá và dịch vụ tại một thị trường nhất định và trong một thời gian nhất
định.
Các khối tiền trong lưu thông bao gồm:
- Khối tiền giao dịch - M1: là những phương tiện có “tính lỏng” cao nhất. Bao gồm tiền
mặt, vàng, ngân phiếu thanh toán, séc, tiền gửi khơng kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng.
“Tính lỏng” còn gọi là độ thanh khoản là khả năng thanh toán hay chi trả nhanh hay
chậm của các phương tiện.

- Khối lượng tiền mở rộng – M2 :
M2 = M1 + các loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn
- Khối tiền tài sản – M3:
M3 = M2 + thương phiếu, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu và trái khốn khác.
- Tổng lượng tiền trong lưu thông – Ms:
Ms = M3 + các phương tiện trao đổi khác.
b. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn)
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền đáp ứng nhu cầu lưu thơng
hàng hố của nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định.
Mn phụ thuộc vào tổng mức chu chuyển hàng hoá và tốc độ lưu thơng bình qn của
tiền. Để kiểm sốt sự cân bằng tiền – hàng trong lưu thông người ta so sánh hai đại lượng Mn
và Ms.
Nếu Ms/Mn = 1 hay Ms = Mn: thì lượng tiền cung ứng bằng lượng tiền cần thiết trong
lưu thông. Đây là hiện tượng lý tưởng mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng muốn có, nó phản ánh sự
cân bằng lý tưởng của quản lý tiền tệ và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Nếu Ms/Mn > 1 hay Ms > Mn: thì lượng tiền cung ứng lớn hơn lượng tiền cần thiết
trong lưu thông hay sự thừa tiền gây lạm phát trong lưu thông.
Nếu Ms/Mn < 1 hay Ms < Mn: thì lượng tiền cung ứng nhỏ hơn lượng tiền cần thiết trong lưu
thông hay sự thiếu tiền trong lưu thông gây thiểu phát, đình trệ sản xuất vì thiếu phương tiện
lưu thơng.
1.1.3. Lạm phát, thiểu phát và các biện pháp ổn định tiền tệ
1.1.3.1. Lạm phát
a. Định nghĩa
Thuật ngữ “lạm phát” chỉ sử dụng riêng trong lĩnh vực lưu thơng tiền giấy. Cịn tiền tín
dụng, theo đúng nghĩa của nó thì khơng có lạm phát.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó khối
lượng tiền thực tế đưa vào lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông làm
cho giá cả của hàng hoá tăng lên một cách liên tục và kéo dài, dẫn đến đồng tiền của quốc gia
bị mất giá so với vàng và ngoại tệ.
15



Lạm phát là một hiện tượng kinh tế động, gắn liền với sự biến đổi cung tiền và chỉ số giá
cả. Nếu giá cả tăng lên so với thời gian trước, sau đó đứng yên, và giữ ở mức cao trong một
thời gian dài, đó là hiện tượng lạm phát ỳ. Còn nếu giá cả lại giảm xuống liên tục, đó là hiện
tượng giảm phát.
b. Phân loại lạm phát
* Căn cứ vào cường độ lạm phát:
Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) là loại lạm phát mà giá cả hàng hóa tăng chậm
ở mức một con số hay dưới 10% một năm.
Loại lạm phát này thường thấy ở các nước phát triển. Nguyên nhân của loại lạm phát
này có thể do:
Hiện tượng kinh tế tự nhiên như sút giảm sản lượng lương thực, khắc phục hậu quả thiên
tai,…
Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu phát triển kinh tế vĩ mô như tăng lương, tăng giá thu mua
nông phẩm, khởi cơng những cơng trình quốc gia, …
Hoặc do Chính phủ duy trì mức lạm phát này với mục đích riêng.
Lạm phát vừa phải không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội. Thậm chí nó
cịn có tác động kích thích nền kinh tế phát triển năng động hơn.
Lạm phát phi mã là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu tăng lên từ 2,3 con số:
20%, 30%, 80% hoặc 100%.
Thông thường lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu
khơng có biện pháp khắc phục kịp thời thì lạm phát này sẽ là cơ sở dẫn đến lạm phát cao hơn.
Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng lên gấp nhiều lần so với lạm
phát phi mã. Đồng tiền lúc này khơng cịn hiệu lực hay giá trị nữa.
Loại lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phá vỡ hầu hết các quan
hệ cân đối kinh tế quốc dân. Nếu khơng có những giải pháp đột phá thì khơng thể khắc phục
được tình trạng siêu lạm phát.
Bảng 1.1. Tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát ở Việt nam giai đoạn 1986-2000
Năm


86

87

88

89

90

91

92

93

94

95

96

97

98

99

00


Tăng
trưởng(%)

