Năng lượng và phát triển bền vững
KS Đặng Đình Cung , Kiều bào Pháp
Phát triển bền vững là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm thỏa mãn nhu
cầu hiện nay mà không làm nguy hại đến khả năng những thế hệ sau đáp ứng được
nhu cầu của họ. Một vế của chiến lược bền vững là cung ứng và tiêu thụ năng
lượng. Làm gì để vẫn còn có thể tiếp tục cung ứng nă
ng lượng khi những nguồn
năng lượng không tái tạo sẽ cạn và tiêu thụ năng lượng ra sao để không vi phạm
quá đáng đến môi trường tự nhiên ?
Trong bài này, chúng tôi xin mang một số yếu tố đóng góp vào giải đáp vấn đề này
bằng cách trình bày những nguồn năng lượng và những công nghệ hiện có hay
đang được khai triển để đối phó với triển vọng những nguồn năng lượng hóa thạch
m
ột ngày nào đó sẽ không còn nữa. Chúng tôi chỉ trình bày những giải pháp khả
thi trên phương diện kinh tế kỹ thuật và hậu quả của chúng.
Những số liệu chúng tôi dẫn chứng và dùng để tính và vẽ các họa đồ trong bài này
do EIA ( Energy Information Administration, Sở Thông tin Năng lượng ) , IEA (
International Energy Agency, Cơ quan Năng lượng Quốc tế ), UNEP ( United
Nations Environment Program, Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc ) và
WEC cung cấp. Chúng tôi cập nhật kinh nghiệm cá nhân về năng lượng từ những
sách giáo khoa mớ
i được xuất bản, từ những thông số kỹ thuật do ADEME (
Agence de l'Environnement et de la Maîtrise de l'Energie, Cơ quan môi trường và
Tự chủ Năng lượng ) và IFP ( Institut Français du Petrole, Viện Năng luong Dầu
Pháp ) cung cấp và, chủ yếu, từ báo cáo "2007 Survey of Energy Resources" của
WEC ( World Energy Council, Hội đồng Năng lượng Thế giới ) .
Các sách báo chuyên môn dùng nhiều đơn vị năng lượng khác nhau. Để tiện việc
so sánh và để dùng một đơn vị nhiều người biết đến và quen dùng, trong bài này
chúng tôi chuyển nh
ững số liệu đã được công bố sang đơn vị TWh (têra watt giờ,
một triệu kWh) hay kWh (kilô watt giờ) thường dùng trong ngành điện.
PHẦN 1 NHỮNG NĂNG LƯỢNG KHÔNG TÁI TẠO
Trên thị trường có hai loại năng lượng : năng lượng không tái tạo và năng lượng tái
tạo. Khi kế toán năng lượng thì những chuyên gia phân biệt năng lượng ở dạng cơ
bản, dạng trung gian và dạng khả dụng.
Trong phần này, chúng tôi xin định nghĩa những khái niệm đó. Sau đó, cho mỗi
loại năng lượng, chúng tôi xin trình bày trữ lượng hay tiềm năng, ả
nh hưởng đến ô
nhiễm môi trường và an toàn dân chúng, những vấn đề kỹ thuật, kinh tế và chính
trị.
Những dạng năng lượng
Năng lượng thể hiện dưới nhiều dạng hóa học và vật lý : cơ, hóa, nhiệt, điện,
quang,… Để thiết kế một chính sách năng lượng người ta phân biệt ba dạng năng
lượng :
• Năng lượng cơ bản là những dạng n
ăng lượng có sẵn ngoài thiên nhiên : than đá,
dầu thô, khí tự nhiên, uranium, thủy năng, và những năng lượng tái tạo khác.
• Năng lượng trung gian là những dạng năng lượng được sản xuất từ những dạng
năng lượng khác. Khí hydrô, khí đốt từ những phản ứng nhiệt phân, dầu đã được
thanh lọc,… là những thí dụ năng lượng trung gian.
• Năng lượng khả dụng hay năng lượng cuối cùng (end use energy) là s
ản phẩm
cuối cùng khi dùng hay biến chế sẽ mất đi hay không còn là một năng lượng nữa.
Hơi nước nén, than dùng để chế biến thành hóa chất, củi để đun bếp,… là những
dạng năng lượng khả dụng.
Năng lượng cơ bản được biến chế thành một số dạng năng lượng trung gian hay
năng lượng khả dụng. Năng lượng trung gian được biế
n chế thành một số dạng
năng lượng khả dụng. Trong quá trình biến chế từ năng lượng cơ bản đến những
dạng năng lượng khả dụng đó, một phần năng lượng bị hao đi vì đã được tiêu thụ
trong những giai đoạn biến chế hay vận chuyển.
Có loại dạng năng lượng cùng một lúc được coi là năng lượng cơ
bản và năng
lượng trung gian hay năng lượng khả dụng. Khí tự nhiên là một năng lượng cơ bản,
khi đã được nén và làm lỏng để đốt trong một lò hơi để sản xuất điện và hơi nước
nén thì gọi là năng lượng trung gian và khi đã được mang tới nhà để dùng trong
nhà bếp hay lò sưởi thì gọi là năng lượng khả dụng. Và cũng có nhiều loại năng
lượng vừa đượ
c coi là năng lượng trung gian vừa được coi là năng lượng khả dụng.
Điện là năng lượng trung gian vì được sản xuất từ một lò phản ứng hạt nhân hay
một lò hơi cổ điển nếu dùng để nạp điện một bình ắcquy và được coi là năng lượng
khả dụng nếu dùng để chạy một động cơ hay nung một lò sưởi.
