MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhân loại đã tiến dài trong lịch sử phát triển
của mình. Trong thời đại mới này, con người dường như không còn cảm giác
chính xác về khoảng cách không gian và thời gian nhờ có hệ thống thông tin
nối mạng toàn cầu. Con người không chỉ đi du lịch khắp năm châu bốn biển
bằng các phương tiện vận tải bình thường mà có thể đi thăm các hành tinh
khác nhờ tàu vũ trụ. Đặc biệt hơn con người không thể tin được rằng chính
mình lại có thể sinh sản bằng một phương pháp mới - sinh sản vô tính.
Trong rất nhiều sự thật mới mẻ ấy, thế giới vẫn phải đón chịu một sự
thật cố hữu, một bất công, một nghịch lý trong cuộc sống, đó là đói nghèo.
Đói nghèo vẫn đang tồn tại, bao vây cuộc sống của mỗi gia đình, đe
dọa con đường phát triển của mọi quốc gia, thách thức cả nhân loại.
Thực tế hiện nay gần 1/3 dân số thế giới sống trong nghèo khổ, ở các
nước đang phát triển, trong đó khoảng 800 triệu người không đủ ăn, và khoảng
500 triệu người thiếu ăn thường xuyên. Ở các nước phát triển cũng có hơn
100 triệu người đang sống dưới mức nghèo khổ và 5 triệu người không có nhà
ở. Ngày nay giải quyết đói nghèo luôn là một vấn đề hàng đầu của mỗi quốc
gia, bởi họ luôn hiểu được rằng: Một quốc gia nghèo đói là một quốc gia yếu
kém, đói nghèo làm cho bất ổn trong nước và lệ thuộc vào nước ngoài, nguy
hại hơn nữa đói nghèo có thể dẫn đến bờ vực thẳm của sự diệt vong một dân tộc.
Ở Việt Nam sau gần 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu
to lớn, số dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng nhưng vẫn còn một
bộ phận không nhỏ dân cư nghèo đói.
1
Theo Báo cáo phát triển con người năm 2003 của Liên hợp quốc, Việt
Nam đang xếp thứ 39 trong tổng số 94 nước đang phát triển về chỉ số nghèo
tổng hợp (HPI), 109 trong số 175 nước về chỉ số phát triển con người (HDI)
và thứ 89 trong số 144 nước về chỉ số phát triển thế giới (GDI).
Cũng theo tiêu chuẩn quốc tế và số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tỉ
lệ đói nghèo của Việt Nam là khá cao: 70% năm 1990; 37,4% năm 1997; 32%
năm 2000 và 28,9% năm 2002. Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước ta năm
2000 vẫn còn khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm khoảng 17,2% dân số. Đến
cuối năm 2003 con số này giảm xuống còn 1,86 triệu hộ. Theo đánh giá của
các nhóm công tác chuyên gia Chính phủ cho thấy: Nghèo đói là một hiện
tượng phổ biến ở nông thôn, hiện nay có 90% số người nghèo sinh sống ở
nông thôn, 80% số người nghèo là nông dân và 64% số người nghèo của Việt
Nam tập trung tại các vùng miền núi.
Gia Lai là một tỉnh miền núi nghèo của Tây Nguyên. Gia Lai có 82 xã
của 15 huyện thị thuộc diện đặc biệt khó khăn (ĐBKK), phần lớn số hộ đói
nghèo là nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Đói nghèo ở Gia Lai
không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề kinh tế mà nó đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến vấn đề văn hóa, dân tộc, tôn giáo, chính trị của Tỉnh. Nghiên cứu
vấn đề đói nghèo ở Gia Lai trở nên vô cùng cần thiết, vì vậy tác giả đã chọn
đề tài: "Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai: Thực trạng và giải pháp" để
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghèo đói là một hiện tượng rất phổ biến trong phạm vi cả thế giới,
cho nên vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh khác nhau.
Cho đến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
luận văn tốt nghiệp đã đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN), trong
đó có các công trình như:
2
Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm chủ biên có:
- Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993);
- Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993);
- Xóa đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996);
- Xóa đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997).
Về luận văn, luận án có các công trình sau:
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, 1999;
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001;
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xóa đói giảm nghèo
ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến vấn đề đói nghèo dưới các
góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập đến vấn đề đói nghèo ở Gia Lai dưới góc độ kinh tế chính trị.
Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công
trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Luận văn làm rõ thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của tỉnh Gia Lai
hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu góp phần XĐGN trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ
- Khái quát một số luận điểm về đói nghèo, tiêu chuẩn về đói nghèo
của quốc tế và trong nước.
- Tập trung phân tích thực trạng đói nghèo của tỉnh Gia Lai hiện nay
và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản gây nên đói nghèo của Tỉnh.
3
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc giải quyết vấn đề XĐGN của
tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị
và tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình đói nghèo của tỉnh Gia Lai trong
giai đoạn từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về
XĐGN của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ tỉnh Gia Lai để nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết
hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, thống kê, so
sánh, tổng hợp, khái quát, hệ thống
6. Những đóng góp của luận văn
Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo ở Gia Lai và đưa ra các giải
pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề đói nghèo của Tỉnh trong giai
đoạn hiện nay.