2,33

3,78

5,1

8

0,1

6

8,6

8,08

8,83

9,54

9,34

8,15

5,76


4,77

6,8

Lạm phát(%)

748

223,1

394

34,7

67,4

67,6

17,6

5,2

14,4

12,7

4,5

3,6


9,2

0,1

0,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê - 2015
Bảng 1.2. Tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát ở Việt nam giai đoạn 2000-2015

16


Năm

01

02

03

04

05

06

07

08


09

10

11

12

13

14

15

Tăng
trưởng(%)

6,9

7,08

7,34

7,79

8,44

8,23

8,46


6,31

5,32

6,78

5,89

5,25

5,42

5,98

6,68

Lạm
phát(%)

0,8

4

3

9,5

8,4


6,6

12,6

18,89

6,52

11,75

18,6

6,8

6,04

4,09

0,63

Nguồn: Tổng cục Thống kê – 2015
Câu hỏi: Qua số liệu được trình bày ở 2 bảng trên, hãy cho biết Việt Nam đã trải qua lạm phát
vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát ở những năm nào?
HỘP 1.2. Một số trường hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất từng xảy ra trong lịch sử
1. Hy Lạp: tháng 10/1944
Tháng lạm phát cao nhất: 13.800%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi 4,3 ngày
Lạm phát ở Hy Lạp bắt đầu vào tháng 10/1943 khi quân đội Đức đang chiếm đóng nước
này trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tuy nhiên, lạm phát trở nên trầm trọng nhất là
vào tháng 10/1944 khi chính quyền lưu vong Hy Lạp giành lại quyền kiểm soát Athen.

Giá cả đã tăng 13.800% vào thời điểm đó và tăng 1.600% vào tháng 11.
Năm 1938, trung bình người Hy Lạp giữ tiền trong khoảng 40 ngày rồi mới đem tiêu,
nhưng vào ngày 10/11/1944, con số này co lại chỉ còn 4 giờ. Năm 1942, mệnh giá lớn
nhất của đồng drachma Hy Lạp là 50.000, nhưng vào năm 1944, con số này là 100 nghìn
tỷ. Ngày 11/11/1944, chính phủ Hy Lạp đã phải định giá lại đơn vị tiền tệ của mình và đổi
đồng drachma cũ sang đồng tiền mới với tỷ lệ 50 tỷ : 1. Tuy nhiên, đại bộ phận dân chúng
vẫn dùng đồng bảng Anh như một đơn vị tiền tệ khơng chính thức cho đến giữa năm
1945.
Nguyên nhân chính của cuộc siêu lạm phát này là chiến tranh. Cuộc chiến này đã làm Hy
Lạp ngập chìm trong nợ nần, thương mại bị đình trệ và chịu 4 năm bị chiếm đóng. Năm
tài chính 1939, Hy Lạp thặng dư ngân sách là 271 triệu drachma, nhưng khoản tiền này
nhanh chóng chuyển thành thâm hụt 790 triệu USD vào năm 1940, chủ yếu do suy giảm
thương mại và sản xuất công nghiệp thiếu nguyên liệu thơ hiếm cộng với các khoản chi
ngồi dự tính cho quân sự. Thâm hụt ngân sách còn gia tăng do ngân hàng trung ương Hy
Lạp liên tục rút tiền, hành động này đã làm cung tiền trên thị trường tăng gấp đơi chỉ sau 2
năm.
Các nỗ lực bình ổn giá bắt đầu phát huy tác dụng từ tháng 1 đến tháng 5/1945, giá chỉ tăng
140%, nhờ nhà kinh tế học kiệt xuất Kyriakos Varvaressos. Thậm chí sang tháng 6/1945,
Hy Lạp còn giảm phát tới 36,8% vào tháng 6/1945 . Tuy nhiên, kế hoạch tăng viện trợ từ
nước ngồi, khơi phục sản xuất trong nước và tăng cường kiểm soát lương và giá cả thông
qua việc phân phối lại của cải lại làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt ngân sách của
Hy Lạp, vì vậy, Varvaressos đã phải từ chức vào ngày 1/9.
Sau cuộc nội chiến 1945-1946, nước Anh đề xuất một kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao
17


gồm tăng doanh thu từ việc bán hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải
thiện phương pháp thu thuế và thành lập một Ủy ban tiền tệ ( gồm 3 bộ trưởng Hy Lạp,
một người Anh và 1 người Mỹ) để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Vào đầu năm
1947, giá cả được bình ổn, niềm tin người tiêu dùng được phục hồi và thu nhập người dân