Phân biệt dạng năng lượng nào là năng lượng cơ bản, dạng nào là năng lượng trung
gian và d
ạng nào là năng lượng khả dụng là một việc cốt yếu để nghiên cứu tính
khả thi của một hệ thống sản xuất và tiêu thụ năng lượng.
Nhu cầu năng lượng cơ bản của nhân loại tăng đều đặn 2,1 phần trăm mỗi năm từ
năm 1996 để đến năm 2005 dạt 454 Quad ( 133400 TWh ). Sau khi tiêu hao trong
những quy trình biến chế thì chỉ còn có 314 Quad (92000 TWh) năng lượng khả
dụng.
Bảng 1 cho thấy những khác biệt giữa khối lượng các năng lượng cơ bản và năng
lượng khả dụng. Tỷ dụ :
• Một phần lớn của 33800 TWh than đã được dùng để sản xuất điện, khí đốt, dầu
tổng hợp và những nguyên liệu của ngành hóa chất nên chỉ còn lại có 7700 TWh
than đã được thanh lọc và hợp cách ở dạng năng lượ
ng khả dụng,
• Tất cả uranium U-235 đã được biến đổi thành hơi nước và, sau đó, một phần nhỏ
hơi nước đã được dùng ở dạng năng lượng khả dụng và phần lớn còn lại dùng để
sản xuất điện qua một tuabin hơi nên không có uranium ở dạng năng lượng khả
dụng,
• Hầu hết tất cả 2900 TWh thủy năng đượ
c biến thành điện,
• Những năng lượng tái tạo khác thường được trực tiếp đưa vào sử dụng nên từ
14000 TWh ở dạng cơ bản thì vẫn còn tới 11900 TWh ở dạng khả dụng.
Bảng 1 – Sản xuất và tiêu thụ năng lượng (IEA, 2005)
*
Cơ bản
(TWh)Thế giới
Khả dụng
(TWh)Thế giới
Cơ bản
(TWh)Việt
Nam
Khả dụng
(TWh)Việt
Nam
Than 33824 7670 211 70
Dầu thô 46613 129 226 0
Sản phẩm dầu 0 39772 0 139
Khí 27581 14343 72 1
Uranium 8395 0 0 0
Thủy năng 2923 0 21 0
Địa năng,
hoàng năng,
v.v.
686 88 0 0
Chất đốt rắn tái
tạo và rác
13338 11852 279 270
Điện 0 15024 0 46
Nhiệt năng 9 3137 0 0
Tổng cộng 133370 92013 809 526
Khi tính hiệu suất một năng lượng thì phải tính hiệu suất năng lượng của mỗi khâu
chế biến từ những dạng năng lượng cơ bản khởi đầu qua những dạng trung gian
cho đến dạng khả dụng.
Tỷ dụ hiệu suất một lò sưởi điện không phải là 100 phần trăm mà phải bằng hiệu
suất nhà máy điện nhân với hiệ
u suất mạng tải điện từ nhà máy đến nơi tiêu dùng.
Tải điện có thể làm mất đến 10/15 phần trăm điện phát từ nhà máy. Một nhà máy
thủy điện có hiệu suất 90/95 phần trăm, nhưng một nhà máy điện hạt nhân chỉ bằng
khoảng 30 phần trăm. Như vậy một động cơ gia dụng như máy rôbốt xay và băm
thực phẩm ch
ỉ có hiệu suất 10/20 phần trăm nếu điện được sản xuất từ một nhà
máy nhiệt điện và tối đa 80 phần trăm nếu điện được sản xuất từ một nhà máy thủy
điện.
Cũng như thế, khi tính ô nhiễm của một dạng năng lượng thì phải tính ô nhiễm
sinh ra từ mỗi giai đoạn chế biến dẫ
n đến dạng năng lượng khả dụng. Tỷ dụ nói
rằng xe ôtô chạy bằng pin nhiên liệu hydrô không ô nhiễm khí quản vì chỉ thải ra
có hơi nước là không đúng. Những xe ôtô loại này chưa chắc gì sẽ thân thiện với
môi trường hơn xe thuần túy động cơ nhiệt chạy bằng sản phẩm dầu hiện đại. Cho
tới nay người ta sản xuất khí hydrô bằng phương pháp cải hóa khí methan bằng hơi
nước (steam reforming of natural gas). Phương pháp này sinh ra nhiều khí di oxyd
cacbon, một khí gây ra hiệu ứng nhà kính. Hơi nước cũng là một khí gây ra hiệu
ứng nhà kính. Nếu tất cả những xe ôtô một thành phố chạy bằng pin hydrô thì một
lượng hơi nước lớn sẽ sinh ra một cách tập trung ở gần mặt đất và ở nơi đông dân
cư. Chưa ai biết hơi nước này sẽ ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống và sứ
c khỏe
dân chúng ra sao.
Trữ lượng
Nếu bỏ qua những nguồn dầu không cổ điển (non conventional oil) chưa có công
nghệ khai thác đại trà và khí clathrate chưa ai giám khai thác thì ở ngoài thiên
nhiên có bốn nguồn năng lượng cơ bản không tái tạo. Đó là dầu thô, khí tự nhiên,
than đá và uranium. Ba dạng năng lượng dầu thô, khí tự nhiên, than đá cũng được
gọi là năng lượng hóa thạch.
Trữ lượng những dạng năng lượng đó có giới hạn nên không bảo đảm kinh t
ế sẽ
phát triển một cách bền vững.