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch
định chính sách XĐGN trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề
XĐGN ở các địa bàn có đặc thù tương tự như Gia Lai, làm tư liệu giảng dạy
và nghiên cứu môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Quá trình nhận thức về ®ãi nghèo
1.1.1.1. Bản chất của đói nghèo qua các thời kỳ lịch sử
§ãi nghèo là một thực trạng của quá trình phát triển kinh tế, xã hội, nó
hiện hữu trong cuộc sống như một yếu tố lịch sử, có thể sinh ra, tồn tại, phát
triển và cũng có thể mất đi ở mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia hay
mỗi xã hội.
Thời kỳ cộng sản nguyên thủy, con người vừa được tách ra khỏi thế
giới động vật đã tập hợp nhau lại để trở thành một tổ chức xã hội sơ khai. Tổ
chức xã hội này chưa có giai cấp, chưa có áp bức bóc lột, mọi người sống với
nhau rất hòa thuận, cùng làm cùng hưởng, không hề có sự chiếm đoạt của c¶i
d thừa thành của riêng, thành chiếm hữu tư nhân để sinh ra bóc lột, áp bức và
v× thế cũng chưa xuất hiện khái niệm giàu nghèo trong cuộc sống của họ. Tuy
nhiên cuộc sống săn bắt, hái lượm ấy, chỉ với một vài công cụ thô sơ như cái
gậy, hòn đá thì còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên và thường xuyên xảy ra
tình trạng no quá khi có nhiều thức ăn, đói quá khi thức ăn khan hiếm. Như
vậy ý niệm về no đói đã xuất hiện trước ý niệm giàu nghèo trong xã hội cộng
sản nguyên thủy. Ở đây nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội
là điển hình sự thống trị của tự nhiên đối với con người.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ chỉ được coi như một thứ
hàng hóa, một công cụ sản xuất biết nói có thể trao đổi trên thị trường. Trong
chế độ phong kiến, người lao động tuy được tự do về thân thể nhưng cũng chỉ
là kẻ đi cày thuê cuốc mướn cho địa chủ phong kiến để kiếm miếng cơm,
5
manh áo qua ngày. Trong xã hội lúc này hầu hết người lao động đều là người
nghèo, đều là hệ quả áp bức xã hội của chế độ người bóc lột người. Chính vì
thế mà sự giàu có của cực này dựa trên sự bóc lột, sự bần cùng hóa của cực
khác. Những chủ nô, địa chủ phong kiến càng giàu lên thì những người lao
động càng nghèo đi.
Trong chñ nghÜa t b¶n, những người lao động, những công nhân làm
thuê cho chủ tư bản cũng chính là những người đã bị cưỡng đoạt ruộng đất,
mất hết tư liệu sản xuất phải chạy ra các đô thị, bổ sung vào đội quân thất
nghiệp. Họ trở thành nạn nhân của tình trạng bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối
và tương đối của chủ nghĩa tư bản. Thông qua máy móc, người công nhân bị
bóc lột một cách tàn nhẫn, tinh vi hơn bao giờ hết. Kết quả là, chỉ trong một
vài năm mà số lượng hàng hóa do chế độ tư bản làm ra "bằng tất cả các thế
hệ trước cộng lại". Cũng theo C.Mác thì suy cho cùng, toàn bộ hàng hóa của
chủ nghĩa tư bản đều là do lao động thặng dư của công nhân mà có, bởi vì số
tài sản của giai cấp tư sản nếu có trước đó cũng bị chi vào tiêu dùng cá nhân
hết từ lâu rồi. Hậu quả của chế độ bóc lột tàn bạo này đã dẫn tới sự phân hóa
sâu sắc hai cực: Tích lũy sự giàu có tột độ ở phía thiểu số, giai cấp tư sản.
Tích lũy sự nghèo đói ở phía đa số, những người lao động. Hơn thế nữa, sự
phân hóa giàu nghèo đã được đẩy lên thành sự phân hóa giai cấp. Mâu thuẫn
đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng cao không thể
dung hòa được. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì nguồn gốc trực tiếp dẫn đến
tình trạng nghèo đói ở đây là phương thức phân phối phần giá trị thặng dư của
xã hội cho giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là không công bằng, người lao
động chỉ được hưởng một phần giá trị thặng dư vừa đủ để anh ta tiếp tục tái
sản xuất, còn bao nhiêu của cải đều thuộc về nhà tư bản, những người không
lao động trực tiếp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của tình trạng nghèo ®ãi
trong chủ nghĩa tư bản lại chính là ở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, ở chế độ áp bức bóc lột và tình trạng nô dịch con người. Do đó, chỉ
có xóa bỏ chế độ tư hữu, chế độ bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản
6
và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành
người lao động tự do và làm chủ, tiến tới một xã hội công bằng, văn minh, đạt
được sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội. Như vậy nghèo ®ãi trong chủ
nghĩa tư bản chính là hậu quả của áp bức bóc lột và sự tăng trưởng kinh tế của
chủ nghĩa tư bản.