được nâng cao, chính thức đưa Hy Lạp thoát khỏi lạm phát phi mã.
2. Đức: tháng 10/1923
Tháng lạm phát cao nhất: 29.500%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 3,7 ngày
Đồng mác Đức (papiermark) được sử dụng từ năm 1914 khi chế độ bản vị vàng bị bãi bỏ.
Tỷ giá với đồng USD ban đầu ở mức 4,2 mác/USD khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng
nổ. Tuy nhiên, tháng 8/1923, người ta phải bỏ ra 1 triệu mác Đức để đổi USD. Và đến
tháng 11/1923, con số này đã tăng lên 238 triệu mác. Đó là thời điểm xuất hiện sự rối loạn
tâm lý mang tên “Zero Stroke” khi người dân Đức phải giao dịch với lượng tiền trị giá đến
hàng trăm tỷ mác Đức mỗi ngày và chóng mặt với hàng dãy số 0 tưởng như bất tận.
Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng mác và thay đồng papiermark
bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và cắt bớt 12 số 0 trên tờ tiền
papiermark. Mặc dù đồng rentenmark đã bình ổn kinh tế một cách khá hiệu quả và chính
phủ cộng hòa Weimar vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 1933, nhưng siêu lạm phát và
những áp lực kinh tế mà nó gây ra đã góp phần cho sự nổi lên của đảng Nazi và Adolf
Hitler.
Dù rất nhiều người tin rằng lạm phát phi mã ở Đức là hệ quả trực tiếp từ việc chính phủ in
quá nhiều tiền để chi cho chiến tranh, nhưng nguyên nhân chính của việc này đã được hé
lộ sau đó vài năm.
Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu đi vay để chi
trả cho chiến tranh thay vì thu thuế. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi và nước
Đức thất trận. Thế nhưng giai đoạn 1919 - 1921, đồng tiền nước này vẫn còn tương đối ổn
định so với những năm sau đó.
Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức
phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng papiermark. Để mua số ngoại tệ
này, chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ
và vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.
Khi người Đức không thể trả được các khoản nợ, quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm thung
lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để đòi hỏi Đức phải trả bằng hiện vật. Việc này đã gây ra rất
nhiều vụ đình cơng và phản kháng bị động của công nhân tại đây và làm cho mọi việc trở

nên tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc tìm ra cách tốt nhất để
giải quyết tình trạng này, thì nền kinh tế Đức đã nhanh chóng suy sụp. Và chỉ trong vịng
hơn 1,5 năm cả nước Đức đã chìm trong lạm phát phi mã.
3. Yugoslavia: tháng 1/1994
Tháng lạm phát cao nhất: 315.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 1,4 ngày
18


Một trường hợp siêu lạm phát nữa đã xảy ra với đồng dinar của Yugoslavia trong khoảng
thời gian 1993 – 1995. Đỉnh điểm của cuộc lạm phát này là vào tháng 1/1994 khi giá cả
tăng 313 triệu phần trăm trong vòng một tháng - tương đương 64,6% mỗi ngày với giá
tăng gấp đơi chỉ sau 34 giờ. Trong tồn bộ thời kỳ lạm phát, ước tính giá cả tăng khoảng 5
triệu tỷ lần.
Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp Yugoslavia đã từ chối sử dụng đồng dinar và đồng mác
Đức (DM) trở thành đơn vị tiền tệ khơng chính thức của nước này, ngay cả sau khi chính
phủ tái định giá đồng dinar bằng việc đổi 1 triệu dinar cũ sang 1 dinar mới. Theo một
nghiên cứu của giáo sư Thayer Watkins đến từ đại học bang San Jose, vào ngày
12/11/1993, 1 mác Đức = 1 triệu dinar mới. Và vào ngày 15/12, 1 mác Đức đã tương
đương 3,7 tỷ dinar. Còn đến cuối tháng thì tỷ lệ này đã trở thành 1 mác Đức = 3 nghìn tỷ
dinar.
Sau lần định giá thứ hai, 1 dinar “mới của mới” tương tương 1 tỷ dinar “mới của cũ” và 1
mác Đức đổi được 6.000 dinar. Ngày 17/01/1994, tỷ giá vọt lên tới 1 mác Đức = 30 triệu
dinar; đến ngày 24/01, chính phủ đã phải đưa ra đồng “siêu” dinar tương đương 10 triệu
dinar “mới của mới”, đây chính là lần tái định giá thứ 5.
Trong suốt giai đoạn này, chính phủ đã phải trải qua một thời kì vơ cùng khó khăn khi
phải duy trì cấu trúc xã hội sau hàng loạt các biện pháp kiểm sốt giá cả khơng hiệu quả.
Các cơ quan chính phủ gần như khơng thể hoạt động và người dân thì khơng chịu trả hóa
đơn đúng hạn bởi họ biết tiền sẽ mất giá rất nhanh sau đó.
Ngun nhân đằng sau lạm phát của Yugoslavia chính là từ những xung đột trong khu