Bảng 2 cho thấy những năm còn lại trước khi mỗi nguồn năng lượng không tái tạo
sẽ cạn hết nếu tiếp tục nhịp độ khai thác hiện nay. Chúng tôi không đi vào luận
chiến có tính cách hàn lâm về thời điểm khai thác một nguồn năng lượng sẽ đạt cao
đỉnh và bắt đầu giảm xuống cho tới khi không còn nữa. Thời đi
ểm đó tùy ở độ
chính xác của những thông tin về trữ lượng các loại năng lượng và tùy ở nhịp khai
thác mỗi loại năng lượng cơ bản trong tương lai.
Bảng 2 – Trữ lượng những năng lượng không tái tạo (WEC, 2005)
Thế giới
Năng lượng Dầu thô (Mt)
Khí tự nhiên
(Gm3)
Than đá (Mt) Uranium (Kt)
Trữ lượng 159644 176462 847488 3297(*)
Khai thác 3898 2834 5901 42
Số năm khai
thác còn lại
41 62 144 79
Việt Nam
Trữ lượng 413 365 150 5(*)
Khai thác 19 4 35 ?
Số năm khai
thác còn lại
22 91 4 ?
(*) Với giá thị trường 130 USD/kg
Trữ lượng ghi trên bảng 2 là những trữ lượng đã được chứng minh và đã được
công bố, nghĩa là không kể đến những trữ lượng tiềm tàng chưa được phát hiện và
những trữ lượng mà các công ty mỏ và các quốc gia thường giấu không công bố.
Những đối tác này thường công bố những số liệu về trữ lượng của họ một cách
không trung thực để có thế mạnh khi thương lượng những hợp đồng cung ứng
năng lượng. Những thông tin về trữ lượng uranium thường sai hơn là thông tin về
trữ lượng những năng lượng hóa thạch. Ngoài ra, uranium được khai thác để đầu
cơ nhiều hơn là để đáp ứng nhu cầu tr
ước mắt. Do đó, những số liệu về trữ lượng
thực ra không chính xác. Tỷ dụ, tờ Oil & Gas Journal ước lượng trữ lượng dầu thô
của Bắc Mỹ là 213 tỷ thùng còn theo tờ World Oil thì trữ lượng đó chỉ bằng 46 tỷ
thùng. Hai ước lượng của khác nhau tới 153 phần trăm (bảng 3).
Bảng 3 – Ước lượng về trữ lượng dầu thô và khí tự nhiên của hai tờ báo chuyên
môn (EIA)
Vùng và
lãnh thổ
Dầu thô Tỷ
thùng
Dầu thô Tỷ
thùng
*
Khí tự
nhiên Nghìn
tỷ feet khối
*
* A B Sai biệt (%) A B
Sai
biệt
(%)
Bắc Mỹ 213,43 46,14 153 276,95 278,04 0
Trung và
Nam Mỹ
103,36 76,5 30 250,84 246,87 2
Châu Âu 16,38 15,98 2 200,75 182,76 9
Châu Âu Á
(Eurasia)
77,83 123,22 46 1952,6 2040,74 4
Trung Đông 743,41 711,64 4 2565,4 2531,56 1
Châu Phi 102,58 109,76 7 485,84 490,88 1
Châu Á &
Châu Đại
Dương
35,94 36,38 1 391,65 455,7 15
Tổng cộng
thế giới
1292,94 1119,62 14 6124,02 6226,56 2
Việt Nam 0,6 1,35 81 6,8 8,2 19
A = Ước lượng của Oil & Gas Journal
B = Ước lượng của World Oil
Những số năm còn lại để khai thác hết một năng lượng không tái tạo còn tùy ở
những biến chuyển kinh tế và công nghệ.
1. Nhịp độ khai thác trên bảng 2 và, suy ra, số năm khai thác còn lại, là những số
liệu nhận thấy vào cuối năm 2005, nghĩa là chưa kể đến ảnh hưởng của những
chính sách năng lượng quốc tế và những biến đổi công nghệ năng lượng trong
t
ương lai. Tỷ dụ thời hạn 79 năm trước khi không còn uranium nữa dựa trên giả
thuyết trong tám chục năm sắp tới nhân loại không chuyển những áp dụng chạy
bằng những năng lượng hóa thạch sang những áp dụng chạy bằng điện và ngành
điện hạt nhân vẫn tiếp tục dùng uranium với công nghệ PWR (Ressurized Water
Reactor, Lò Phản ứng Nước Nén).
2. Trữ lượng của mọi khoáng vật tùy ở giá th
ị trường thế giới. Trữ lượng trên bảng
2 là trữ lượng tính theo giá dầu năm 2005. Bây giời giá dầu thô lên đến hơn 120
USD một thùng. Với lợi nhuận cao hơn, những hãng mỏ quốc tế có thể tìm kiếm
và khai thác thêm những mỏ nhỏ hơn, có hàm lượng khoáng sản thấp hơn, nằm sâu
hơn dưới mặt đất, ở xa bờ biển hơn và khai thác tốn kém hơn. Tỷ dụ, người ta đ
ã
biết trước rằng dưới đáy biển Bắc Hải, giữa Tô Cách Lan và Na Uy, có dầu. Nhưng
phải chờ đến khi giá dầu tăng mạnh vào những năm 1970 để những hãng dầu đầu
tư vào những dàn khoan dầu ở giữa biển và biến vùng biển Bắc Hải này thành một
"Trung Đông thứ hai". Trữ lượng uranium trên thế giới là 3 297 nghìn tấn nếu một
kilô uranium trị giá 130 USD nhưng sẽ chỉ là 1 947 nghìn tấ
n nếu một kilô
uranium trị giá dưới 40 USD.
