Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.36 KB, 7 trang )

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1. Các khái niệm chung
1.1. Dân số
Dân số là một tập hợp những con người đang sống trong một vùng địa lý hoặc một
không gian nhất định, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số.
Dân số được nghiên cứu ở trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có một ý nghĩa riêng.
Trong nghiên cứu về môi trường và phát triển bền vững nói chung dân số vừa là động lực
phát triển xã hội vừa là nhân tố kìm hãm sự phát triển. Vận dụng linh hoạt và kiểm soát hợp
lý quá trình dân số là một trong những chương trình hành động quan trọng của các quốc
gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay.
1.2. Phát triển bền vững
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất lần đầu tiên được tổ chức ở Rio-Đê-Ja-Ne-Ro,
Brazil năm 1992 và các chương trình Nghị sự 21 tiếp theo đã đưa ra định nghĩa về phát
triển bền vững như sau:
Phát triển là sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm phương hại
đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của thế hệ tương lai.
Như vậy, phát triển bền vững làm sao phải đảm bảo được sự hài hoà trong 3 hệ
thống: môi trường, kinh tế và xã hội, đó chính là sự xen cài, thoả hiệp của 3 hệ thống này.
Môi
trường
Xã hội
Kinh tế
Vùng phát triển bền vững
2. Dân số
2.1. Các quan điểm cơ bản về dân số
2.1.1. Học thuyết Malthus môi trường
Thomas Robert Malthus (1766-1834) là một mục sư đồng thời cũng là nhà kinh tế
học người Anh là tác giả của thuyết Malthus môi trường. Nội dung của thuyết Malthus như
sau:
+ Dân số tăng theo cấp số nhân, lương thực thực phẩm tăng théo cấp số cộng;
+ Sự gia tăng dân số với nhịp độ không đổi còn sự gia tăng về lương thực và thực


phẩm có giới hạn về diện tích, các điều kiện tự nhiên. Dân số tăng nhanh hơn khả năng
nuôi sống nó;
Giải quyết các vấn đề này, Malthus cho rằng là thiên tai, dịch bệng và chiến tranh.
+ Học thuyết Malthus môi trường đưa ra một kịch bản, diễn biến của vấn đề dân số
và phát triển, dân số là nhân tố kìm hãm sự phát triển nhiều hơn động lực do nó tạo ra. Tuy
nhiên, phê phán thuyết Malthus có những hạn chế như sau:
- (Tháng 8 – 1991, chúng ta cũng
đã đề ra “Việt Nam kế hoạch quốc gia về môi trường và phát
triển lâu bền 1991 – 2000”).
Chưa xem xét tới vai trò của khoa học và công nghệ trong việc nâng cao năng suất,
cải tạo giống cây trồng vật nuôi;
- Chưa thấy được các tác dụng của các biện pháp khống chế quá trình gia tăng dân
số;
- Chỉ nhìn thấy mặt trái của vấn đề, tiếp cận vấn đề không theo một quan điểm khoa
học nào.
2.1.2. Thuyết quá độ dân số
Thuyết quá độ dân số nghiên cứu diễn biến của dân số qua các thời kì, dựa vào các
đặc trưng cơ bản của động lực dân số. Nội dung chủ yếu của học thuyết được thể hiện ở
chỗ sự gia tăng dân số là kết quả của tỷ lệ sinh và tử. Căn cứ vào đó thuyết quá độ dân số
chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn trước quá độ dân số, mức sinh và mức tử đều cao nhưng
dân số tăng chậm.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn quá độ dân số, mức sinh và mức tử đều giảm nhưng mức
sinh lớn hơn mức tử nên dân số tăng nhanh.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn sau quá độ dân số, mức sinh và mức tử đều thấp, dân số
dần ổn định.
Giai đoạn III
Giai đoạn II
Gia tăng dân số tự nhiên
Thời gian