Trong chủ nghĩa x· héi, khi mà nhân dân lao động đã xác lập được
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xã hội, cơ sở của bóc lột đã
bị xóa bỏ nhưng cũng không phải vì thế mà tự nhiên nghèo đói sẽ biến mất,
mọi người đều giàu có như nhau. Cuộc sống của mỗi thành viên trong xã hội
lúc này, giàu hay nghèo sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chế độ phân phối công
bằng và bình đẳng của chủ nghĩa xã hội. Theo C.Mác thì cái quyền được phân
phối và bình đẳng trong chế độ phân phối của chủ nghĩa xã hội lại chính là cái
quyền không ngang nhau đối với các lao động không ngang nhau và như thế
không có nghĩa là trong xã hội sẽ có cuộc sống ngang nhau, bình đẳng với tất
cả mọi thành viên:
Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối
với một lao động không ngang nhau. Nó không thừa nhận một sự
phân biệt giai cấp nào cả, vì bất cứ người nào cũng chỉ là một lao
động như người khác; nhưng nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không
ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó về năng lực lao động
của những người lao động coi đó là những đặc quyền tự nhiên. Vậy
theo nội dung của nó, đó là một thứ quyền không ngang nhau, cũng
như bất cứ quyền nào [26, tr. 479].
Mặc dù, nguyên tắc trên đây được coi là một nguyên tắc công bằng,
nhưng C.Mác cũng chỉ rõ, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối
công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn chứa trong nó sự
chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã
hội. C.Mác viết: "Với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham
7
dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh
nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia" [26, tr. 479].
Với cách giải thích hết sức khoa học như vậy cho ta thấy, trong chủ
nghĩa xã hội vẫn tồn tại sự giàu - nghèo, bình đẳng, công bằng chỉ là những
khái niệm tương đối chứ không phải là tuyệt đối.
Ở nước ta khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thời kỳ kinh tế
hiện vật bao cấp, tuy đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách
phân phối công bằng bình đẳng nhưng vẫn không thể thoát khỏi tình trạng ®ãi
nghèo vì nền kinh tế lúc đó là một nền kinh tế lạc hậu và chậm phát triển.
Nguyên nhân ®ãi nghèo trong thời kỳ này không phải chủ yếu là do lười lao
động, tay nghề kém… (những nguyên nhân chủ quan thuộc về người lao
động) mà chủ yếu là do cơ chế kìm hãm sự phát triển cña cá nhân và xã hội
(những nguyên nhân khách quan). Do đó, có thể nói, nghèo đói trong thời kỳ
bao cấp luôn ở tình trạng bùng nhùng không tìm ra lối thoát. Nó là hậu quả của
sự kìm hãm, trói buộc sức sản xuất xã hội và năng lực sản xuất của con người.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa
theo cơ chế thị trường đã mở ra những khả năng lớn để giải phóng sức sản
xuất xã hội và các năng lực sản xuất của từng cá nhân nhưng cũng chính vì
thế mà đã có những mức độ chênh lệch khác nhau về nhiều mặt giữa các chủ
thể sản xuất kinh doanh. Kết quả là, sự phân hóa giàu nghèo đã xuất hiện và
ngày càng gia tăng trong xã hội. Như vậy, đói nghèo trong nền kinh tế thị
trường là đói nghèo trong tiến trình của sự phát triển.
§ói nghèo là một phạm trù lịch sử, vậy thì đến khi nào và ở xã hội nào
sẽ không còn đói nghèo nữa?
Trả lời câu hỏi này, chủ nghĩa Mác - Lênin đã dù b¸o rằng: Xã hội loài
người sẽ còn phải trải qua hai giai đoạn nữa: Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản
chủ nghĩa. Ở giai đoạn đầu (giai đoạn XHCN), lao động và phân phối được
thực hiện theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo lao động", như trên
8
đã phân tích thì ở giai đoạn này vẫn còn đói nghèo. Trong giai đoạn thứ hai
(giai đoạn cộng sản chủ nghĩa) khi mà trong xã hội của cải tuôn ra dào dạt
như nước, lúc đó lao động của con người và phân phối của cải trong xã hội
được phân phối theo nguyên tắc "làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu", thì
®ãi nghèo sẽ không còn trong xã hội ấy nữa. Tất nhiên, nghèo đói ở đây chỉ
được hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không được hiểu theo nghĩa tinh thần: văn
hóa, tôn giáo, đạo đức…
1.1.1.2. Những cách nhìn nhận về đói nghèo
Cùng với thời gian, quá trình nhận thức về ®ãi nghèo của con người
ngày càng đa dạng và phong phú, mở rộng và đầy đủ hơn. Nhưng cũng phải
khẳng định rằng, chưa có một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về ®ãi
nghèo, bởi vì bản thân quan niệm này cũng đã thay đổi rất nhanh chóng trong
suốt ba thập kỷ qua. Đầu những năm 70, ®ãi nghèo chỉ được coi là sự ®ãi
nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lõi và căn bản nhất để một người bị coi
là nghèo đói đó là sự "thiếu hụt" so với mức sống nhất định. Mức thiếu hụt
này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc vào không gian và
thời gian. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, mức sống của con người
ngày càng cao hơn, những nhu cầu cho cuộc sống ngày càng nhiều hơn và
quan niệm về nghèo đói cũng được mở rộng ra rất nhiều. Các yếu tố như
nguồn lực người nghèo, mối quan hệ xã hội, khả năng tham gia vào các hoạt
động văn hóa, xã hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các rủi ro đã được đưa
vào nội dung của khái niệm ®ãi nghèo. Trong báo cáo phát triển con người
năm 1997, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đề cập đến khái
niệm ®ãi nghèo về năng lực, khác với quan niệm ®ãi nghèo về thu nhập. Theo
đó, ®ãi nghèo được tính đến điều kiện khó khăn trong phát triển con người cơ
bản. Trong báo cáo về tình hình thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên
hợp quốc năm 2003 đã nhấn mạnh sự cần thiết đưa phương pháp tiếp cận ®ãi
nghèo trên cơ sở quyền lợi cơ bản của con người (bao gồm về kinh tế, văn
hóa, xã hội chính trị và dân sinh).