3. Nhịp tiêu thụ cũng tùy ở giá năng lượng trên thị trường quốc tế. Khi giá năng
lượng tăng thì nhịp tiêu thụ năng lượng giảm. Những đối tác tiêu thụ năng lượng sẽ
tìm cách tiết kiệm bằng những phương pháp tăng hiệu suất, chuyển sang một loại
năng lượng khác rẻ hơn hay chuyển sang một công nghệ tiêu thụ ít n
ăng lượng
hơn. Năng lượng tiết kiệm đó sẽ trở lại thị trường làm giảm nhịp khai thác năng
lượng.
4. Những lò phản ứng hạt nhân hiện đại chỉ tiêu thụ đồng vị uranium U 235, nghĩa
là 0,7 phần trăm những hạt nhân uranium tự nhiên. Với những công trình nghiên
cứu phát triển đang được tiến hành, trong hai chục ba chục năm nữa thì có thể tận
dụng
được tất cả những hạt nhân uranium tự nhiên và khai thác thêm tiềm năng của
những hạt nhân thorium. Lúc đó nhân loại có thể lùi tới hơn một chục thế kỷ thời
điểm những năng lượng không tái tạo sẽ cạn hết.
5. Trước mắt, sau những hiệp ước giảm vũ khí hạt nhân và sau khi chiến tranh lạnh
chấm dứt, một lượng vũ khí hạt nhân phải được phá hủ
y. Những vũ khí đó chứa
uranium đã được làm giầu và plutonium có thể dùng làm nhiên liệu cho những nhà
máy điện hạt nhân. Theo những giới chuyên môn thì năng lượng chứa trong
uranium và plutonium trong các vũ khí tích lũy trên thế giới tương đương với
lượng điện hạt nhân đã được sản xuất từ đầu kỷ nguyên hạt nhân.
Nhưng vấn đề không phải là khi nào những năng lượng không tái tạo sẽ cạn. Vấn
đề là làm gì để hoãn lại ngày nhữ
ng năng lượng đó sẽ cạn và làm gì để thay thế
chúng khi chúng thực sự sẽ cạn. Dù không chính xác, những số liệu trên bảng 2
vẫn có thể nhắc chúng ta rằng những số năm còn lại để khai thác hết một nguồn
năng lượng cơ bản có thể tính bằng chục năm chứ không lâu hơn.
Ô nhiễm và an toàn
Khi đốt những nhiên liệu hóa thạch thì sinh ra tro xỉ, khí di oxyd cacbon, khí di
oxyd sulfur và khí mono oxyd nitro. Ba khí đó gây ra hiệu ứng nhà kính làm t
ăng
nhiệt độ khí quản và gây ra biến đổi thời tiết mà chúng ta bắt đầu nhận thấy. Như
mọi khoáng sản, dầu thô, khí đốt và than đá có chứa nhiều khoáng sản khác, trong
đó có lưu huỳnh. Ở nhiệt độ cao, lưu huỳnh phản ứng với khí oxy của khí quản để
trở thành di oxyd sulfur. Cũng ở nhiệt độ cao, nitro và oxy cuả khí quản hỗn hợp
với nhau để trở thành mono oxyd nitro. Một khi phun ra khỏ
i ống khói của nhà
máy hay của động cơ, mono oxyd sulfur và di oxyd nitro tham gia vào hiệu ứng
nhà kính, phản ứng với hơi nước của khí quyển và trở thành acid sulfuric và acid
nitric, gây ra mưa acid làm ô nhiễm những nguồn nước, làm hại đến bộ hô hấp của
sinh vật và làm tổn cháy thảo vật.
Trong ba nguồn năng lượng đó, than đá là gây ô nhiễm nhiều nhất vì khi sàng thì
không thể loại triệt để những đá bần và khi đốt thì không thể đố
t triệt để than đã
được đẩy vào trong lò đốt. Do đó những cơ sở tiêu thụ than thải ra nhiều bụi, tro và
những khí có hiệu ứng nhà kính, đặc biệt khí di oxyd cacbon. Một nhà máy điện
than 1.000 MWe mỗi năm thải ra 7 triệu tấn di oxyd cacbon, 200.000 tấn di oxyd
sulfur và 200.000 tấn tro xỉ. Nhờ những chương trình nghiên cứu phát triển đang
được tiến hành, chương trình công nghệ than sạch (CCT, Clean Coal Technology),
các chuyên gia hy vọng sẽ mau chóng cải thiện tình trạng tồi tệ này.
Dầu thô được lọc thành những nhiên liệu kerozen, dầu xăng, dầu diezen và những
dầu đốt khác trước khi đưa vào sử dụng. Vì là một chất lỏng đã được lọc trước nên
những sản phẩm dầu cháy kỹ hơn than trong những lò đốt. Tuy nhiên, 60 phần
trăm dầu dùng cho giao thông vận tải và một nửa lượng sản phẩm dầu dùng cho
giao thông vận tải được đốt trong những máy nổ các phươ
ng tiện giao thông cá
nhân tập trung ở thành thị. So với những máy nổ dùng trong công nghiệp, những
máy nổ của các phương tiện giao thông vận tải có hiệu suất năng lượng rất kém. Vì
lẽ đó, ô nhiễm ở những thành thị chủ yếu bắt nguồn từ những sản phẩm dầu đốt
trong những phương tiện giao thông vận tải.
Khí tự nhiên được làm lỏng để có thể dược chở đến nơi tiêu thụ. Khi qua khâu làm
lỏng những chất bần tách ra khỏi khí methan và khí trở
thành một khí tinh khiết khi
ở dạng năng lượng khả dụng7. Tỷ dụ, nhờ khí tự nhiên Lacq (miền Tây Nam nước
Pháp) có nhiều lưu huỳnh, Pháp là nước sản xuất nhiều lưu huỳnh nhất thế giới
trong tất cả những năm mỏ Lacq được khai thác. Vì đưa vào sử dụng ở dạng tinh
khiết, khí tự nhiên là nguồn năng lượng hóa thạch cháy hữu hiệu nhất, ô nhiễm ít
nhất và hi
ện được ưa chuộng nhất trong mọi áp dụng.
