Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Đề tài “ Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.41 KB, 135 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

“ Thực trạng và giải pháp phát
triển bền vững ngành nuôi trồng
thuỷ sản Việt Nam”
GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Sơn
SVTT: Nguyễn Thị Tuyết
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
LỜI MỞ ĐẦU
Thủy sản Việt nam trong hơn 10 năm qua đã có những bước phát triển vượt
bậc, trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển thủy sản nhanh trên thế giới.
Trong đó, ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam được coi là tiến bộ nhanh nhất, bất
chấp sự khởi đầu muộn và hiện chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng thuỷ sản của cả
nước, góp phần quan trọng trong việc nâng cao sản lượng và giá trị xuất khẩu và tạo
công ăn việc làm cho nhiều người dân, đặc biệt là vùng dân nghèo ven biển, vùng sâu
vùng xa, hải đảo…Từ đó tiến tới sụ ổn định các mặt của xã hội. NTTS đang ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế thế giới, và thể hiện vai trò
quan trọng của mình trong nền kinh tế -xã hội nhất là với một nước nghèo đi lên từ
nền sản xuất nông nghiệp như Việt Nam. Việc phát triển mạnh mẽ NTTS thay thế cho
khai thác hải sản đã phần nào giảm áp lực khai thác quá mức đối với vùng biển Việt
Nam, tiến tới bảo tồn nguồn tài nguyên biển tự nhiên của đất nước.
Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn còn không ít những bất cập và phải
đối mặt với hàng loạt thách thức như: công tác quy hoạch chưa không theo kịp với
tốc độ phát triển, đầu tư còn dàn trải, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hàm lượng khoa học


công nghệ còn thấp, nguồn lợi thuỷ sản đang có xu hướng giảm , sự phát triển còn
mang tính nhỏ lẻ, tự phát, không theo kịp quy hoạch dẫn đến môi trường một số nơi
có dấu hiệu suy thoái, dịch bệnh phát sinh và có sự mất cân đối giữa cung và cầu Do
đó, để khắc phục những tồn tại nêu trên, đáp ứng được những biến đổi về khí hậu, các
yêu cầu của hội nhập kinh tế toàn cầu, sự suy thoái môi trường, sự đòi hỏi ngày càng
khắt khe của thị trường về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như theo kịp
sự tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại thì rất cần một chiến lược phát triển tổng
thể nhằm mục tiêu phát triển ngành “ nuôi trồng thủy sản “ một cách bền vững, góp
phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng thị trường
trong nước và phục vụ xuất khẩu. Phát triển bền vững NTTS là sự phát triển có sự kết
hợp hài hoà của ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Đặc biệt sự phát triển bền vững không chỉ thoả mãn nhu cầu hiện tại của con người
mà còn phải đảm bảo một cơ sở tài nguyên phong phú, bảo tồn các giống loài thúy
sản quý hiếm, một môi trường trong sạch không ô nhiễm, một xã hội tiến bộ cho
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
người dân trong tương lai.
Trong thời gian thực tập ở Vụ KTNN của Bộ KH & ĐT em đã nhận thức được
sự cần thiết của sự phát triển bền vững cũng như thực trạng của ngành NTTS ở Việt
Nam, vì thế em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững
ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam”
Mặc dù đã có sự cố gắng nhưng do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài
viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý, phê
bình của thầy giáo, cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú trong Vụ kinh tế
nông nghiệp (Bộ KH- ĐT) để em hoàn thành bài báo cáo được tốt hơn. Em xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến thầy giáo T.S Nguyễn Ngọc Sơn cùng các chuyên viên Vụ
KTNN (Bộ KH – ĐT ) đã giúp em hoàn thành bài viết này.
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Mục đích nghiên cứu đề tài:
+ Hệ thống các vấn đề lý luận chung về ngành Nuôi trồng thuỷ sản.

+ Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam trong
thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
+ Lựa chọn những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
+ Phân tích, đánh giá tình hình nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Tình hình nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước ngọt, nước lợ ở Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến nay.
Đánh giá hoạt động nuôi trồng thuỷ sản từ đó rút ra vấn đề cần giải quyết.
3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
- Quan điểm: phát triển bền vững ngành NTTS.
- Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở thu thập được những số liệu thực tế của
ngành NTTS những năm qua, bài viết của em tiến hành phân tích những kết quả đạt
được, so sánh đối chiếu với những nguyên tắc, mục tiêu về sự phát triển bền vững, từ
đó đánh giá sự phát triển của ngành NTTS đã đạt tiêu chuẩn hay chưa, còn những tồn
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
tại, bất cập gì để từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục và phát trỉên
hơn nữa ngành NTTS Việt Nam.
4. Kết cấu đề tài:
Phần I: Cơ sở lý luận về vấn đề phát triển bền vững ngành NTTS.
Phần II: Thực trạng phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến nay.
Phần III: Giải pháp phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
I – Khái niệm, đặc điểm của ngành nuôi trồng thủy sản.
1. Khái niệm ngành nuôi trồng thủy sản.
Ngành thuỷ sản xuất hiện và có quá trình phát triển từ rất lâu đời với xuất
phát điểm là đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS). Thời kỳ đầu đánh bắt thuỷ sản
được coi là ngành quan trọng chủ yếu cấu thành nên ngành Thuỷ sản. Vì vậy, ở thời
điểm đó NTTS chưa phát triển và con người chưa ý thức được việc tái tạo nguồn lực
và đảm bảo môi trường cho sự phát triển của các loài thuỷ sản. Những thập kỷ gần
đây, khi sản phẩm thuỷ sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ sụt giảm và cạn kiệt vì
đánh bắt quá nhiều, tràn làn trong điều kiện nguồn lực có hạn thì NTTS ngày càng
phát triển và trở nên quan trọng. Chính vì thế ngành NTTS được nhìn nhận trên nhiều
quan điểm như sau:
- Theo giáo trình kinh tế thuỷ sản: NTTS là một bộ phận sản xuất có tính
nông nghiệp nhằm duy trì bổ sung, tái tạo, và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, các sản
phẩm thuỷ sản được cung cấp cho các hoạt động tiêu dùng và chế biến xuất khẩu.
Hoạt động nuôi trồng diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước với nhiều chủng loại khác
nhau, bên cạnh đó sự phát triển của khoa học kỹ thuật phục vụ cho hoạt động NTTS.
- Quan điểm của các nhà kinh tế học: NTTS là một hoạt động sản xuất tạo ra
nguyên liệu thuỷ sản cho qúa trình tiêu dùng sản phẩm hoạt động xuất khẩu và
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
- Quan điểm của các nhà sinh học: NTTS là hoạt động tạo ra các điều kiện
sinh thái phù hợp với sự trưởng thành và phát triển của các loại thủy sản để thúc đẩy
chúng phát triển qua các giai đoạn của vòng đời.
- Theo quan điểm của FAO: NTTS là các hoạt động canh tác trên đối tượng
sinh vật thủy sinh như nhuyễn thể, giáp xác, thực vật thủy sinh…quá trình này bắt đầu
từ khi thả giống, chăm sóc nuôi lớn cho tới khi thu hoạch xong.
2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản.
2.1. Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp đất nước và tương đối phức tạp so với
các ngành sản xuất vật chất khác.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A

Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Ở đâu có nước là ở đó có nuôi trồng thủy sản.Vì vậy, nuôi trồng thủy sản phát
triển rộng khắp tại mọi vùng địa lý từ miền núi xuống miền biển. Thủy sản nuôi rất đa
dạng, nhiều giống loài mang tính địa lý rõ rệt, có quy luật riêng của từng khu hệ sinh
thái điển hình. Do vậy, công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành cần chú ý đến
các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch,
triển khai thực hiện các chính sách… phải phù hợp với từng khu vực lãnh thổ hay
từng vùng khác nhau.
2.2. Số lượng, chất lượng nguồn nước và nguồn lợi thủy sản rất khác nhau.
Mỗi mặt nước nuôi trồng thủy sản có độ màu mỡ khác nhau phụ thuộc vào thổ
nhưỡng vùng đất và nguồn nước, nguồn cung cấp. Vật nuôi trong ao hồ rất khó quan
sát trực tiếp được như trên cạn vì thế rủi ro trong sản xuất lớn hơn nhiều. Người nuôi
cần có kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật cần thiết về vấn đề thuỷ lợi, bởi vì thuỷ lợi
như chìa khoá để mở ra cánh cửa cho người làm thuỷ sản có thể đạt được những thành
tựu to lớn.
2.3. Hoạt động nuôi trồng thủy sản có tính mùa vụ rõ nét.
Nuôi trồng thủy sản mang tính mùa vụ vì thủy sản có quy luật sinh trưởng và
phát triển riêng. Theo Lenin, tính mùa vụ thể hiện ở chỗ thời gian lao động không ăn
khớp với thời gian sản xuất. Thời gian lao động là thời gian tác động tới sự hình thành
của sản phẩm, còn thời gian sản xuất kéo dài hơn vì bao gồm cả thời gian lao động
không tác động đến sản phẩm.
Ví dụ : thời gian sản xuất kéo dài từ A đến B, nhưng thời gian lao động chỉ
bao gồm: thời gian cải tạo ao (phơi đáy ao 2 tuần lễ), thả giống, chăm sóc (cho ăn 2
lần/ ngày), thu hoạch. Như vậy, rõ ràng người nuôi phải tuân theo quy luật sinh
trưởng và phát triển của thuỷ sản.
A B

Cải tạo Thả giống Chăm sóc Thu hoạch
Trong NTTS phải lưu giữ và chăm sóc đặc biệt đối với đàn vật nuôi bố mẹ
(đàn cá bố mẹ, tôm bố mẹ…) để sản xuất con giống cho các vụ nuôi tiếp theo. Đây là

tài sản sinh học đặc biệt của doanh nghiệp, việc lựa chọn đàn tôm, cá bố mẹ phải tuân
theo quy trình khoa học – công nghệ của hệ thống quốc gia.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Tính thời vụ trong NTTS đã dẫn đến tình trạng người lao động có lúc rất bận
rộn còn có những lúc lại nhàn rỗi. Đặc điểm này đòi hỏi trong NTTS một mặt phải tôn
trọng tính thời vụ, mặt khác phải giảm bớt tính thời vụ bằng cách: Đối với NTTS phải
cần tập trung nghiên cứu các giống loài thuỷ sản có thời gian sinh trưởng ngắn để có
thể sản xuất nhiều vụ trong năm.
2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có từ rất lâu đời nhưng đi lên từ điểm xuất phát rất thấp:
nhỏ bé, manh mún và phân tán.
Ngành thuỷ sản xuất hiện và có quá trình phát triển từ rất lâu đời với xuất
phát điểm là đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS). Thời kỳ đầu đánh bắt thuỷ sản
được coi là ngành quan trọng chủ yếu cấu thành nên ngành Thuỷ sản. Vì vậy, ở thời
điểm đó NTTS chưa phát triển và con người chưa ý thức được việc tái tạo nguồn lực
và đảm bảo môi trường cho sự phát triển của các loài thuỷ sản. Vì thế có thể nói
ngành NTTS là một ngành tuy có từ lâu đời nhưng đi lên từ điểm xuất phát thấp, nhỏ
bé, manh mún.
Trong thời gian gần đây nhờ có sự quan tâm và nhận thức đúng đắn về ngành
thuỷ sản nên đã có những bước phát triển đột phá nhất định.
Trong năm 2000 có 7 quốc gia Châu Á có tên trong số 10 nước có sản lượng
nuôi trồng thuỷ sản cao nhất thế giới, đó là : Băng La Đét, Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonexia, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam. Châu Á đóng góp 90% tổng sản lượng
NTTS của thế giới. NTTS theo hướng thân thiện với môi trường, công nghệ NTTS
không có chất thải sẽ phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam NTTS trong hệ VAC đáp
ứng yêu cầu này.
3. Các hình thức nuôi trồng thủy sản.
3.1. Các phương thức nuôi lấy thịt điển hình.
- Nuôi quảng canh: : hay còn gọi là nuôi truyền thống: là hình thức nuôi bằng
nguồn thức ăn tự nhiên trong các ao hồ, đầm ở nông thôn và các vùng ven biển.