9
Cho đến những năm 1970
Tiêu
dùng
Giữa những năm 1970 và
những năm 1980, tiếp cận
theo nhu cầu thiết yếu
Tiêu dùng
+ dịch vụ xã hội
+ nguồn lực
Từ những năm 1980, cách tiếp
cận theo năng lực và cơ hội
Tiêu dùng + dịch vụ xã
hội+ nguồn lực + tính dễ
bị tổn thương
Từ 1980 đến năm 2000
Tiêu dùng + dịch vụ xã hội
+ nguồn lực+ tính dễ bị tổn
thương + phẩm giá
Báo cáo về tình trạng nghèo
khổ trên thế giới, Ngân
hàng thế giới năm 2000
Tiêu dùng + dịch vụ xã hội + nguồn lực+
tính dễ bị tổn thương + phẩm giá + tự chủ
Sơ đồ 1.1: Sự phát triển của khái niệm nghèo khổ kể từ những năm 1970
Ở Việt Nam quan niệm nghèo đói cũng ngày càng được mở rộng. Nếu
như những năm 90 nhu cầu hỗ trợ người nghèo chỉ giới hạn đến các nhu cầu
tối thiểu như ăn no, mặc ấm, thì ngày nay người nghèo còn có nhu cầu hỗ trợ
về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa… tức là nhu cầu giảm nghèo và phát triển.
Điều này có nghĩa là, các chính sách phát triển kinh tế cần hướng về người
nghèo. Tăng trưởng kinh tế là cần thiết, nhưng lợi ích từ tăng trưởng không tự
động chuyển đến cho người nghèo. Người nghèo cần trở thành mục tiêu trong
việc hoạch định các chính sách phát triển.
Từ trước đến nay có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về nghèo của
các học giả, các nhà khoa học, dưới những góc độ khác nhau. Chỉ tính riêng
trong từ điển tiếng Việt năm 1994 đã có 18 định nghĩa về nghèo và các từ
đồng nghĩa với nghèo (Phụ lục 1). Cho đến nay, khái niệm nghèo đói được
dùng nhiều nhất là khái niệm đã được đưa ra tại Hội nghị bàn về giảm nghèo
10
đói do Ủy ban kinh tế và xã hội của Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ
chức tháng 9-1993 tại Băng Cốc - Thái Lan.
Khái niệm: Nghèo là tình trạng một số bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển và phong tục tập
quán của từng địa phương.
Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm mở,
có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu,
phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa (định lượng)
được bỏ ngỏ bởi vì còn phải tính đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện
tự nhiên, điều kiện xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng miền khác nhau.
Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đã đưa ra được đó chính là những
nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thỏa mãn thì họ chính là
những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ
chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được mở rộng hơn theo sự phát
triển của xã hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người được mở rộng theo
thời gian.
Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người
ta đã đưa ra hai khái niệm khác, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu)
tối thiểu.
Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đình trong
mối quan hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo
thời gian. Nghèo tuyệt đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng
và một số hàng hóa khác, do vậy một đường nghèo tuyệt đối được dùng để
thực hiện các so sánh nghèo đói.
Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân/ hộ gia đình so
với mức sống trung bình đạt được.
11
Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập
bình quân của dân cư, có quốc gia xác định dựa trên 1/2 thu nhập bình quân,
có quốc gia lại dựa trên 1/3 thu nhập bình quân.
Để so sánh sự nghèo khổ giữa các quốc gia với nhau, người ta sử dụng
khái niệm nghèo tương đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thì dùng
khái niệm nghèo tuyệt đối. Cách chọn khái niệm tùy theo mục đích mà mình
theo đuổi. Tuy nhiên, cả hai khái niệm trên đều không hoàn toàn đầy đủ. Khái
niệm nghèo tuyệt đối không tính đến sự khác nhau về mức sống ở các nước.
Khái niệm nghèo tương đối, không tính đến sự diễn biến của bối cảnh kinh tế
xã hội, do đó không tính đến diễn biến của những nhu cầu.
Ngoài khái niệm chung về nghèo đói, trong quá trình tìm hiểu, nghiên
cứu ta thường gặp một số khái niệm khác chỉ những khía cạnh của nghèo đói như:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Hay nói một cách khác đói là một nấc thang thấp nhất của nghèo.
Nghèo đói kinh niên: Là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền
cho đến thời điểm đang xét.
Nghèo đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo đói
đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm
đang xét.
Vùng nghèo, vệt nghèo: Là nơi có tỷ lệ nghèo cao hơn nhiều và mức
sống dân cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước, trong cùng
một thời điểm.
Quốc gia nghèo: Là một đất nước có bình quân thu nhập rất thấp,
nguồn lực (tài nguyên) cực kỳ hạn hẹp (về vật chất, lao động, tài chính) cơ sở
12
hạ tầng môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng
đồng quốc tế.
