Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận chính trị Cao đẳng kinh tế đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.92 KB, 31 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

BÀI TIỂU LUẬN MƠN CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ NHÂN TỐ QUYẾT
ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN:

HỌ VÀ TÊN:
MSSV:
LỚP:


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử nước ta kể từ ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là lịch sử đấu tranh
cách mạng không ngừng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng để giành lại độc lập tự
do, khôi phục và xây dựng lại đất nước thống nhất theo con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta, phát huy truyền thống chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, các phòng trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
và hệ tư tưởng tư sản chống Pháp diễn ra ở khắp nơi. Nhưng rút cục các phong trào
đó đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là các cấp lãnh đạo hoặc không đủ tư cách
lãnh đạo hoặc đã hết vai trò lịch sử.
Đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại
của cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là kết quả của những điều kiện khách quan
và chủ quan của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới.
Là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị về
hệ tư tưởng chính trị tổ chức tập thể chiến sỹ cách mạng, là một sự sàng lọc và lựa
chọn nghiêm khắc của lịch sử Việt Nam qua nhiều năm nhiều thập kỉ đấu tranh của
dân tộc Việt Nam, từ khi bị mất nước rơi vào tay đế quốc thực dân Pháp. Đảng


cộng sản Việt Nam với đường lối lãnh đạo đúng đắn, khoa học, phù hợp với qui
luật của cách mạng Việt Nam, cùng với lí luận Mac-LeNin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
là kim chỉ nam đã dẫn dắt nhân dân ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong
cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước
và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đường lối đúng
đắn của đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng”. Đất
nước ta ngày nay ngày càng giàu mạnh và đang khẳng định vị thế trên trường quốc
tế. Do vậy việc nghiên cứu và khẳng định: “Sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam” là việc làm hết
sức quan trọng đối với lớp trẻ và đặc biệt là sinh viên Việt Nam - những người chủ
tương lai của đất nước.
Để họ thấy được công lao to lớn của đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ dân tộc Việt Nam. Từ đó giúp lớp trẻ ngày nay thấy
được trách nhiệm của mình trong việc xây dựng và bảo vệ đảng, cũng như thấy
đựoc trách nhiệm phải góp phần xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, mà nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Viêt Nam đã đổ bao xương máu mới
giành được.


I.

Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG

1. Tình hình thế giới và Việt nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
a) Tình hình thế giới:
Tình hình thế giới Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra u cầu bức thiết về thị
trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược

các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu
thụ sảnphẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất
khẩu tư bản của các nước đế quốc.
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu
vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các
nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng diện tích các thuộc địa của
Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu
km2 và dân số 39,6 triệu người).
Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận
tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội
của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước thuộc địa bị lôi cuốn
vào con đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thơn tínhdân tộc của chủ nghĩa đế
quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự
phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và chính bản thân
chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh
phục những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức
dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại
các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm
lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc châu á cùng với
phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ Cách mạng 1905 ở Nga đã tạo
thành một cao trào thức tỉnh của các dân tộc phương Đông. Hàng trăm triệu người
hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do. Năm 1917, Cách mạng Tháng
Mười Nga thành cơng. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối
với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó cịn là một cuộc cáchmạng giải
phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc". Cuộc
cách mạng vô sản ở nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga
được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình



thànhnên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922).
Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức
đã "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc"1. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng
có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng
sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương
hướng đấutranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế
giới đã được thành lập. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến Việt Nam.
b) Tình hình Việt Nam:
Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của
chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân
sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập
bộ máy thống trị thực dânvà tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài
ngun, bóc lột nhân cơng rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô
lớn, tốc độ nhanh. Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình
hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình
thành nên những đơ thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới.
Nhưng thực dân Pháp khơng du nhập một cách hồn chỉnh phương thức tư bản chủ
nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai
phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch.