Ngoài việc tài nguyên sẽ cạn, những chuyên gia lo ngại tiếp tục nếu đốt năng lượng
hóa thạch thì sinh ra khí có hiệu ứng nhà kính với hậu quả là biến đổi khí hậu. Để
đối phó với sự tăng sinh những khí có hiệu ứng nhà kính người ta nghĩ đến chuyện
nhồi khí di oxyd cacbon xuống dưới đáy biển hay vào những khoảng trống để lạ
i
trong lòng đất sau khi đã khai thác dầu thô và khí tự nhiên. Những nghiên cứu thử
nghiệm đang được tiến hành ở vài nơi. Việc này chỉ khả thi nếu nơi đốt năng lượng
hóa thạch ở gần nơi có thể nhồi khí di oxyd cacbon. Điểm này hạn chế tính khả thi
của phương pháp này.
Dùng uranium làm nguồn năng lượng hạt nhân thì ô nhiễm môi trường một cách
khác. Ở mỏ uranium, xử lý bần quặng đặ
t ra những vấn đề tương tự như xử lý bần
quặng của những mỏ kim loại khác : trung hòa những chất hóa học dùng để tách
quặng uranium ra khỏi bần quặng và chôn vùi bần quặng ở một địa điểm thuận
tiện. Một nhà máy hạt nhân không thải ra khí có hiệu ứng nhà kính. Nhưng sử dụng
nhiên liệu uranium thì thải ra những phế liệu phóng xạ. Khối lượng những phế li
ệu
đó rất nhỏ so với khối lượng phế liệu do việc sử dụng những năng lượng hóa thạch.
Một nhà máy điện hạt nhân Pháp công suất 1 000 MWe mỗi năm tiêu thụ 27 000
kg nhiên liệu gồm bởi uranium đã được làm giầu và sinh ra 26 860 kg nhiên liệu đã
chịu phóng xạ. Người ta gọi là nhiên liệu đã chịu phóng xạ vì đó không phải hoàn
toàn là phế liệu. Trong khối nhiên liệu đã chịu phóng x
ạ đó thì 25 920 kg gồm bởi
những đồng vị uranium và plutonium và được gọi là nhiên liệu đã qua sử dụng,
trên lý thuyết, có thể dùng lại làm nhiên liệu cho những lò phản ứng hạt nhân khác.
Chỉ có phần còn lại mới gọi là phế liệu. Phế liệu này gồm bởi 918 kg sản phẩm
phân hạch và 22 kg actinid. Chỉ có 22 kg actinid là đặt vấn đề vì có hoạt tính cao
và trong thời gian lâu. Từ khởi đầu kỷ nguyên hạt nhân cho tới nay, tích lũy kh
ối
lượng những actinid đó rất nhỏ nên có thể tạm tồn trữ chúng một cách an toàn để
chờ ngày kiếm được phương pháp thanh toán chúng.
Vì năng lượng hạt nhân đã được dùng lần đầu tiên với mục đích quân sự và vì
những tia phóng xạ không thể phát hiện được nếu không có máy rò nên đại đa số
thường dân sợ ảnh hưởng của năng lượng hạt nhân. Cho tới những năm gần đây,
sau những tai nạn Three Mile Island và Tchernobyl và dưới sự áp lực của dư luận,
không có một nhà máy điện hạt nhân nào được xây thêm nữa ở
những nước Tây
Âu. Điều này không ảnh hưởng mấy đến phát triển kinh tế thế giới nhờ giá những
năng lượng hóa thạch đã xuống rất thấp. Nhưng gần đây, đặc biệt ở các nước Á
Châu, có xu hướng muốn khai triển lại nguồn năng lượng hạt nhân vì người ta
nhận thấy rằng :
• Giá những năng lượng hóa thạch tăng lên tột đỉnh,
• Dùng những năng lượng hóa thạch gia tăng hiệu ứng nhà kính của khí quản làm
biến đổi khí hậu,
• Tai nạn Three Mile Island đã được kiềm chế dễ như là kiềm chế một tai nạn công
nghiệp thường khác, không có tử vong, không có thương vong và không có hậu
quả lâu dài gì về an toàn của dân chúng địa phương,
• Tai nạn Tchernobyl rút cục chỉ là hậu quả những người thiết kế và điều hành nhà
máy cũng như
lãnh đạo Nhà Nước Liên Xô vô trách nhiệm chứ không phải là do
bản tính rủi ro của năng lượng hạt nhân.
Những vấn đề kỹ thuật, kinh tế và chính trị
Thiết kế một hệ thống năng lượng không phải chỉ là một vấn đề kỹ thuật mà bao
gồm cả những vấn đề tài chính và địa dư chính trị.
Đặc điểm của những năng lượng c
ơ bản là những phương tiện chuyển chở, thuyên
chuyển, xử lý và lưu trữ đều là là những phường tiện chuyên môn, nghĩa là không
thể dùng được vào việc khác. Một nhà máy lọc dầu chỉ có thể lọc dầu thô chứ
không thể lọc được dầu khác. Một nhà máy lọc dầu được thiết kế để lọc một cách
tối ưu một loại dầu thô có một số đặc đ
iểm vật lý và hóa học nhất định. Nhà máy
có thể lọc một loại dầu khác nhưng sẽ có hiệu suất kém hơn. Một ống dẫn khí chỉ
có thể tải khí đốt chứ không có thể dùng để tải dầu được và một bể chứa dầu không
thể chứa khí được. Một tầu chở than chỉ có thể mang than đến một cảng nhưng khi
rời cảng đó thì không thể mang theo hàng gì khác. M
ột nhà máy đã được thiết kế
để chạy bằng than không thể chuyển sang khí đốt được nếu thấy giá năng lượng
này giảm.