Và còn nhiều khái niệm khác như: Nghèo không gian, nghèo thời
gian, nghèo môi trường, nghèo lứa tuổi, nghèo giới…Tất cả chỉ là xác định rõ
hơn đặc điểm, mức độ, nguyên nhân của các đối tượng nghèo và từ đó sẽ có
những giải pháp thích hợp cho từng đối tượng nghèo khác nhau.
1.1.2. Xác định chuẩn nghèo
Ở phần trên chúng ta đã xem xét đói nghèo theo định tính, ở phần này
chúng ta tìm hiểu đói nghèo theo định lượng, với những tiêu chí kinh tế cụ thể
trong từng giai đoạn lịch sử.
Chuẩn nghèo (hay còn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo, hoặc tiêu
chí nghèo): Là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo.
Hầu hết chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những người
được coi là nghèo khi mức sống của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp
hơn mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo (đường nghèo).
Những người có mức thu nhập hoặc chi tiêu ở trên chuẩn này là người không
nghèo hoặc đã vượt nghèo, thoát nghèo.
Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước
đo nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của Chính phủ
tới nghèo đói, cho phép đánh giá nghèo đói theo thời gian, tạo điều kiện so
sánh với các nước khác, và giám sát chi tiêu xã hội theo hướng có lợi cho
người nghèo.
1.1.2.1. Xây dựng chuẩn nghèo của thế giới
Xác định chuẩn nghèo dựa vào khẩu phần ăn
Trước tiên là phải xác định được số lương thực, thực phẩm thích hợp
sau đó đưa ra số Kcalo chuẩn nhất cho tiêu dùng của một người hàng ngày, tất
13
nhiên không có sự thống nhất giữa các quốc gia về lượng Kcalo tiêu dùng để
xác định chuẩn nghèo.
Bảng 1.1: Lượng Kcalo tiêu dùng hàng ngày cho một người được sử dụng
trong xây dựng chuẩn nghèo
Việt Nam 2.100
Indonesia 2.100
Philippin 2.000
Thái Lan 1.978
Trung Quốc 2.150
Nguồn: [6, tr. 10].
Tất nhiên, phương pháp này không được chính xác nếu ta đem so sánh
giữa người nghèo nông thôn và người nghèo thành thị. Ở nông thôn luôn mua
được lương thực và thực phẩm rẻ hơn ở thành thị, kết quả là hàm Kcalo thu
nhập cho các hộ gia đình ở nông thôn sẽ cao hơn các hộ gia đình thành thị và
do đó chuẩn nghèo khu vực nông thôn sẽ thấp hơn ở khu vực thành thị.
Xác định chuẩn nghèo dựa vào chi phí cho các nhu cầu cơ bản
Phương pháp này xác định giá trị của tiêu dùng cần thiết để đáp ứng
các nhu cầu cơ bản. Chuẩn nghèo được tính như sau:
Đường nghèo Z: Z = ZF + ZN
ZF = Đường nghèo lương thực, thực phẩm
ZN = Đường nghèo phi lương thực, thực phẩm
Xác định chuẩn nghèo từ thu nhập bình quân
Các quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên sự thiếu hụt của cá nhân,
hộ gia đình so với mức sống trung bình đạt được. Có quốc gia xác định chuẩn
này dựa trên 1/2 thu nhập bình quân, có quốc gia lại dựa trên 1/3 thu nhập
bình quân.
14
Trên thế giới hiện nay, trừ Mỹ có đường nghèo hầu như không đổi
trong suốt 4 thập kỷ qua, còn lại tất cả các nước khi giàu lên họ thường có
hướng điều chỉnh lại chuẩn nghèo. Cộng đồng châu Âu định nghĩa nghèo là
có thu nhập bình quân đầu người thấp dưới 50% thu nhập của đối tượng trung
lưu. Khi thu nhập của đối tượng trung lưu tăng lên thì chuẩn nghèo cũng tăng
lên. Ở Canada người ta sử dụng chuẩn nghèo tương đối để theo dõi nghèo đói:
Năm 1993 thu nhập bình quân một gia đình 4 người là 62.000 USD và họ
quan niệm chuẩn nghèo của Canada là những gia đình 4 người có thu nhập
dưới 31.000USD [6, tr. 12].
Chuẩn nghèo 1 USD, 2 USD /ngày/người.
Để có điều kiện đánh giá hiệu quả của các chính sách chống đói nghèo
theo thời gian và so sánh tỷ lệ nghèo đói giữa các nước này với các nước khác,
cũng như việc xác định các nơi cần phải trợ giúp, một số tổ chức quốc tế, đặc biệt
là Ngân hàng Thế giới, đã sử dụng mức tiêu chuẩn 1 USD, 2 USD/ngày/người.
Trong đó các mức này được dựa trên sức mua tương đương của đồng USD
năm 1995. Chuẩn nghèo này là chuẩn nghèo tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng cần
phải khẳng định là hiện tại còn rất nhiều vấn đề liên quan đến cách tính 1 USD,
2 USD theo sức mua tương đương với đồng USD. Do vậy, phương pháp này
chủ yếu để so sánh quốc tế hơn là trong nước.
1.1.2.2. Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp
xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định
chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công
bố và chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới
* Cách xác định đường nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng
Thế giới
Tổng cục Thống kê với vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu
cấp quốc gia và có thể so sánh quốc tế đã cùng Ngân hàng Thế giới áp dụng
15
phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống
của Ngân hàng Thế giới được triển khai vào đầu thập niên 80 cho các nước
đang phát triển. Phương pháp này cho phép các kết quả tính toán có thể so
sánh được với các nước trong khu vực và so sánh theo thời gian.