vực, khủng hoảng kinh tế và những chính sách quản lý kém hiệu quả của chính phủ.
Sau cuộc suy thối mang đậm dấu ấn của những khoản vay nước ngồi khổng lồ và đình
trệ xuất khẩu vào thập niên 1970, Yugoslavia đã ngập chìm trong xung đột và đấu tranh
chính trị trong suốt những năm 80 và 90. Trong hai năm 1989 và 1990, sau khi nhận
khoản vay từ IMF, khoảng 1.100 công ty tại đây đã bị phá sản, kéo theo hơn 600 nghìn
trên tổng số 2,7 triệu lao động bị sa thải. Ngoài ra, một số công ty đã quyết định không trả
lương cho công nhân trong những tháng đầu năm để tránh phá sản. Việc này đã làm ảnh
hưởng đến khoảng 500 nghìn người.
Chiến tranh Yugoslav, sự tan rã và mất ổn định của chính phủ là những nguyên nhân
chính gây lạm phát phi mã. Sự quản lý yếu kém của chính phủ, bao gồm cả việc nhận thức
kém về các chính sách kinh tế khi cho in tiền khơng kiểm sốt, làm thâm hụt ngân sách
ngày càng trầm trọng và áp đặt giá cả làm tình hình trở nên ngày càng tồi tệ.
Chính phủ áp đặt giá cả ở mức quá thấp và người dân khơng thể có lợi nhuận từ việc bán
nơng sản, hậu quả là, họ đóng cửa hàng để bảo vệ hàng hóa của mình. Cịn chính phủ thì
thay vì gỡ bỏ kiểm sốt giá cả, họ lại mua hàng từ nước ngoài. Nguồn cung giảm mạnh
khiến giá cả nhanh chóng tăng vọt
Câu hỏi: Căn cứ vào những thông tin đưa ra trong hộp 2.1, cho biết những ảnh hưởng của siêu
lạm phát đối với nền kinh tế?
* Căn cứ vào mức độ biểu hiện của giá cả trên thị trường:
- Lạm phát ngầm: là loại lạm phát kiềm chế, giá cả tăng chậm, lan dần và lành mạnh,
không ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
19


- Lạm phát công khai: là lạm phát mà giá cả tăng nhanh rất dễ thấy, ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế.
* Căn cứ vào tác động của lạm phát đối với nền kinh tế:
- Lạm phát cân bằng và có dự đốn trước: giá cả tăng với tốc độ giống nhau, tỷ lệ tăng
của giá cả được Chính phủ, Nhà nước dự đốn và có kế hoạch xử lý trước.
- Lạm phát không cân bằng: là lạm phát mà giá cả thay đổi nhanh và không giống nhau.

c. Nguyên nhân và hậu quả của lạm phát
c1. Nguyên nhân gây ra lạm phát
* Lạm phát do cầu kéo
Các hiện tượng kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn đến tăng tổng cung tiền, trong điều
kiện tăng trưởng kinh tế không tương ứng đã dẫn đến lạm phát.
Lạm phát do cầu kéo bắt đầu chủ yếu từ các nguyên nhân:
- Tăng cầu tiền do thâm hụt NSNN
Đó là khi chi NSNN vượt quá nguồn thu tương ứng, như: Chi cho y tế, giáo dục, quốc
phòng; Khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh,…; Giảm thuế; Chi mua ngoại tệ
trong trường hợp cán cân vãng lai bị thâm hụt hoặc nhập hàng hóa khẩn cấp cần thiết cho nhu
cầu quốc gia; Tăng trợ cấp và phúc lợi,
Những nhu cầu trên buộc Chính phủ phải chi là bất khả kháng. Chúng đều tác động đến
sự ổn định kinh tế xã hội. Những khoản chi này dẫn đến thâm hụt NSNN kéo dài mà chưa có
giải pháp khắc phục, buộc Chính phủ phải phát hành tiền do đó dẫn đến lạm phát.
- Tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa
Do tổng cung của một số hàng hóa chủ yếu trên thị trường không thay đổi hoặc giảm
thấp, trong khi đó nhu cầu về những loại hàng hóa này lại tăng lên. Mặc dù giá cả tăng nhưng
dân cư không thể ngừng tiêu dung, họ bắt buộc phải tăng cung tiền. Hiện tượng này sẽ dẫn đến
lạm phát.
* Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí tăng lên dẫn đến các mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát gọi là
lạm phát chi phí đẩy. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát chi phí đẩy:
- Tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội.
- Đầu tư cơ bản kém hiệu quả, thất thoát, lãng phí hoặc cơng trình khơng phát huy hiệu
quả dẫn đến một bộ phận tiền tạm thời thừa.
- Thấu chi qua hệ thống ngân hàng. Hiện tượng này ít nhiều dẫn đến mất cân đối cung
cầu tiền.
- Chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu nhận vốn. Thực chất đây là một khoản
chi khống góp phần tăng cung tiền ra thị trường, mà khơng có hàng hóa đối ứng.
- Ngun liệu đầu vào của một số sản phẩm tăng lên, làm cho giá bán của hàng hóa tăng.

- Sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội.
20


* Hệ thống chính trị khơng ổn định.
Hệ thống chính trị không ổn định dẫn đến việc điều hành kinh tế của Chính phủ khơng
hiệu quả. Nhưng vấn đề quan trọng hơn là dân chúng không tin tưởng vào giấy bạc ngân hàng
hiện hành. Người ta tìm đến hàng hóa quý hiếm, ngoại tệ, vàng,... để dự trữ giá trị. Vì thế giấy
bạc ngân hàng bị đẩy ra lưu thơng nhiều hơn và nó càng mất giá trị nhanh.
c2. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội tùy theo mức độ của
nó.
Đối với lạm phát vừa phải, tạo nên một sự chênh lệch giá hàng hóa giữa các vùng làm
cho thương mại năng động hơn. Các doanh nghiệp vì thế sẽ gia tăng sản xuất, đẩy mạnh cạnh
tranh, đưa ra thị trường nhiều sản phẩm hơn với chất lượng cao hơn. Lạm phát vừa phải làm
cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ, đây là lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu
tăng thu ngoại hối, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Lạm phát vừa phải thường
tương đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Đó là yếu tố buộc người lao động muốn có việc
làm thì phải nâng cao trình độ chun mơn, cạnh tranh chỗ làm việc. Như vậy người sử dụng
lao động sẽ có cơ hội tuyển chọn được lao động chất lượng cao hơn.
Như vậy lạm phát vừa phải có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên để duy trì mức lạm phát này địi hỏi Chính phủ phải tổ chức và quản ly kinh tế vĩ mô hiệu
quả.
Đối với lạm phát phi mã và siêu lạm phát, ảnh hưởng rất xấu đến mọi lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Do giá cả của tất cả các hàng hóa đều tăng cao với tốc độ nhanh và liên tục đã
làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp bị giảm thấp. Vì vậy dẫn đến quy mơ sản xuất bị thu
hẹp, tín dụng giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, đời sống của bộ phận người lao động làm cơng ăn
lương gặp nhiều khó khăn. Tất cả những hiện tượng trên làm cho thu NSNN giảm sút nghiêm
trọng. Để bù đắp sự thiếu hụt này chỉ còn biện pháp duy nhất là phát hành tiền. Tuy nhiên đây
lại là nguyên nhân dãn đến hiện tượng lạm phát. Và như vậy, vịng xốy lạm phát lại được lặp

lại ở mức độ cao hơn.
d. Biện pháp ổn định tiền tệ chống lạm phát
d1. Những biện pháp cấp bách
Thứ nhất, Ngừng phát hành tiền vào lưu thơng. Đây là chính sách “ đóng băng tiền tệ”.
Mục đích là khơng làm tăng lượng tiền mặt trong lưu thông.
Thứ hai, Tăng lãi suất tiền gửi để hút tiền mặt từ lưu thông vào hệ thống ngân hàng,
giảm sức ép với hàng hoá trên thị trường. Cần phải phối hợp giữa ngân hàng thương mại, ngân
hàng trung ương và ngân sách nhà nước.
Tuy vậy, khi tăng lãi suất thì có thể các doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ chuyển vốn của
mình vào ngân hàng, làm cho đầu tư giảm, sức sản xuất giảm, hàng hoá giảm và giá cả hàng
hoá lại tăng.
Thứ ba, Cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết từ ngân sách nhà nước: y tế, văn
hoá, du lịch, giảm áp lực phát hành tiền cho chi tiêu ngân sách. Đây được gọi là thi hành chính
sách tài chính thắt chặt.
Thứ tư, Bán ngoại tệ, vàng để hút tiền mặt từ lưu thông vào ngân hàng.
21


Thứ năm, Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng hàng rào thuế quan, nhằm mục đích
tăng hàng hố từ nước ngồi vào, giảm sức ép hàng hố nội địa, tăng lượng hàng hoá trong
nước nhằm tạo ra thế cân bằng giữa hàng hoá và tiền tệ. Nhưng biện pháp này rất dễ gây ra tác
dụng ngược là hàng ngoại lấn át hàng nội.
d2. Các biện pháp chiến lược
Là những biện phát có tác dụng lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhằm
tạo ra sức mạnh kinh tế cho đất nước, xác định cơ chế tiền tệ vững chắc, ổn định.
Thứ nhất, Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá của nền
kinh tế quốc dân với nguyên lý sản xuất hàng hố là tiền đề cho lưu thơng tiền tệ và kết hợp
nhuần nhuyễn giữa kế hoạch và thị trường.
Thứ hai, Tạo ngành sản xuất hàng hoá mũi nhọn cho xuất khẩu nhằm thu hút về những
khoản ngoại tệ cho quốc gia.