- Nuôi quảng canh cải tiến: là hình thức nuôi chủ yếu bằng nguồn giống và
thức ăn tự nhiên, nhưng bổ sung them giống nhân tạo ở mức độ nhất định, đồng thời
có đầu tư cải tạo thủy vực nhằm tăng sản lượng.
- Nuôi bán thâm canh: : là hình thức nuôi chủ yếu bằng giống nhân tạo và thức
ăn nhân tạo, nhưng kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên trong thủy vực. Ngoài ra, hệ thống
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
hồ ao nuôi còn được đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, thiết bị cơ khí, thủy lợi…nhất là
chủ động về nguồn nước cung cấp. Có khả năng xử lý và khống chế môi trường bằng
hệ thống máy bơm sục khí.
- Nuôi thâm canh: : là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn
nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ (quy hoạch hệ thống ao hồ, thủy lợi, giao
thông, điện nước, cơ khí ), có thể chủ động khống chế các yếu tố môi trường. Mật độ
giống thả dầy, năng suất cao.
- Nuôi công nghiệp: (nuôi siêu thâm canh) là hình thức nuôi hoàn toàn bằng
con giống và thức ăn nhân tạo với mật độ rất cao. Sử dụng các máy móc và thiết bị
nhằm tạo cho vật nuôi một môi trường sinh thái và các điều kiện tối ưu, sinh trưởng
tốt nhất, không phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ, trong thời gian ngắn nhất đạt các
mục tiêu sản xuất và lợi nhuận. Một số nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức,
Nhật…có trình độ nuôi thủy sản công nghiệp tương đối cao và phổ biến, mỗi năm đạt
tời hàng ngàn tấn sản phẩm.
3.2. Các hình thức nuôi năng suất cao ở Việt Nam.
Các hình thức nuôi năng suất cao ở Việt Nam.
Tại Việt Nam trong hơn 40 năm qua từng bước hình thành và phát triển các
hình thức nuôi trồng thủy sản năng suất cao, đa dạng về giống loài và các loại thủy
vực.
3.2.1. Nuôi cá nước ngọt ở các loại hình mặt nước.
- Nuôi cá nước tĩnh: để đạt năng suất cao, người ta thường nuôi ghép nhiều
loại có tập tính ăn khác nhau. Trong ao nuôi truyền thống, nuôi ghép: mè, trôi ta, trắm
đen, chép. Sau này nuôi trồng thủy sản phát triển người ta đưa ra một vài công thức