1. Mối quan hệ giữa dân số, môi trường và phát triển bền vững
Giai đoạn I
Trong khái niệm phát triển bền vững, có ba yếu tố cơ bản: bền vững về kinh tế, bền
vững về xã hội và bền vững là nhiệm vụ trọng tâm. Như vậy, dân số và môi trường vừa là
mục tiêu, vừa là những nội dung quan trọng của phát triển bền vững.
Dân số, môi trường và phát triển có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng
kinh tế là điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa với phát triển. Phát triển chỉ
dựa trên tăng trưởng đơn thuần thì sự tăng trưởng đó không lâu bền. Nhiều bài học kinh
nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không tương ứng hoặc chỉ đáp ứng tăng nhu cầu cho dân
số hiện đại nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của dân số tương lai, phát triển dựa
vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì
sự phát triển đó không thể gọi là bền vững.
Tăng trưởng kinh tế là mục đích để phát triển con người, tạo điều kiện để nâng cao
đời sống con người, bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. Bảo vệ môi trường kết hợp bảo
đảm hài hoà những mục tiêu khác của con người là cần thiết để đạt được sự phát triển bền
vững.
Dân số và môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Không thể có phát
triển bền vững nếu môi trường bị huỷ hoại, suy thoái, chất lượng cuộc sống và sức khoẻ
của người dân bị sa sút. Sự phát triển bền vững tuỳ thuộc rất lớn vào công tác dân số và bảo
vệ môi trờng. Nhiều khi, giá phải trả cho chi phí về môi trường nhiều hơn những cái mà
con người thu về từ thiên nhiên.
Như vậy, dân số, môi trường và phát triển tạo thành vòng quay tuần hoàn khép kín,
ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Khi các nhân tố này không tạo ra được sự phát triển hợp lý
thì vòng quay đó sẽ bị hỗn loạn, gây tác động tiêu cực ngược trở lại, phá vỡ cấu trúc và làm
tổn hại đến nhau. Thực tế cho thấy, cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm
qua đã tạo ra áp lực làm kiệt quẹ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại
đến môi trường - cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm
lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi
trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được. Các
nước công nghiệp phát triển đã mất hàng chục năm để nhận ra rằng sự phát triển theo kiểu

truyền thống đã đến giới hạn của "vạch cấm". Do vậy, cần có sự thay đổi, điều chỉnh để có
thể phát triển lâu bền.
Tuy nhiên, kể từ sau các Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu đến nay, thế giới đang phát
triển thiếu bền vững, như công bố của bản Báo cáo phát triển bền vững do Chương trình
bảo vệ môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đưa ra cuối năm 2004.
Đó là tình trạng 1/5 dân số thế giới có mức thu nhập chưa đến 1 đô la/ngày; 80 triệu
người ở các nước đang phát triển bị suy dinh dưỡng; hàng năm có tới 10 triệu người chết vì
các bệnh có thể phòng tránh được và hơn 150 triệu trẻ em không được đến trường do nghèo
đói; 1/5 dân số thế giới không được sử dụng nước sạch v.v... Gia tăng dân số đã tạo ra áp
lực to lớn đối với thiên nhiên. Sự thay đổi khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các nguồn
nước; hiện tượng sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự suy thoái về rừng; sự tuyệt chủng của
các loài sinh vật... đã và đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến sự sống trên trái đất. Gần
1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người. Người ta gọi sự xói mòn đất đai
nhanh chóng là "cuộc khủng hoảng thầm lặng của hành tinh", là mối đe dọa to lớn đối với
sự sống trên trái đất.
Từ thực trạng trên cho thấy, sự khủng hoảng về tài nguyên và môi trường, suy cho
cùng là nằm trong phạm vi hoạt động của con người, do con người gây ra, và dẫn đến đe
dọa chính bản thân sự sinh tồn của loài người. Chính loài người hiện nay đang từng bước,
từng giờ chịu hậu quả của cung cách phát triển không bền vững.
Đương nhiên, cần khẳng định là những thành tựu khoa học - kỹ thuật của loài người
thường trên cơ sở dựa vào thiên nhiên, chinh phục và cải tạo thiên nhiên để sản xuất, khai
thác. Nhưng tiềm năng trái đất có hạn, trong khi đó quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá,
dân số và nhu cầu của con người không ngừng tăng lên. Khoa học dù hiện đại đến đâu, loài
người dù có tạo ra những sản phẩm văn minh tiên tiến đến mấy cũng không thể hoàn toàn
thay thế được những sản phẩm từ tự nhiên. Và cũng không thể chi trả hết món nợ, không
bù lại được những thất thoát và những tổn thất mà loài người đã gây ra đối với môi trường.
Như lời tác giả cuốn sách Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI: huỷ hoại những hình thể
của sự sống là chúng ta đã phạm vào một tội ác lớn hơn là đốt cháy các thư viện.
Những vấn đề toàn cầu bức thiết này đòi hỏi phải xem xét lại toàn bộ hoạt động của
con người đối với môi trường thiên nhiên, từ nhận thức, hành động cho đến cách thức phát