Chính vì thế, nước Việt Nam khơng thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách
bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ
thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp. Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách
chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay


các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ,
khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội,
cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp
nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân
ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia
nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước
Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xóa tên nước
ta trên bản đồ thế giới.
Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân
tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách
văn hóa nơ dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị
đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đốn.
Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên
thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị. Các cuộc
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội
Việt Nam.
Sự phân hố giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn. Giai cấp địa chủ phong kiến
đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân được đưa vào Việt Nam và trở
thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp
địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do chính sách kinh tế và
chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân hóa thành ba
bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị phá sản. Vốn
sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước chống

ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên
một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực
dân và bọn phản động tay sai. Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị
đế quốc, phong kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của
nông dân đã bị bọn tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua
rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến
đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa khơng lối thốt. Một số ít bán sức
lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại
các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Cịn số đơng vẫn phải gắn vào đồng ruộng và
gánh chịu sự bóc lột vơ cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu
của chính họ. Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nơng dân có mâu thuẫn với đế


quốc và phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động.
Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về
độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Giai cấp nơng dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to
lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nơng dân khi được tổ chức
lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trị cực kỳ
quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam. Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng
lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời
trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản
Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Trong
q trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận: Tư sản mại
bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu những cơng
trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn hoặc có
nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn liền

với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc. Tư sản
dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản loại vừa
và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả tiểu
thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam,
nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát
triển được.
Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước,
có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh
thần chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách
mạng không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Giai cấp
tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ cơng,
viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung,
địa vị kinh tế củahọ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có
tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh
rẻ nên rất hăng hái cách mạng.
Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với
những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh,
họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đơng đảo và đóng một vai


trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai
cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc
lập tự do của dân tộc. Giai cấp cơng nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do
chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực
dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm
lược và bình định của chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của đế quốc Pháp, giai cấp cơng nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa

lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn
(năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong đó có hơn 53.000 cơng nhân
mỏ (60% là cơng nhân mỏ than), và 81.200 công nhân đồn điền. Giai cấp công
nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân, trình độ
học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trungtâm
công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế, đồng thời cịn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp
bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nơng dân
bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần
nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất
nướccó nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của
thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ
và khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững
chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được
tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng
một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác -Lênin thì giai cấp công nhân
trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Tóm lại,
chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đơng Dương nói
chung là một chính sách thống trị chun chế về chính trị, bóc lột nặngnề về kinh
tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nơ dịch về văn hóa, giáo
dục, chứ khơng phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" -một sự
khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai



hố" đó chính là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém,
v.v… Hồ Chí Minh từng nói về "nhà khai hố" như sau: "Khi người ta đã là một
nhà khai hố thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn
minh nhất". Và nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà
khai hố "điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra
lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hố
nhân từ là như thế đấy!".
Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc
địa. Mặc dù thực dân cịn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành
thuộc địa thì tất cả các mặtchính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt
Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.
Trong lịng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những
mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc
lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn
vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội
dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai
cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh
dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924 rằng: "Cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ
được giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối cãi được".
c) Các phong trào yêu nước ở Việt Nam:
Ngay khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các cuộc khởi nghĩa nông dân chống
Pháp đã nổ ra liên tục. Đó là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Trương
Công Định, Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... nổ ra ở Nam Kỳ.
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Pa-tơ-nơt (6-1884), phong trào yêu
nước theo chiếu “Cần Vương” của vua Hàm Nghi diễn ra mạnh mẽ. Hàng loạt các
cuộc khởi nghĩa đã nổ ra như Khởi nghĩa Hương Khê, Ba Đình, Bãi Sậy, khởi
nghĩa Yên Thế (1884-1913). Các cuộc khởi nghĩa vũ trang theo khuynh hướng