Thứ ba, Cắt giảm biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính, tức là cắt giảm những khoản
chi từ NSNN.
Thứ tư, Xem xét thường xuyên chính sách thu chi NSNN, tăng nguồn thu, cắt giảm chi,
ổn định ngân sách.
Thứ năm, Lạm phát để chống lạm phát: Nhà nước vẫn tiếp tục cung ứng tiền vào trong
lưu thông mở rộng đầu tư và hy vọng đạt được kết quả kinh tế trong tương lai. Biện pháp này
chỉ áp dụng cho những quốc gia có tiềm lực mạnh về khoa học, kỹ thuật về các yếu tố sản xuất
và trình độ quản lý.
1.1.3.2. Giảm phát
Giảm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giá cả tổng qt của hàng hố giảm xuống
liên tục trong cả một thời kỳ dài.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng giảm phát
- Do việc thắt chặt cung ứng nội tệ và tăng lãi suất để thu tiền từ lưu thông nhưng lại quá
lượng tiền thừa.
- Hàng hoá trong nước tăng nhiều hơn nhu cầu.
- Thu nhập của người tiêu dùng giảm.
- Do hiệu ứng dây chuyền: khi Nhà nước dùng chính sách thuế để giảm phát thì nó có
thể lạm thay đổi cơ cấu tiêu dùng và từ đó làm giảm giá cả hàng hố.
- Ngun nhân từ bên ngồi: do tình trạng phá giá đồng ngoại tệ của một số quốc gia,
làm xuất trong nước giảm xuống, nhập khẩu tăng.
Hậu quả của giảm phát
Nếu giảm phát được hình thành từ kết quả tự nhiên của việc chống lạm phát thì đó là lợi
ích của việc kiềm chế thành công lạm phát hoặc giảm phát do giảm chi phí sản xuất nhờ khoa
học cơng nghệ thì có lợi cho việc phát triển kinh tế.
- Tuy nhiên, giảm phát ảnh hưởng đến mức cầu giảm đột ngột, giá cả giảm nhanh, hàng
hoá thừa sẽ tác động xấu đến nền kinh tế: giảm lượng hàng hoá sản xuất, giảm tiền lương, việc
22


làm dẫn đến thất nghiệp, nền kinh tế từ đó bị thu hẹp, suy thoái, khủng hoảng hệ thống ngân

hàng.
- Xét tồn cảnh nền kinh tế thì giảm phát, thiểu phát tạo ra một vịng xốy luẩn quẩn : hạ
giá  tăng dịch vụ nợ  giảm tiêu dùng và tăng dư thừa công suất  tăng thất nghiệp và
giảm thu nhập  giảm tiêu dùng  giảm cầu và tiếp tục hạ giá …
1.1.3.3. Vận dụng các biện phát ổn định tiền tệ trong điều kiện của Việt Nam hiện nay
- Cần có giải pháp thích hợp để cân bằng vững chắc NSNN, thông qua các quy định cụ
thể như
+ Hạn chế thất thu, thất thoát NSNN qua mọi kênh, mọi hình thức: bằng cách hồn thiện
chính sách thuế (đặc biệt là thuế GTGT) và tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
+ Kiên quyết hạn chế in tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN.
- Củng cố và phát triển các thành phần kinh tế.
+ Sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước, cổ phẩn hoá doanh nghiệp để tiết kiệm
vốn đầu tư phát triển kinh tế.
+ Phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh, huy động mọi nguồn vốn cho xã hội.
- Khuyến khích hoạt động xuất khẩu.
+ Huy động tối đa tiềm năng xuất khẩu, nhập khẩu những hàng hố nội địa cịn thiếu để
ổn định đồng nội tệ: hoàn thiện cơ cấu xuất khẩu và chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
+ Đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ ngoại thương, mở rộng thị trường và khôi
phục thị trường truyền thống.
+ Tham gia ký kết các hiệp định về thuế, thương mại với các tổ chức kinh tế thế giới,
khu vực để bảo vệ sản xuất trong nước và tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
- Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và phát triển thị trường vốn để thúc đẩy kinh tế phát
triển: đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, ngân hàng trung ương độc quyền điều hành chính
sách tiền tệ, phát triển thị trường vốn…
1.2. Những vấn đề cơ bản về tài chính
1.2.1. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính
1.2.1.1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ
Nền sản xuất hàng hoá cũng có lịch sử phát sinh và phát triển từ nền sản xuất tự cung tự
cấp sang sản xuất hàng hố có q trình chuyển biến lâu dài. Nền sản xuất hàng hố phát triển
tới một mức nào đó đã dẫn đến sự xuất hiện của tiền tệ nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi tất

yếu của xã hội. Chính sự xuất hiện của tiền tệ đã tạo nên cuộc cách mạng trong công nghệ phân
phối: từ phân phối bằng vật chất sang phân phối bằng giá trị. Đây là tiền thân phân phối của Tài
chính.
Khi những của cải xã hội được biểu hiện dưới dạng giá trị và sự phân phối nó đã hình
thành nên thuật ngữ: Nguồn tài chính. Khái niệm này gắn liền với nền sản xuất hàng hố - tiền tệ
và nó đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.