triển bằng cách thay đổi lối sống, ít phụ thuộc hơn vào các nguồn tài nguyên có hạn của trái
đất. Nếu không có những biện pháp hữu hiệu, cứ giữ nguyên phương thức sản xuất và lối
tiêu thụ như hiện nay mà không có sự thay đổi, điều chỉnh tích cực nào thì loài người sẽ
tiêu huỷ ngày càng nhanh những nguồn tài nguyên đã phải mất rất nhiều thiên niên kỷ mới
có được. Và điều này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta có lỗi và mắc nợ thế hệ tương lai.
Tuyên ngôn Ma-ni-la cũng đã nêu rõ: Ngày nay cần có một mô thức phát triển cũ. Một mô
thức phát triển thực sự phải nâng cao được tính bền vững của cộng đồng. Mô thức ấy phải
được hiểu như là một quá trình thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và không nhất thiết
phải bao gồm tăng trưởng. Chỉ có thể có được những cộng đồng nhân loại bền vững bằng
con đường phát triển lấy con người làm trung tâm.
Đã đến lúc phải thay đổi lối tư duy, nhận thức về thế giới. Làm cách nào để ngăn
ngừa những hiểm hoạ do chính con người gây nên? Phát triển như thế nào để "thoả mãn
những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng các thế hệ tương lai đáp
ứng các nhu cầu của thế hệ họ". Do vậy, xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì
phải quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững. Đó là xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển. Dân số và môi trường trong chiến lược phát triển bền vững trở thành một trong những
vấn đề cấp bách toàn cầu, một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
2. Dân số, môi trường và phát triển bền vững ở nước ta
Vấn đề dân số, môi trường trong chiến lược phát triển bền vững luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm. Điều này đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010): "Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến độ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường" và "phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trờng nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học". Trong Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình
nghị sự 21) đã nêu những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc cơ bản; phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm; bảo vệ và cải thiện môi trường là yếu tố không thể tách rời của quá
trình phát triển... Những văn bản pháp lý này là cơ sở quan trọng cho quá trình phát triển
bền vững ở nước ta.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công mà chúng ta đạt được trên cả ba lĩnh vực
kinh tế, xã hội và môi trường, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt
trong sự phát triển bền vững đất nước.
Sự gia tăng dân số trở lại và bùng nổ kinh tế những năm qua đã ảnh hưởng rất lớn
đến môi trường và công tác bảo vệ môi trường. Môi trường nước ta tiếp tục bị ô nhiễm và
xuống cấp, có nơi rất nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn
nước suy giảm mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên
thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh
học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi
không được bảo đảm....
(3)
Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công
nghiệp và đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát
triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên... khiến cho ô nhiễm môi
trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá
nghiêm trọng. Theo dự đoán của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thành phố Hà
Nội năm 2005, sẽ có hơn 850 nghìn tấn rác thải và đến năm 2020 con số này sẽ lên tới 1
triệu 600 nghìn tấn. Ở thành phố Hồ Chí Minh, bình quân mỗi người dân thải ra 1,5 kg chất
thải rắn hàng ngày. Trong khi đó, việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự
nghiêm minh, có nơi, có lúc còn buông lỏng. Một số cơ quan, ban, ngành, vấn đề môi
trường chưa được coi là ưu tiên. Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi
trường chưa thực sự trở thành thói quen. Nhiều người còn có suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề
môi trường chưa cấp bách, trước mắt như vân đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ môi
trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, chứ
không phải là trách nhiệm của người dân... Chính sự thờ ơ, thái độ "vô cảm" của một bộ
phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn phá môi trường.
Quan điểm phát triển bền vững chưa được thực hiện nhất quán. Đầu tư mới tập
trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, rất ít đầu tư cho tái tạo các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo
chiều rộng. Bên cạnh đó, sức ép dân số và việc làm tiếp tục gia tăng. Chất lượng nguồn

nhân lực còn thấp, mô hình tiêu dùng của dân cư tiêu tốn nhiều vật liệu năng lượng, thải ra
nhiều chất thải độc hại... Hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí, bất hợp lý tài
nguyên thiên nhiên gây nên ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Do vậy, để thực hiện thành công công cuộc phát triển bền vững đất nước, cần bảo
đảm hài hoà phát triển kinh tế - xã hội bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường, với các mục
tiêu: tập trung xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân; tăng trưởng kinh tế
bền vững, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo các định hướng cơ bản sau:
Trong lĩnh vực kinh tế
Phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường. Lựa chọn chiến lược phát triển
kinh tế hiệu quả cao, ít tốn năng lượng, thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng
hoà hợp với môi trường; thực hiện quá trình "công nghiệp hoá sạch". Chuyển hướng phát
triển tiết kiệm hoặc cần ít tài nguyên hơn với các quy trình công nghệ bảo vệ môi trường
thiên nhiên, đầu tư theo chiều sâu, sử dụng có hiệu quả, khai thác kết hợp với tái tạo, bảo
vệ môi trường. Tránh lối phát triển theo kiểu "chụp giật", chạy theo tăng trưởng bằng mọi
giá, chỉ chú trọng lợi ích trước mắt mà không tính đến yếu tố phát triển bền vững.
(3)

×