phong kiến nêu trên đã khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm
lược của dân tộc nhưng bị đàn áp đẫm máu và cuối cùng đều thất bại.
Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra theo khuynh hướng tư sản.
Tiêu biểu là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo; khuynh hướng cải


cách dân chủ do Phan Châu Trinh tổ chức (1906-1908); phong trào Đông Kinh
Nghĩa Thục, Hà Nội (1907), phong trào của Việt Nam quốc dân Đảng (19291930). Các phong trào yêu nước nêu trên phản ánh tinh thần dân tộc của các sĩ phu
yêu nước, tiến bộ, một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại.
Do địa địa vị kinh tế, chính trị non yếu, giai cấp tư sản Việt Nam đã không đủ sức
lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp (1887-1914). Từ đó đến trước năm 1925, phong trào cơng nhân
Việt Nam cịn ở giai đoạn đấu tranh tự phát, nổ ra lẻ tẻ, phân tán.
Nhìn chung, phong trào cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX rơi
vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo
cách mạng, ví như đi “trong đêm tối khơng có đường ra”.
2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo,
thi hành các chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ
phong kiến thành tay sai đắc lực. Chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết
sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn giáo... mọi phong trào yêu nước bị đàn áp
dã man.
Chúng vơ vét tài nguyên và bóc lột sức lao động nhân dân Việt Nam “tới tận
xương tủy”, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập
của nước ta, thực hiện chính sách ngu dân… khiến đời sống của dân ta bị bần cùng
hóa, nền kinh tế bị què quặt, gây nên những hậu quả nghiêm trọng kéo dài nhiều
năm.
Trong tình hình ấy đã xuất hiện nhiều ngọn cờ khởi nghĩa chống lại chế độ áp bức
của thực dân Pháp và nhà nước phong kiến vốn cũng làm tay sai cho thực dân

Pháp. Liên tiếp từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào yêu nước
nổi lên, trong đó phải kể đến phong trào Cần Vương, phong trào Đông du, Đông
Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân… nhiều nhân sĩ yêu nước đã xuất hiện, trong
đó phải kể tới Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Thế nhưng tất cả các phong trào
đấu tranh ấy đều bị thất bại, bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo.
Trong tình hình ấy, ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời
Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trong nhiều năm trời bôn ba, Người phải lao


động cực khổ, nhưng ln giữ vững ý chí tìm đường giải phóng dân tộc, mang lại
đời sống ấm no cho nhân dân Việt Nam.
Người tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau này trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, được biết đến với tên gọi Nguyễn Ái
Quốc.
Người tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích
cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin về Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công
nhân. Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) làm chấn động dư
luận quốc tế, đồng thời tác phẩm cũng là nguồn động viên tinh thần mạnh mẽ,
khích lệ tinh thần đấu tranh giải phóng áp bức của các dân tộc thuộc địa.
Tháng 12/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia sáng
lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và trực tiếp huấn luyện
Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên,
xuất bản tác phẩm Đường kách mệnh (1927) ... một mặt tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán,
tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà

có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh
mẽ, sơi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân trở thành một lực lượng
chính trị độc lập.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Trong giai đoạn này đã
có 3 tổ chức thành lập gồm: Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập tại Bắc Kỳ
ngày 17/6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (thành lập ở Nam Kỳ, Mùa thu năm
1929); Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (thành lập ở Trung Kỳ, ngày 1/1/1930).
Tuy vậy, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia
có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một
đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của
dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng u cầu đó của


lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt
Nam.
Từ ngày 6/1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ
vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng... đó là một mốc lớn đánh
dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo
được hội nghị thơng qua đã xác định: Cách mạng việt Nam phải tiến hành cách
mạng
giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp

công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
II. SỰ THẤT BẠI CỦA CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC TRƯỚC KHI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Phong trào Cần Vương
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình Huế đã cúi đầu
làm tay sai cho Pháp, xã hội Việt Nam đã chuyển từ xã hội phong kiến thuần túy
sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân ta bị thực dân Pháp cai trị, bóc lột,
đè nén dẫn tới tình cảnh đen tối, khốn khổ của đồng bào ta.
Năm 1885, Vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết đã tổ chức binh biến với chủ
trương đánh vào tòa khâm sứ Pháp và đồn Mang Cá nhưng thất bại. Tháng 7 năm
1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi các nhân sĩ yêu nước đứng
lên chống Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của chiếu Cần Vương, phong trào đã nổ ra
khắp các tỉnh như: Yên Thế, khởi nghĩa Ba Đình,…nhưng tất cả các phong trào
này đều thất bại. Vua Hàm Nghi bị đi đày, phong trào Cần Vương kết thúc.
Có thể thấy phong trào này thất bại do thiếu sự đồn kết, chỉ có tính tự phát do đó
dễ bị đàn áp. Nhưng ngun nhân chính vẫn là do chưa có được một định hướng,
một đường lối đúng đắn và phù hợp vớ thực tiễn và hồn cảnh của xã hội Việt
Nam để có thể lãnh đạo nhân dân chống Pháp.


2. Phong trào Duy Tân
Người khởi xướng là Phan Chu Trinh Phong tào Duy Tân phát triển mạnh mẽ ở
các trường học để giáo dục khơi dậy lịng u nóc của nhân dân. Từ đó giúp nhân
dân nhận thức đợt kẻ thủ đứng lên chống pháp và bọn tay sai. Năm 1908 nhà cầm
quyền Pháp bắt Phan Chu Trinh và bỏ tù tại nhà tù Côn Đảo. Do sự tác động của
luật sư Phan Văn Tông và hội nhân quyền Pháp mà ông được thả nhưng đã sang
Pháp sống. Phong trào Duy Tân kết thúc.
3. Phong trào Đông Du
Người khởi xướng phong trào là Phan Bội Châu. Ban đầu chỉ có 200 học sinh sang
Nhật học hỏi để chống Pháp và nhờ Nhật giúp đỡ để chống Pháp. Nhưng sang đó

gặp hai nhà chính trị tại Nhật là Khang Hữu Vi và Long Khải Siêu nên họ khuyên
không thể nhờ Nhật đánh Pháp đọc bởi vì vậy Nhật lại thống trị Việt Nam. Do có
một số hoạt động chống Pháp tại Nhật nên Pháp yêu cầu Nhật trục xuất 200 học
sinh đó về. Phong trào Đơng Du kết thúc.
Phong trào Đơng Du tuy thể hiện lịng u nước của nhân dân nhưng nó thể hiện rõ
nhất về sự khủng hoảng đường lối và các tổ chức yêu nước của ông chẳng tìm ra
được một đường lối đúng đúng đắn. Điều này chỉ được khắc phục với sự xuất hiện
của đảng cộng sản Việt Nam.
4. Việt Nam quốc dân Đảng
Ban đầu có tên là nhà xuất bản Nam Đơng thư xã và nó hội tụ được nhiều chí sĩ và
nhân tài yêu nước. Tổ chức này có tư tưởng đi theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn
Trung Sơn với mục tiêu là đánh đuổi thực dân Pháp và đánh đổ ngôi vua thiết lập
dân quyền. Phương pháp làm cách mạng là khủng bố ám sát và bạo động. Ngày 9
tháng 2 năm 1930 Việt Nam quốc dân đảng tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái
nhưng không thành công.
*Nhận xét:
Các phong trào cách mạng trên đều thất bại đó là do chúng đều khơng có một
đường lối đúng đắn, nhận thức chưa đúng và chưa có một cơ sở lí luận làm tiền để
và hình thức hoạt động chưa đúng. Mặt khác chúng chưa đoàn kết được mọi tầng
lớp nhân dân, xa rời quần chúng nên dễ dàng bị dập tắt.
Những khuyết điểm trên chỉ có thể được giải quyết và sự khủng hoảng về đường
lối chỉ chấm dứt khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với lí luận Mac-LêNin làm
nền tảng đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.