Hệ thống hậu cần của những năng lượng hóa thạch rất nặng. Vì khối lượng, trọng
lượng và giá trị thương mại riêng kém, dầu thô, khí đốt và than đá cần đến những
phương tiện vận chuyển lớn : những tầu thủy có sức chở lớn cả chục nghìn tấn cặp
những bến cảng chuyên môn vĩ đại, những đoàn tầu hỏa dài tớ
i gần một trăm toa,
những kho hay bãi chứa xây trên những diện tích cả trăm hecta. Dầu và khí có thể
được chuyển bằng những ống dầu hay ống khí. Những ống này cố định, nghĩa là
một khi đã xây rồi thì không thể dễ dàng di chuyển đi nơi khác nếu tình hình kinh
tế hay chính trị biến đổi.
Uranium và những nhiên liệu hạt nhân có hàm lượng năng lượng rất cao. Ngoại trừ
vấn đề an ninh, nh
ững vấn đề kỹ thuật của hệ thống hậu cần không mấy phức tạp.
Những nhà máy chế biến nhiên liệu uranium và những nhà máy điện hạt nhân có
thể xây trên một địa bàn có diện tích nhỏ. Một toa tầu hỏa duy nhất hay một chiến
hạm cỡ nhỏ đủ để chở những thanh nhiên liệu hay những thùng phế liệu hạt nhân.
Hiện nay năng lượng hạt nhân chỉ
có công nghệ PWR. Trong vài thập niên nữa sẽ
có thêm những công nghệ khác dẫn tới những cơ sở sản xuất điện không tương hợp
với nhau. Những thiết bị hậu cần năng lượng hạt nhân rất phức tạp nên rất đắt.
Ngoài việc khấu hao hệ thống hậu cần, chủ đầu tư lại còn phải khấu hao những chi
phí nghiên cứu phát triển tốn kém.
M
ột dự án năng lượng có đời sống kỹ thuật (technical life cycle) có thể lâu đến nửa
thế kỷ hay hơn nữa. Một mỏ than lớn có thể được khai thác trong hai thế kỷ. Có vài
mỏ dầu ở Trung Đông đã được khai thác liên tục từ sau Thế chiến II cho tới nay.
Những nhà máy biến chế năng lượng có đời sống kỹ thuật tối thiểu là ba chục năm.
Những nhà máy điệ
n hạt nhân dự tính sẽ chạy trong bốn chục năm. Nhưng vì thấy
vẫn còn bền, chúng sẽ được sử dụng thêm hai chục năm nữa, tổng cộng sáu chục
năm.
Như thấy ở trên, những cơ sở hậu cần cho năng lượng lớn và không tương hợp với
nhau nên cần đến nhiều vốn. Mặc dù gần đây giá năng lượng lên thang mau, năng
lượng rút c
ục vẫn là một sản phẩm rẻ tiền. Một dự án năng lượng cần đến rất nhiều
vốn để sản xuất một thương phẩm sinh ra một lề thao tác (operational margin) nhỏ
nên phải chờ lâu mới hoàn được vốn. Trong ngành năng lượng, thời gian hoàn vốn
(payback time) này lâu tới hơn hai chục năm.
Vì thời gian hoàn vốn và đời sống kỹ thuật lâu, khi thiết kế một hệ th
ống hậu cần
cho ngành năng lượng thì phải tính tỷ số lợi nhuận dựa trên những dự báo kinh tế
kỹ thuật cho đến ba bốn chục năm hay hơn nữa. Những dự báo lâu năm như vậy
thường không chính xác. Dự báo làm sao cho thực tế nhất là nhân tố quan trọng
cho sự thành công hay thất bại của một dự án năng lượng. Cả về khả năng dự báo
kinh tế kỹ thuật và khả năng huy động vốn, chủ đầu tư dự án thường là một quốc
gia, với điều kiện quốc gia đó là một cường quốc công nghiệp, hay một tập đoàn
năng lượng tầm vóc quốc tế. Những tiểu quốc có tài nguyên năng lượng chỉ có thể
bán tài nguyên của mình cho một cường quốc công nghiệp hay cho một tập đoàn
siêu quốc gia.
Như mọi nguồn khoáng sản, nưng lượng cơ bản đặt ra vấn đề địa dư chính trị : có
nước có tài nguyên, có nước có nhu cầu, có nước có cả hai và có nước thiếu cả hai.
Trên thế giới có ít quốc gia có tài nguyên về một năng lượng cơ bản đủ để đáp ứng
nhu cầu nội địa của họ. Tình trạng này đặt ra vấn đề chuyển vận những năng l
ượng
cơ bản từ nơi này đến nơi nọ. Vì năng lượng là một sản phẩm thiết yếu, sự an toàn
của những tuyến vận chuyển đó phải được bảo đảm. Vì một dự án năng lượng là
một dự án rất dài hạn, những nguồn cung ứng và những tuyến vận chuyển phải
được bảo đảm lâu dài. Để bảo đảm những vi
ệc đó, các nước có tài nguyên, các
nước có nhu cầu và các tập đoàn siêu quốc gia thương lượng với nhau trên những
hợp đồng dài hạn. Nếu thương lượng không ngã ngũ, các cường quốc có thể mang
quân đội xâm chiếm vũ lực một tiểu quốc bằng hay dựng lên ở tiểu quốc đó một
một chính quyền bù nhìn thừa lệnh họ.