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là chi phí cần
thiết mua rổ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng Kcalo tiêu dùng bình
quân 1 người 1 ngày (2.100 Kcalo). Năm 1998 chuẩn nghèo lương thực, thực
phẩm được xác định là 1.287 ngàn đồng/người/năm
- Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về
lương thực, thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực,
thực phẩm của nhóm dân cư 3 (nhóm có mức sống trung bình). Chuẩn nghèo
chung được xác định cho năm 1998 là: 1.790 ngàn đồng/người/năm.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:
Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã hơn
10 năm không thể phản ảnh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số
người dân Việt Nam.
Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị
và nông thôn chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không
thể xác định và lập được danh sách hộ nghèo cụ thể ở các địa phương.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực chương
trình quốc gia XĐGN, đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc
đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang
sử dụng chỉ tiêu thu nhập. Mục đích của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội là xác định được đối tượng cụ thể của chương trình trợ cấp thôn, xã, lên
danh sách hộ nghèo, chỉ ra các nguyên nhân nghèo đói và đề xuất các giải
pháp hỗ trợ. Bên cạnh đó giúp Chính phủ theo dõi, đánh giá tác động của các
16
chính sách kinh tế và XĐGN, điều chỉnh chuẩn nghèo theo mức độ cải thiện
của đời sống dân cư và người nghèo.
Chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
công bố đã điều chỉnh qua 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1993 - 1995
Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối
với hộ thành thị và dưới 8 kg đối với hộ nông thôn.
Hộ nghèo: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20kg
đối với khu vực thành thị và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn.
Giai đoạn 1995 - 1997
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong một tháng
quy ra gạo dưới 13 kg, tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo: dưới 13kg/người/tháng.
- Vùng thôn đồng bằng: dưới 20kg/người/tháng.
- Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng.
Giai đoạn 1997 - 2000
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập một người trong một tháng quy ra gạo
dưới 13kg, tương đương 45 ngàn đồng (giá năm 1997) tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng).
- Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
17
Giai đoạn 2001 - 2005
- Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
- Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
- Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
[6, tr. 14-15].
Cách tiếp cận này có ưu điểm:
Đảm bảo từng bước thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc,
ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại…).
Chuẩn được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện
điều kiện sống của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập từ lao
động với mục tiêu bảo đảm không ngừng nâng cao mức sống của người nghèo.
Tạo điều kiện cho các cơ sở có thể triển khai được việc lập danh sách
hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết.
Cách tiếp cận này còn hạn chế:
Mặc dù khi tính toán chuẩn nghèo có dựa trên nhu cầu về lương thực,
thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm, song chưa tính toán đầy đủ cho nhu
cầu tiêu dùng, tỷ lệ chi cho nhu cầu phi lương thực, thực phẩm còn thấp.
Độ tin cậy về số liệu khi xây dựng các phương án chưa cao do không
có điều kiện điều tra trên diện rộng. Bên cạnh đó việc thu thập thông tin về
thu nhập còn rất khó chính xác, đặc biệt là thu nhập của người dân nông
thôn và miền núi. Việc quan sát tình trạng nghèo của hộ gia đình chỉ dựa chỉ
tiêu đầu vào, chưa quan sát hộ gia đình trên các chỉ tiêu khác như đồ dùng,
tài sản, nguồn lực… dẫn đến hiện tượng bỏ sót hoặc đưa nhầm đối tượng
vào chương trình XĐGN ở một số xã trong quá trình rà soát và bình xét.
18
Tính thống nhất của chuẩn nghèo chưa được bảo đảm, việc điều chỉnh chuẩn
nghèo liên tục không cho phép công tác theo dõi, giám sát, đánh giá nghèo
đói một cách hệ thống.
* Xây dựng chuẩn nghèo mới áp dụng vào giai đoạn 2006 - 2010
[6, tr. 18-26].
- Yêu cầu của chuẩn nghèo mới.
+ Bảo đảm người nghèo được hưởng thành quả phát triển kinh tế - xã
hội. Từng bước nâng cao mức sống cho người nghèo theo mức sống chung
của xã hội. Chuẩn nghèo mới phải từng bước đáp ứng được nhu cầu cơ bản
của người nghèo.
+ Tạo điều kiện để phân loại hộ nghèo một cách dễ dàng, tập trung
trọng tâm của các chương trình, chính sách vào vùng sâu, vùng miền núi, hải
đảo, dân tộc, biên giới.
+ Tạo sự đồng bộ trong công tác XĐGN, bao gồm xác định người nghèo,
tìm hiểu nguyên nhân, xây dựng các chính sách hỗ trợ, cung cấp thông tin.
+ Từng bước hòa nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả hợp tác khu vực và
quốc tế trong lĩnh vực XĐGN
- Định hướng xây dựng chuẩn nghèo mới:
Thống nhất về khái niệm, nội dung và phương pháp xác định chuẩn
nghèo giữa các cơ quan liên quan, đặc biệt là Bộ Lao động - Thương binh Xã
hội và Tổng cục Thống kê để xây dựng một chuẩn nghèo duy nhất.