nuôi ghép với quy trình kỹ thuật lấy một loài chủ rồi ghép với các loài khác, ví dụ
như:
+ Ao nuôi cá mè làm chủ (tính cho 1 ha): Mè trắng: 60%, mè hoa: 5%, trắm
cỏ: 3%, cá trôi (ta): 25%, chép: 7%.
+ Ao nuôi trắm cỏ làm chủ (tính cho 1 ha): Trắm cỏ: 50%, mè trắng: 20%, mè
hoa: 2%, cá trôi: 18%, chép: 4%, rô phi: 6%.
+ Ao nuôi cá rô phi làm chủ (tính cho 1 ha) : Rô phi: 45%, mè trắng: 20%, mè
hoa: 5%, cá trôi: 20%, trắm cỏ: 4%, chép: 6%.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
+ Ao nuôi cá trên làm chủ nên ghép với rô phi, khoảng 10%
- Nuôi cá nước chảy của các hộ gia đình ở miền núi: Tận dụng các khe suối,
kênh rạch có nước chảy làm ao nuôi, hoặc đào ao nuôi rồi dẫn dòng chảy qua đường
ống vào ao. Cách làm rất đa dạng sáng tạo, quy mô ao nhỏ bé, nhưng tổng diện tích
rất rộng có khi cả xã cũng có ao như Sơn La, Bình Liêu (Quảng Ninh), Mai Châu
(Hoà Bình), Cẩm Thủy (Thanh Hóa) do đó có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn. Đối
tượng nuôi chủ yếu là cá trắm cỏ, có thể nuôi ghép một ít cá chép, cá rô phi… Vật
liệu làm lồng đa dạng như tre, luồng, hóp, gỗ, sắt, lưới, ni lông…
Nuôi cá bè trên sông rất phát triển ở miền Tây Nam Bộ, mạnh nhất là ở các
tỉnh An Giang, Đồng Tháp, đối tượng chính là cá basa, cá tra. Nhà ở làm ngay trên
lồng bè nuôi cá, có bố trí chỗ ăn ở hợp lý và phòng chống ô nhiễm nước vùng nuôi cá.
- Nuôi cá nước thải sinh hoạt ở ngoại vi thành phố, thị xã:
Nuôi cá nước thải đã có từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Hợp tác xã Yên
Duyên, Thanh Trì – Hà Nội là lá cờ đầu vào thời gian đó. Có thể nuôi trên diện rộng
từ 5-10 ha, phải quy hoạch bờ vùng, mương tưới, cống tiêu, và trạm bơm, xử lý nước
thải cho phù hợp với điều kiện nuôi, ngăn ngừa vi khuẩn gây bệnh và các kim loại
nặng như chì, thủy ngân… có trong nước thải. Đối tượng nuôi chủ yếu là các loại ăn
tạp, mùn bã hữu cơ như rô phi, chép, trôi Ấn Độ và cá mè…vùng nuôi cá nước thải ở
ven đô thị cung cấp một lượng thủy sản tươi sống cho dân sống trong thành phố.
- Nuôi cá ruộng trũng: Nghề nuôi cá ruộng có lịch sử phát triển từ lâu đời ở

nước ta và các nước Đông Nam Ấ. Hiện nay, có các loại hình nuôi cá ruộng phổ biến
là xen canh và luân canh. Ở các tỉnh phía Bắc kết hợp trồng lúa – nuôi cá ở các chân
ruộng trũng hoặc luân canh một vụ lúa, một vụ cá. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá chéo,
rô phi, các ruộng nuôi cá phải được quy hoạch, có bờ vùng, bờ thửa. Bờ phải cao hơn
mức nước cao nhất hàng năm là 0.5m. Mặt bờ rộng 0.7- 0.8m để có thể trồng cây ăn
quả và lấy bong râm. Trong ruộng phải có mương, chuôm cho cá trú nắng khi nhiệt
độ cao. Tại nhiều tỉnh miền Tây Nam Bộ như Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Kiên
Giang…nuôi xen canh lúa – cá, lúa –tôm nước mặn hoặc nuôi luân canh một vụ lúa,
một vụ tôm. Ở nước ta hiện nay có những vùng ruộng trũng rộng lớn, tập trung mang
ý nghĩa kinh tế - sinh thái quan trọng cho sự phát triển lâu dài và bền vững.
3.2.2. Nuôi cá nước lợ và cá biển.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Nuôi cá nước lợ và cá biển phát triển rất chậm, mới được tập trung chủ đạo
vào cuối những năm cuối thế kỷ 20. Nuôi cá nước lợ có hiệu quả kinh tế khá cao, tỷ
suất lợi nhuận đạt 60 - 90%. Hình thức nuôi phổ biến trong đầm, eo vịnh và lồng bè.
Hiện nay, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Bà Rịa –Vũng Tàu đã có nghề
nuôi phát triển ổn định.
3.2.3. Nuôi tôm và các thủy sản khác.
Giống như các hình thức nuôi cá nước ngọt
Nuôi tôm nước ngọt có tôm càng xanh, chủ động được giống bằng cho đẻ
nhân tạo thành công. Chủ yếu phát triển mạnh nuôi tôm sú nước lợ và một số loài tôm
khác như tôm rảo, tôm thẻ. Kết quả nuôi tôm sú cho hiệu quả kinh tế cao ở nhiều tỉnh.
Năng suất ở một số địa phương như sau :
Nuôi tôm thâm canh: đạt từ 2.5-5 tấn/ ha (Quảng Nam – Đà Nẵng, Bến Tre,
Bạc Liêu)
Nuôi tôm bán thâm canh: đạt từ 1.2 -2.5 tấn/ha (Phú Yên, Bình Thuận, Thừa
Thiên Huế).
Nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, luân canh: đạt từ 0.6 – 0.87 tấn/ha.
4. Vai trò của ngành nuôi trồng thuỷ sản.