Năng lượng hạt nhân đặt thêm vấn đề tă
ng sinh vũ khí hạt nhân và khả năng những
tiểu quốc tiếp cận công nghệ hạt nhân.
Theo hiệp ước TNP (Nuclear Non Proliferation Treaty, Hiệp ước Chống Tăng sinh
Vũ khí Hạt Nhân) năm 1968 quy định chỉ có năm cường quốc thành viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc có quyền khai triển và giữ vũ khí hạt nhân.
Những nước khác đã ký hiệp ước TNP chỉ có thể khai triển năng lượng h
ạt nhân
với mục đích hòa bình và sẽ được cơ quan IAEA (International Atomic Energy
Agency, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế) trợ giúp nếu có yêu cầu. Hầu
hết tất cả các thành viên Liên hiệp quốc đã ký hiệp ước TNP. Một số nước, như
Hàn Quốc, đã thi hành nghiêm chỉnh những quy định của hiệp ước nên đã hưởng
sự giúp đỡ đó và đã trở thành cường quốc về nă
ng lượng hạt nhân với mục đích
hòa bình.
Nhưng :
• Còn một vài nước không ký hiệp ước (khoảng bốn chục nước),
• Hai nước đã ký hiệp ước rồi tuyên bố rút lui (Kampuchea và Triều Tiên),
• Có vài nước đã ký hiệp ước nhưng bị cáo buộc là lén lút khai triển vũ khí hạt
nhân, có khi với sự trợ giúp không chính tức của một số cường quốc thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc hay của những nước không ký hiệp
ước hay đã ký nhưng đã rút lui,
• Một số nước có đủ kiến thức công nghệ và đủ thiết bị công nghiệp để có thể mau
chóng sản xuất vũ khí hạt nhân khi cần đến.
Phản ứng của cộng đồng thế giới tùy ở thái độ của Hoa Kỳ đối với nhữ
ng nước đó.
Nam phi và Libya chịu áp lực không nổi đã phải ký hiệp ước. Israel, Pakistan và
Ấn độ đã khai triển thành công vũ khí hạt nhân thì được coi như là việc đã rồi.
Những tiểu quốc như Triều Tiên và Iran thì bị cấm vận kể cả về những sản phẩm
và dịch vụ không dính líu gì đến năng lượng hạt nhân.
1. IEA (International Energy Agency, Cơ quan Năng lượng Quốc tế) là một bộ
ph
ận của OECD (Organization for Economic Co operation and Development, Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế). Bộ phận này làm tư vấn cho 27 thành viên của
OECD trong việc bảo đảm nguồn cung ứng năng lượng đáng tin cậy, phải chăng và
sạch. Địa chỉ Internet :
EIA (Energy Information Administration, Sở Thông tin Năng lượng) là một bộ
phận của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ. Địa chỉ Internet :
UNEP (United Nations Environment Program, Chương trình Môi trường Liên hiệp
quốc) là một bộ
phận của Liên hiệp quốc. Địa chỉ Internet :
WEC (World Energy Council, Hội đồng Năng lượng Thế giới) là một tổ chức bao
gồm gần một trăm quốc gia với mục đích xúc tiến việc cung ứng và sử dụng bền
vững tất cả các loại năng lượng để mang lại nhiều lợi ích nhất cho mọi người. Địa
chỉ Internet : www.worldenergy.org/.
2. ADEME (Agence de l'Environnement et de la Maîtrise de l'Energie, Cơ quan
môi trườ
ng và Tự chủ Năng lượng) là một bộ phận của chính phủ Pháp. Địa chỉ
Internet : www2.ademe.fr.
IFP (Institut Français du Petrole, Viện Năng luong Dầu Pháp) là một trường kỹ sư
và một trung tâm nghiên cứu Pháp.
PHẦN 2 NHỮNG NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
Mỗi năm, năng lượng tái tạo cung ứng 16900 TWh, nghĩa là non 13 phần trăm nhu
cầu về năng lượng cơ bản. Trong số đó,
• Năng lượng sinh học đóng góp 13300 TWh ở dạng cơ bản và 11800 TWh ở dạng
khả dụng, nghĩa là 10 phần trăm năng lượng cơ bản và 13 phần trăm năng lượng
khả dụng,
• Thủy năng đóng góp 2900 TWh, nghĩa là 20 phần trăm nhu cầu điện và 3 phần
trăm nhu cầu năng lượng khả dụng,
• Đóng góp của những năng lượng tái tạ
o khác không đáng kể.
Năng lượng sinh học
Năng lượng sinh học là năng lượng trích ra từ những vật liệu hữu cơ, chủ yếu từ
thực vật.
Tiềm năng
Tiềm năng của năng lượng sinh vật chưa được xác định vì có nhiều nguồn và nhiều
dạng.
Những nguồn năng lượng sinh học là :
• Những chất
đốt rắn tái tạo,
• Rác đô thị, phế liệu hữu cơ của nông nghiệp và công nghiệp,
• Và những thực vật đã được cố ý trồng để làm nguồn năng lượng.
Những năng lượng đó rất đa dạng : sinh khối cellulo sợi (ligno cellulosic) hay sinh
khối rắn, sinh khối có glucid và sinh khối chứa dầu. Mỗi dạng cần đến một nguồn
cơ bản và mộ
t quy trình biến chế thành năng lượng khả dụng khác nhau.