23


Sự phát triển của quan hệ sản xuất hàng hoá - tiền tệ ngày càng đa dạng đã thúc đẩy và
làm cho các hoạt động Tài chính diễn ra khơng ngừng đa dạng và phức tạp hơn, tiến lên những
bước phát triển cao hơn và chính sự phát triển của Tài chính đã góp phần tích cực cho sự phát
triển của hoạt động kinh tế - xã hội. Đó là mối quan hệ biện chứng.
1.2.1.2. Tiền đề Nhà nước
Khi phân công lao động xã hội tạo ra sự phân chia giai cấp mạnh mẽ và thúc đẩy nhanh
sự ra đời của Nhà nước. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử cho thấy Nhà nước đóng vai trị quan
trọng, tác động đến sự tồn tại và phát triển của Tài chính. Cụ thể:
Khi Nhà nước ra đời với tư cách là người có quyền lực chính trị, đã nắm lấy việc in tiền,
đúc tiền và quy định chế độ lưu thong tiền tệ trên cơ sở quy định hiệu lực pháp lý của đồng tiền
và tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thơng qua việc quy định chính sách, chế độ tài chính như thu thuế, phát hành cơng trái
… dưới hình thức tự nguyện hay bắt buộc Nhà nước đã tham gia trực tiếp vào việc huy động,
phân phối và sử dụng một bộ phận quan trọng của cải xã hội để đảm bảo cho việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ của mình và tạo nên quỹ tiền tệ của Nhà nước (Ngân sách Nhà nước).
Việc phân phối các nguồn tài chính trong xã hội ở các chủ thể khác nhau bao giờ cũng
phải tuân theo những chính sách, chế độ chung của Nhà nước. Tuỳ theo yêu cầu quản lý trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
quan hệ phân phối tài chính.
Trong nền sản xuất tự cung tự cấp, quỹ Tài chính cơng chỉ phục vụ cho chính trị vì Nhà

nước tách biệt hoạt động chính trị và hoạt động kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ
sản xuất hàng hoá - tiền tệ phát triển, quan hệ tài chính thay đổi và phát triển hơn đã xuất hiện
các bộ phận tài chính cơng phục vụ cho quản lý kinh tế.
Kết luận: Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của Tài chính là xuất phát từ sự ra đời và
phát triển của quan hệ sản xuất hàng hố - tiền tệ có sự điều tiết, quản lý hay can thiệp của Nhà
nước.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các tiền tề:
- Tiền đề sản xuất hàng hoá - tiền tệ: Nhà nước phải tạo điều kiện cho nền sản xuất hàng
hoá - tiền tệ phát triển.
- Tiền đề Nhà nước: Nhà nước tạo hành lang pháp lý có chính sách phù hợp đẩy mạnh
sự phát triển của các quan hệ tài chính.
1.2.2. Bản chất của Tài chính
1.2.2.1. Biểu hiện bên ngồi của Tài chính
* Biểu hiện bên ngồi của tài chính: Là sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài
chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Nhận diện Tài chính trên bề mặt xã hội
là:
+ Các nguồn tài chính
+ Các quỹ tiền tệ
+ Những hiện tượng thu - chi bằng tiền gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
24


* Nguồn tài chính:
- Khái niệm: Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể
khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình.
- Đặc điểm:
+ Nguồn tài chính là tiền tệ đang trong quá trình vận động từ chủ thể này sang chủ thể
kia gắn liền với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ.
+ Sự vận động của các nguồn tài chính là độc lập vì mang tính tất yếu khách quan, xuất
phát từ yêu cầu của các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong nền kinh tế. Mặt khác vì được thực