III. SỰ LÃNH ĐẠO TÀI TÌNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM DẪN
ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8
1. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ

nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được
những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ
chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách
mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu
nước: “Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên
tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần
Vương, phong trào yêu nớc ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng,
từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy
Tân đến khởi nghĩa n Bái… nhưng khơng thành cơng vì thiếu một đường lối
đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ chức
cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách
mạng Việt Nam”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên
quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để
khẳng định sự đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển vế chất của cách mạng
Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân
tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vơ sản. Đó là sự lựa chọn của chính
nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong q trình tìm con đường
giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh



dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng.
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin
chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững
chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cơng cuộc phát triển của đất nước.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị
thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị
tồn diện đề ra mục tiêu và ph¬ương pháp đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để
những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng
để lãnh đạo và tổ chức phong trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những
tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước
được, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam
tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế
giới.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình
khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ
đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt
nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
2. Sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đưa cách mạng tháng 8-1945 của Việt Nam đi đến thắng lợi
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị của
thực dân, đế quốc ở Việt Nam trong khoảng một thế kỷ, lật đổ chế độ phong kiến
hàng ngàn năm, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã đưa dân tộc Việt
Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945 không phải là sự “ăn may” mà
thể hiện sự chuẩn bị chu đáo của Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta,
thể hiện vai trị đồn kết của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.


a) Thứ nhất, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện sự
chuẩn bị chu đáo của Hồ Chí Minh.
Vào những năm cuối thập kỷ 30 (thế kỷ XX), trước những chuyển biến nhanh
chóng của tình hình thế giới, nhất là nguy cơ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đến
gần, với nhãn quan chính trị sáng suốt và thực tiễn hoạt động quốc tế phong phú,
Hồ Chí Minh đã đưa ra một nhận định chính xác: Chủ nghĩa phát xít nhất định bị
tiêu diệt, đây là thời cơ thuận lợi cho các dân tộc đứng lên tự giải phóng. Người
quyết định thành lập Việt Nam Đồng minh Hội trên đất Trung Quốc, trước hết để
hợp thức hóa về mặt tổ chức, có điều kiện về nước một cách hợp lý; cịn lâu dài để
có tổ chức liên lạc với quốc tế. Thời gian này, Người triển khai những hoạt động
quốc tế dồn dập nhằm thanh thủ mọi lực lượng, tạo hậu thuẫn cho cách mạng Việt
Nam: Trực tiếp gặp Chu Ân Lai - đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc, bàn phối
hợp hoạt động giữa cách mạng 2 nước; cử Trần Văn Hinh đi Diên An để mở rộng
quan hệ quốc tế, đón nhận thơng tin của Quốc tế Cộng sản, gửi thư cho Quốc tế
Cộng sản yêu cầu giúp đỡ; viết bài cho Cứu vong Nhật báo - tờ báo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, khẳng định cách mạng Việt Nam là một lực lượng trong
phe Đồng minh chống phát xít,...
Mùa Xuân năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Người tiến hành xây dựng các đoàn thể cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt
Nam độc lập Đồng minh gọi tắt là Việt Minh… Có thể nói, việc thành lập Mặt trận
Việt Minh là quyết định sáng tạo của Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu của lịch sử,
có sức lơi cuốn, hiệu triệu mạnh mẽ quần chúng đứng lên giành độc lập, tự do.
Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh ở Đông Dương, quân Nhật hoảng
loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa
đã chín muồi. Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chuẩn bị gấp Hội nghị toàn

quốc của Đảng và Đại hội đại biểu Quốc dân ở Tân Trào. Người nhấn mạnh, lúc
này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dải Trường Sơn
cũng phải giành cho được độc lập. Ngày 15/8, Hội nghị Quốc dân của Đảng bế
mạc thì chiều ngày 16-8 thực hiện chỉ thị của Người, Đại hội đại biểu Quốc dân
khai mạc và họp đến ngày 17/8 dưới sự chủ trì của Người. Đại hội tán thành chủ
trương Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và bầu Ủy
ban Dân tộc Giải phóng. Ngay sau Đại hội, Người gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa
tới đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”.