Để gia tăng nguồn năng lượng sinh học thì có ba phương pháp :
• Trồng những cây có đường, mía và củ cải ngọt, hay là ngũ cốc, lúa và ngô,
• Trồng những cây tự nhiên có dầu như là rong, hoa hướng dương, cây có hai lá
mầm (jatropha),
• Trồng rừng những cây mọc mau như là trúc, cây bạch đàn, cây dương, cây
thông,
Sinh khối cellulo sợi gồm gỗ, rơm, bã mía, rác đô thị, phụ phẩm và phế liệu chế
biến gỗ, phế liệu chế biến thực phẩm, phần hữu cơ của rác đô thị,… Nhân loại đã
biết dùng những nguồn năng lượng này từ thời thượng cổ rồi. Tiềm năng năng
lượng từ gỗ là 5 600 đến 6 000 TWh mỗi năm, trong đó 5 000 TWh dướ
i dạng củi
gỗ và 400 TWh dưới dạng than củi. Vì cung ứng những nguồn năng lượng này ít
qua những kênh thương mại nên ước tính tiềm năng của chúng không được chính
xác. Ngoài việc đốt củi hay than củi để thổi cơm và đun nước sinh khối cellulo sợi
được đốt, đơn độc hay phụ trợ cho những năng lượng khác, để sản xuất điện và hơi
nước. Nhiều đô th
ị các nước công nghiệp được cung ứng nước nóng gia dụng nhờ
những lò đốt rác đô thị. IEA ước tính, năm 2005, 135 TWh điện đã được sản xuất
từ sinh khối rắn, 23 TWh từ rác đô thị và 25 TWh từ những nguồn sinh khối rắn
khác.
Sinh khối có glucid gồm những hạt ngũ cốc, củ cải đường, mía đường,… Chúng
được tiêu hóa dị khí (anaerobic digestion), ươm men, chưng cất hay thủy phân acid
(acid hydrolysis) để
biến thành khí, chủ yếu khí methan, dùng làm năng lượng.
Chúng tham gia vào việc cung ứng năng lượng cho gia đình, cho những cộng đồng
nhỏ. Sau khi được lọc kỹ, khí methan có thể được chộn vào mạng phân phối khí
đốt đô thị.
Sinh khối chứa dầu gồm cây cải dầu, dừa dầu, hoa hướng dương,… Dầu của những
thực vật này được ép và lọc để biến thành nhiên liệu lỏng. Nhiên liệu lỏ
ng này có
thể được dùng nguyên chất hay pha trộn với sản phẩm dầu trong ngành giao thông
vận tải.
Ô nhiễm
Đốt phụ phẩm và phế liệu chế biến gỗ, rơm, bã mía, rác đô thị là một phương pháp
hủy chúng để bảo vệ môi trường tự nhiên. Người ta còn sáng chế nhiều phương
pháp loại trừ khác nữa như là nhiệt phân (pyrolysis) hay khí hóa hydrô
(hydrogasification). Nhưng những phương pháp đó chưa chắc gì đã gi
ản dị hơn và
vi phạm môi trường tự nhiên ít hơn.
Dùng củi làm một nguồn năng lượng có thể là một giải pháp ngưng tăng sinh khí
CO2 (di oxyd cacbon) trong khí quyển. Khi cây mọc thì hấp thụ khí CO2 trong khí
quyển để biến cacbon thành gỗ. Khi đốt củi thì thải ra CO2, nhưng đó là cacbon đã
chứa trong cây khi cây đang mọc. Tổng kết là dùng củi để đốt thì khí quyển không
có thêm CO2 như là khi đốt năng lượng hóa thạch. Nhưng lý luận nh
ư vậy chỉ
đúng khi trồng lại tất cả diện tích rừng bị đốn để lấy củi. Thực tế là ở những nước
nghèo người ta đốn rừng mà không trồng lại cây. Vì thiếu kiến thức và thiếu
phương tiện trồng cây, rừng những nước đó đang bị tàn phá nghiêm trọng.
Để có nhiên liệu từ sinh khối có glucid và sinh khối chứa dầu, người ta phải trồng
cây sinh ra những sinh khối đó. Để có năng suất cao, người ta phải chọn những địa
điểm thuận lợi cho nông nghiệp, dùng những phương tiện cơ
giới, phân bón và
thuốc trừ sâu. Những phương tiện cơ giới chạy bằng năng lượng dầu. Phân bón và
thuốc trừ sâu là những hóa phẩm được chế biến từ sản phẩm dầu và than. Cân nhắc
kỹ thì chưa chắc gì thay thế năng lượng hóa thạch bằng những năng lượng sinh học
đó sẽ làm giảm nguồn khí có hiệu ứng nhà kính trong khí quyển.
Những vấn đề kỹ
thuật, kinh tế và chính trị
Công nghệ đốt sinh khối cellulo sợi chưa ổn định nhưng có thể coi là khả thi kinh
tế kỹ thuật chỉ có thể đạt được ở những điều kiện cá biệt. Khai thác những loại sinh
khối khác để sản xuất nhiên liệu vẫn đang ở gia đoạn nghiên cứu triển khai.
Nếu đốn rừng đến đâu mà trồng lại đế
n đó thì chỉ có vấn đề đa dạng sinh thái chưa
được làm rõ. Dùng những đất bỏ hoang để trồng cây năng lượng thì cũng đặt ra
vấn đề đa dạng sinh thái. Dùng nhân lực và đất nông nghiệp để trồng cây năng
lượng đặt ra vấn đề chọn lựa chính trị : cung ứng lương thực hay cung ứng năng
lượng cho nhân loại. Cho tới nay những chuyên gia chưa nhất trí.
Thủy năng
Tiềm năng
Bảng 4 trình bày tiềm năng của thủy năng. Nhờ quan sát vệ tinh, những số liệu trên
bảng này chính xác hơn những số liệu về năng lượng không tái tạo của bảng 2.
Bảng 4 – Tiềm năng và công suất của thủy năng (WEC, 2005)