- Các phương pháp đo lường:
+ Phương pháp tiếp cận: Sử dụng phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo
khách quan trên cơ sở hệ nhu cầu tối thiểu để tính chuẩn nghèo là chính, các
phương pháp khác bổ sung.
19
+ Lựa chọn chỉ tiêu: Trước kia là dùng chỉ tiêu thu nhập, thực tế là
rất khó phản ánh chính xác mức sống của người dân do bị bỏ sót hoặc người
dân không muốn khai báo. Trong khi đó việc bảo đảm các nhu cầu về ăn,
mặc, ở, đi lại, y tế, giáo dục… có thể quan sát thông qua "đầu ra", mức chi
tiêu hiện tại của hộ gia đình. Điều quan trọng là chúng ta phải quan tâm thực
chất người nghèo sống như thế nào chứ không phải là họ có thu nhập đủ
sống hay không? Vì vậy chuẩn nghèo mới đã dùng chỉ tiêu "chi tiêu" để đo
lường mức sống của hộ gia đình làm căn cứ để phân loại hộ nghèo và hộ
không nghèo.
+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng 2006 - 2010: Nhu cầu năng lượng
được xác định dựa vào nhu cầu cho chuyển hóa cơ bản, thời gian và tính chất
của các hoạt động trong ngày. Dựa theo đề nghị của tổ chức y tế thế giới năm
1985, nhu cầu năng lượng bình quân cho người Việt Nam do Viện Dinh
dưỡng đề nghị đạt khoảng 2.100 Kcalo/ngày/người.
+ Lựa chọn nhóm dân cư làm căn cứ để tính toán nhu cầu lương thực,
thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm.
Trong cuộc điều tra mức sống dân cư năm 2002, mức tiêu thụ
Kcalo/ngày/người của các nhóm như sau:
Bảng 1.2: Mức tiêu thụ kcalo một ngày năm 2002
Nhóm chi tiêu (20 %)
Lượng k.calo tiêu dùng
1 người 1 ngày
Lượng k.calo quy đổi
cho mỗi người
Nhóm 1: nghèo nhất 1735 1943
Nhóm 2: nghèo vừa 1875 2187
Nhóm 3: trung bình 1952 2364
Nhóm 4: khá giả 1973 2539
Nhóm 5: giàu nhất 1835 2773
Nguồn: [6, tr. 20].
20
Từ bảng trên cho thấy, nhóm dân cư thứ hai là nhóm có mức tiêu dùng
gần với ngưỡng 2.100 kcalo lựa chọn (năm1998 là nhóm dân cư 3), do vậy
khối lượng hàng hóa lương thực, thực phẩm tiêu dùng bình quân đầu người
của nhóm dân cư này sẽ được tính toán để xác định rổ hàng hóa lương thực,
thực phẩm đáp ứng được nhu cầu 2.100 kcalo/người/ngày.
- Cập nhật chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010.
+ Tính toán rổ lương thực, thực phẩm: Sau 10 năm mức sống của các
hộ gia đình Việt Nam được nâng lên, xu hướng tiêu dùng các mặt hàng lương
thực giảm đi còn các mặt hàng thực phẩm lại tăng lên (phụ lục 2).
Ở chuẩn nghèo mới này sẽ chỉ áp dụng một rổ hàng hóa lương thực,
thực phẩm cho tất cả các vùng trong khu vực thành thị, nông thôn.
+ Chi phí cho rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm được tính theo công
thức sau:
Chi phí rổ = ΣXi Pi
Trong đó: Xi: Hàng hóa i trong rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm.
Pi: Giá mua hàng hóa i
+ Xác định chuẩn nghèo chung.
Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo lương
thực, thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm.
Chuẩn nghèo chung = Chi (LT, TP + phi LT, TP)
Xác định nhu cầu phi lương thực, thực phẩm cũng dựa trên mức chi tiêu
thực tế của nhóm hộ gia đình được lấy làm chuẩn (nhóm 2), bởi vì nhóm hộ
này khi đã đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm thì cũng đáp ứng
được nhu cầu về phi lương thực, thực phẩm. Chi phí cho các mặt hàng phi
lương thực, thực phẩm được tính bằng cách lấy chi phí trung bình 1 người/năm
của nhóm chi tiêu 2 sau khi đã điều chỉnh chỉ số giá vùng (giá thành thị và giá
nông thôn) (phụ lục 3)
21
Bảng 1.3: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010
(1000 đồng/người/tháng)
Thành thị Nông thôn
1. Lương thực - Thực phẩm 137 114
2. Chung 260 200
Nguồn: [6, tr. 27].
Hộ rất nghèo: Là hộ có giá trị thu nhập bình quân đầu người/tháng
dưới một nửa chuẩn nghèo mới.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân dưới 250.000 đồng/người/tháng
đối với khu vực thành thị và dưới 200.000 đồng/người/tháng đối với khu vực
nông thôn và giá trị tài sản bình quân đầu người ở mức trung bình của cộng
đồng (xã) trở xuống.
Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trên chuẩn nghèo
10.000 đồng trở xuống đối với cả hai khu vực, nhưng giá trị tài sản bình quân
đầu người ở mức thấp hơn so với cộng đồng (xã).