b) Thứ hai, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện vai trò
lãnh đạo tài tình của Đảng ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả của 15 năm chuẩn bị của
Đảng ta qua các phong trào, cao trào cách mạng: 1930-1931; 1936-1939, 19391945. Đặc biệt, trong cao trào cách mạng 1939-1945, Đảng ta đã có sự chuẩn bị
chu đáo về đường lối chính trị, lực lượng cách mạng, căn cứ địa cách mạng. Đảng
ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu từ Hội nghị ban Chấp hành Trung
ương lần thứ VI (11/1939) được bổ sung phát triển tại Hội nghị lần thứ VII
(11/1940) và hoàn chỉnh tại Hội nghị lần thứ VIII (5/1941).
Đảng ta khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn
thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng khơng địi lại được”. Từ tháng 5-1941 đến 8-1945, Đảng ta đã
bổ sung, phát triển đường lối kháng Nhật, cứu nước (3-1945) hay Hội nghị toàn
quốc của Đảng (13/8 đến 15/8/1945),…Thực tế cho thấy, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám 1945 theo đúng dự báo và sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng ta.
Về lực lượng cách mạng: Đảng ta chú trọng xây dựng lực lượng mạnh cả về chính
trị và lực lượng vũ trang. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta đã xây dựng
được lực lượng bán vũ trang của quần chúng và lực lượng vũ trang tập trung với 3
trung đội cứu quốc quân. Trên cơ sở đó thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân vào ngày 22/12/1944, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc.
Đảng ta nhấn mạnh: “Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng,
nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc
chiến tranh Thái Bình Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: Đảng ta đã chọn Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang,… làm nơi đặt cơ quan đầu não chỉ huy, lãnh đạo,
chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
c) Thứ ba, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945 thể hiện vai trị đồn
kết của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 diễn ra trong điều kiện thời
cơ đã chín muồi với sự chuẩn bị chu đáo và sự lãnh đạo tài tình của Bác Hồ và


Đảng ta, nhưng chính tinh thần đồn kết dân tộc, khí thế và sức mạnh của quần
chúng nhân dân đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Ngày 15 -5-1945, Nhật đầu hàng
Đồng minh, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến, Đảng ta đã phát động toàn dân nổi
dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng và
hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đem sức ta mà giải phóng cho
ta”, hàng chục triệu người.
Việt Nam đủ mọi giai cấp, tầng lớp trên khắp 3 miền đất nước đã vùng lên tiến
hành Tổng khởi nghĩa. Sáng ngày 19/8/1945, khoảng 20 vạn người dân Hà Nội
tiến hành biểu tình thị uy, sau đó quần chúng chia thành 2 khối đánh chiếm phủ
Khâm sai và Trại bảo an. Đến chiều ngày 19/8, quân Nhật rút khỏi Hà Nội, cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội đã thắng lợi. Sau đó, hàng loạt địa
phương khác trên cả nước tiến hành khởi nghĩa, giành chính quyền và đã thành
cơng; ngày 28/8/1945 nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã giành thắng lợi trong cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền,...

Như vậy, thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 là kết quả của sự
chuẩn bị chu đáo, sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta, đề ra chủ
trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa kịp thời, đúng thời cơ, vừa tranh thủ đoàn kết
quốc tế, vừa động viên được sự đoàn kết, nhất trí của tồn dân trong giờ phút quyết
định của lịch sử dân tộc để làm nên thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của khu vực Đông Nam châu Á.
IV. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CHỐNG THÙ
TRONG GIẶC NGOÀI, BẢO VỆ NHÀ NƯỚC NON TRẺ. ĐƯỜNG LỐI
CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN 9 NĂM CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
1. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8 thành công
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
ra đời, cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối
cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm
nghèo.
*Về thuận lợi:
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên xô đứng đầu được hình thành,
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một
dịng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hịa bình cũng đang vươn lên mạnh
mẽ.


Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Toàn dân
tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
*Về khó khăn
Thế giới: với danh nghĩa Đồng Minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội
các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt
gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước

ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm
Sài Gòn, hòng tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Trong nước: khó khăn nghiêm trọng là hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói,
nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng; kinh nghiệm quản lý đất nước
của cán bộ các cấp non yếu; nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên
thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân chống thù trong giặc ngoài, bảo
vệ nhà nước non trẻ
Trước những khó khăn chồng chất, vận mệnh dân tộc “ngàn cân treo sợi tóc” âm
mưu trở lại thống trị nước ta của thực dân Pháp, sự phá hoại của các thế lực phản
động đang đe doạ đến nền độc lập của dân tộc cùng với những khó khăn của đất
nước, Đảng ta đã bình tĩnh, mềm dẻo, cứng rắn lãnh đạo nhân dân ta vượt qua
mn vàn khó khăn bảo vệ thành công nền độc lập dân tộc, nhà nước non trẻ, đánh
đuổi thù trong giặc ngồi. Để bảo vệ chính quyền cách mạng và để chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài Đảng ta đã nhận định đúng đắn coi Pháp là kẻ thù chính,
Đảng ta dùng chính sách mềm mỏng, hồ hỗn, lợi dụng những mâu thuẫn của
những kẻ thù để từng bước đánh đuổi từng kẻ thù một.
Đảng ta hồ hỗn với Pháp và Tưởng bằng việc kí các hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và
tạm ước 14-9-1946 và ưu tiên cho bọn Tưởng một số ghế ở quốc hội. Bằng hiệp
ước sơ bộ 6-3-1946 ta hồ hỗn với pháp và đã đuổi được 20 vạn quân Tưởng về
nước dẹp tan các Đảng phản động như Việt Quốc, Viết Cách. Kẻ thù duy nhất của
cách mạng Việt Nam giờ đây chỉ cịn một mình thực dân Pháp đang âm mưu thống
trị nước ta một lần nữa.


Sự lãnh đạo khơn khéo và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa nước ta
thoát khỏi những giờ phút nguy hiểm nhất. Nhưng giờ đây đất nước ta đang đứng
trước nguy cơ bị thực dân Pháp thống trị một lần nữa, Đảng ta cùng nhân dân ta lại

chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu gian khổ để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta thắng lợi cuộc kháng chiến
kiến quốc chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
a) Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn cơng chiếm đóng cả thành phổ Hải Phịng
và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng
bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để
giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư địi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng
kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của
Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp
phía Pháp để đàm phán, song khơng có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của
Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hịa hỗn
khơng cịn. Hịa hỗn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử phải
quyết đoán ngay, Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến
trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch
đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ
ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng
sáng ngày 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được
phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên
đất nước mình nên có chính nghĩa, có "thiên thời, địa lợi, nhân hịa". Ta cũng đã có
sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân
xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh
tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương khơng dễ gì có thể khắc phục được
ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào cơng nhận, giúp đỡ. Cịn qn Pháp lại có vũ khí tối tân,



đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam,
có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng
xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
b) Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hồn chỉnh qua thực
tiễn.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về kháng chiến
kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực
dần Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại
âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc
lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "khơng
sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp"', Hội
nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân
dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Cơng việc khẩn
cấp bây giờ (5-11-1946), Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược,
tồn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lịng tin vào thắng lợi cuối
cùng.
Đường lối tồn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn
kiện lớn được soạn thảo và công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến tồn
quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-121946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chi Minh (19-12-1946) và tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám,
"Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập".

Tính chất kháng chiến: "Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất tồn dân, tồn



×