hiện thơng qua cơ chế do con người quy định nên tính độc lập chỉ có ý nghĩa tương đối (biểu
hiện mức độ, phạm vi vận động của nguồn tài chính là do con người chi phối).
* Quỹ tiền tệ:
- Khái niệm: Quỹ tiền tệ là một lượng nhất định các nguồn tài chính đã huy động được
để sử dụng cho một mục đích nhất định.
- Đặc điểm:
+ Quỹ tiền tệ luôn mang biểu hiện các quan hệ sở hữu: Quá trình phân phối bao giờ
cũng chịu sự chi phối của quyền sở hữu - một yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất - xã hội. Việc
sử dụng các quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc vào quyền sở hữu, tuỳ thuộc vào nguyên tắc sử dụng, ý
chí chủ quan của người sở hữu trong q trình phân phối.
+ Quỹ tiền tệ ln mang tính mục đích: Phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích sử
dụng cuối cùng là tích luỹ hoặc tiêu dùng. Có cả những quỹ tiền tệ trung gian được hình thành
và sử dụng có thời hạn cho việc hình thành các quỹ tiền tệ có mục đích sử dụng cuối cùng
khác.
+ Quỹ tiền tệ thường xuyên vận động: biểu hiện ở chỗ quỹ tiền tệ luôn luôn được tạo lập
và sử dụng. Sự vận động của các nguồn tài chính ln tạo ra quỹ tiền tệ và sử dụng quỹ tiền tệ.
* Hình thức biểu hiện bên ngồi của tài chính ln gắn chặt với nội dung vật chất bên
trong của tài chính là các quỹ tiền tệ nhất định.
1.2.2.2. Nội dung kinh tế - xã hội của Tài chính
Nội dung kinh tế - xã hội của Tài chính là các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị
nảy sinh thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, liên quan đến nhiều chủ thể khác
nhau trong đời sống kinh tế - xã hội (biểu hiện lợi ích và nhu cầu khác nhau của nhiều chủ thể
kinh tế - xã hội). Đó chính là các quan hệ tài chính.
Nội dung vật chất và nội dung kinh tế - xã hội của phạm trù Tài chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Tính mục đích của quỹ tiền tệ được thực hiện thông qua
các quan hệ kinh tế - xã hội nhất định. Ngược lại, việc giải quyết các quan hệ kinh tế - xã hội
thông qua hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị làm chuyển dịch các nguồn tài chính gắn
với việc tạo lập và sử dụng các Quỹ tiền tệ.
1.2.2.3. Khái niệm và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu bản chất tài chính
a. Khái niệm Tài chính


25


Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội.
Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính
thơng qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong xã hội.
b. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu bản chất Tài chính
Tài chính và phạm trù giá trị khác như: tiền tệ, giá cả, tiền lương có quan hệ gần gũi
nhưng có sự khác nhau về bản chất:
- Phân biệt tài chính và tiền tệ: Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt, là vật ngang giá chung trong
quan hệ trao đổi hàng hoá, tiền có 5 chức năng. Tài chính là phương thức vận động của tiền tệ
với 2 chức năng thanh toán và cất trữ. Đặc trưng riêng của phạm trù tài chính trong lĩnh vực
phân phối là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau.
- Phân biệt tài chính với giá cả: Đặc trưng của phân phối tài chính là luôn kéo theo sự
dịch chuyển về giá trị gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế xã hội khác nhau, đó là sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ. Phạm trù giá cả là việc dịch
chuyển giá trị khơng xảy ra vì giá cả xuất hiện trong trao đổi ngang giá giá trị mà người mua và
người bán có được đều được bảo tồn, chỉ khác nhau về hình thái từ T - H và H - T.
- Phân biệt tài chính và tiền lương: có quan hệ gắn bó chặt chẽ nhưng khơng hồn tồn
trùng nhau, tài chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động của tiền
lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động.
1.2.3. Chức năng của Tài chính
1.2.3.1. Chức năng phân phối
* Khái niệm: Chức năng phân phối là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực đại
diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau, đảm bảo những
nhu cầu, những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
* Đối tượng của phân phối: là các của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các
nguồn tài chính có trong xã hội.
Nguồn tài chính bao gồm các bộ phận:

+ Bộ phận của cải mới sáng tạo ra trong kỳ - GDP.
+ Bộ phận của cải còn lại từ thời kỳ trước (phần tích luỹ của cải xã hội và dân cư)
+ Bộ phận tài nguyên, tài sản quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán.
Hình thức tồn tại của các nguồn tài chính: hữu hình tồn tại ở dạng giá trị hoặc hiện vật
và hình thức vơ hình như: dữ liệu, thơng tin, phát minh, sáng chế …
* Chủ thể của phân phối: là Nhà nước, doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội. Là các
chủ thể kinh tế xã hội xuất hiện với những tư cách sau:
+ Chủ thể có quyền sở hữu các nguồn tài chính.
+ Chủ thể có quyền sử dụng các nguồn tài chính.
+ Chủ thể có quyền lực chính trị: như Nhà nước.
+ Chủ thể có sự ràng buộc các quan hệ xã hội: các tổ chức chính trị, xã hội.
26


×