+ Các yếu tố tác động đến chuẩn nghèo: Có nhiều yếu tố tác động đến
chuẩn nghèo đói, tuy nhiên có hai yếu tố quan trọng nhất, đó là tốc độ tăng giá
cả các mặt hàng về lương thực, thực phẩm; phi lương thực, thực phẩm và tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Do vậy, để đảm bảo "quyền lợi" của người nghèo, chuẩn nghèo
cần phải được điều chỉnh theo chỉ số tăng của giá cả và mức tăng trưởng kinh tế.
- Ưu điểm của chuẩn mới:
Phương pháp tiếp cận xây dựng chuẩn nghèo khách quan cho phép phản
ánh thực trạng nghèo đói và phân bố nghèo đói ở Việt Nam. Cách tiếp cận này
cũng phù hợp với phương pháp tiếp cận quốc tế, nhất là các nước đang phát triển.
Sử dụng đầu ra để đánh giá mức sống của người nghèo là bảo đảm
tính khách quan khi đánh giá mức sống của người nghèo. Sử dụng chuẩn
nghèo cho 2 khu vực thành thị và nông thôn là phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010. Áp dụng một chuẩn cho nông thôn và
22
miền núi sẽ có lợi hơn cho người nghèo ở miền núi do chuẩn áp cho khu vực
này cao hơn mức thực tế người dân miền núi chi tiêu.
- Nhược điểm của chuẩn mới:
Phương pháp tiếp cận: Nhu cầu lựa chọn để tính chuẩn nghèo là nhu
cầu thực tế, chưa phải là nhu cầu "cần thiết" để người dân nông thôn và người
dân miền núi được bình đẳng thực sự so với người dân thành thị.
Chưa phản ánh hết đặc thù nghèo đói tại Việt Nam, thực tế cho thấy
người nghèo được hỗ trợ nhiều từ chương trình của Chính phủ và các chương
trình khác. Các hỗ trợ này chưa được tính vào phần chi phí của các hộ gia
đình, do đó có xu hướng làm giảm mức độ phúc lợi thực tế của hộ nghèo. Bên
cạnh đó các đặc điểm của người nghèo như trình độ học vấn, việc làm, sức
khỏe…chưa thể hiện đầy đủ.
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.2.1. Chiến lược và một số mô hình xóa đói giảm nghèo của thế giới
1.2.1.1. Quan niệm về giảm nghèo
Khái niệm
Giảm nghèo hay (XĐGN) chính là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng
cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần
trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là
một quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện
lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời
sống mọi mặt của mỗi người.
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái
niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh,
23
hoặc khi khái niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Do đó, việc đánh giá mức
độ giảm nghèo phải được đánh giá trong một thời gian, không gian nhất định.
Giảm nghèo là một phạm trù cũng chỉ mang tính lịch sử, do đó chỉ có
thể từng bước giảm nghèo, chứ chưa thể xóa sạch được nghèo. Chỉ khi nào xã
hội loài người đạt tới trình độ xã hội cộng sản như chủ nghĩa Mác - Lênin dự
đoán thì hiện tượng nghèo sẽ không còn nữa và giảm nghèo cũng không cần.
Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có
nhiều quan niệm về giảm nghèo khác nhau:
Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc
hậu song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo chính là quá trình chuyển đổi sang
phương thức mới tiến bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất
công đối với người lao động, do chế độ sở hữu TBCN thì giảm nghèo chính là
quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này.
Nếu hiểu nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc
kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá
trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó
phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát
triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại, tất nhiên không
phải bằng cách của Malthus đã làm.
Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã
hội ổn định và phát triển.
Ở nước ta hiện nay nghèo đói không phải là do bóc lột của giai cấp tư
sản và địa chủ đối với lao động như trước đây mà do nền kinh tế nước ta đang
24
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu kém phát triển sang nền kinh
tế phát triển hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trình độ
sản xuất khác nhau. Có trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn trong khi đó
trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế các
trình độ sản xuất cũ. Do đó dẫn đến có sự giàu nghèo khác nhau trong các
tầng lớp dân cư.
Như vậy, giảm nghèo (XĐGN) ở nước ta chính là từng bước thực hiện
quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã
hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo (XĐGN) là quá trình tạo điều
kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát
triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn
giúp họ từng bước thoát ra khỏi tình trạng nghèo.
Trong tiến trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có mối
quan hệ biện chứng. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật chất để
giảm nghèo. Ngược lại giảm nghèo là nhân tố đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế
mang tính bền vững. Tuy nhiên trong mối quan hệ này thì giảm nghèo vẫn là
yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào yếu tố tăng trưởng kinh tế. Trong nền
kinh tế, nếu tăng trưởng kinh tế chịu tác động của các quy luật kinh tế như: quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận, năng suất lao động… thì
giảm nghèo lại chịu tác động quy luật phân hóa giàu nghèo, vấn đề phân phối và
thu nhập, vấn đề lao động và việc làm, các chính sách xã hội… Trong quá trình
vận động các yếu tố, các quy luật tác động lên tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo theo nhiều chiều hướng, có khi trái ngược nhau. Do vậy, để đảm bảo được
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đòi hỏi Nhà nước có sự can thiệp sao cho
sự tác động của các quy luật có hướng đồng thuận. Đây là vấn đề không hề
đơn giản và không phải quốc gia nào cũng làm được trong quá trình phát triển.
1.2.1.2. Chiến lược chống nghèo đói của thế giới
25