4.1. Ngành nuôi trồng thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc duy trì, tái tạo các
nguồn lợi thuỷ sản.
Các nguồn lợi thủy sản là nguồn lợi tự nhiên với tính chất có hạn, khan hiếm
khi khai thác đánh bắt một cách tràn lan không có kế hoạch thì nguồn lợi này lại càng
trở nên khan hiếm, thậm chí một số loài gần như tuyệt chủng. Chính vì vậy, để đảm
bảo nguồn lợi này được duy trì và tiếp tục mang lại lợi ích cho con người thì cần có
những kế hoạch khai thác hợp lý, khai thác kết hợp với việc bảo vệ, bổ sung tái tạo
một cách thường xuyên thông qua hoạt động đánh bắt và NTTS là 2 bộ phận cấu
thành nên ngành thuỷ sản nhưng mang 2 sắc thái hoàn toàn khác nhau, bổ sung lẫn
nhau tạo nên sự phát triển chung của toàn ngành.
4.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản và thương mại quốc tế
thuỷ sản.
Nuôi trồng thuỷ sản là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn một số ngành
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
nghề sản xuất nông nghiệp khác, sản phẩm không chỉ tiêu dùng nội địa mà một số đối
tượng thuỷ sản nuôi trồng còn là nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu.
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong
bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành
Thuỷ sản Việt Nam là ngành đứng thứ 6 trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản mạnh có
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD trên thế giới.
Tính chung năm năm 2001 - 2005, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
đạt trên 11 tỉ USD, chiếm khoảng 9% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu thủy sản vượt ngưỡng 1 tỉ USD và đến năm
2002 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã đạt hơn 2 tỉ USD. Năm 2005 kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD. Với con số này, Việt Nam đã trở thành một nước
xuất khẩu thủy sản lớn trong khu vực Đông Nam á. Có được kết quả này là nhờ trong
những năm qua, ngành Thủy sản đã tích cực đẩy mạnh công tác nuôi trồng, chế biến
thủy sản.
Trong những năm qua, sản lượng NTTS liên tục tăng năm 2002 là 976.100

tấn, trong đó khoảng 40% dành cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Đến năm 2005,
nhu cầu nguyên liệu cho chế biến thủy sản là 2.030.000 tấn và năm 2010 là 2.650.000
tấn. Để đáp ứng đủ nhu cầu, ngành Thủy sản phải chủ động được nguồn nguyên liệu.
Bởi nguyên liệu là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh
thủy sản. Có một nguồn nguyên liệu ổn định, giá cả có sức cạnh tranh thì ngành công
nghiệp chế biến thủy sản mới có cơ hội phát triển.
Trong xu thế ngày càng hạn chế khai thác thủy sản nhằm bảo vệ môi trường
như hiện nay thì NTTS đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp nguyên liệu cho chế
biến xuất khẩu. Việc cung cấp từ NTTS cũng đảm bảo ổn định và phù hợp với nhu
cầu của thế giới nhờ thực hiện tốt công tác khuyến ngư và phát triển giống mới.
Nuôi trồng thủy sản đã tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế
biến, nhất là chế biến xuất khẩu và đã đóng góp phần quan trọng vào việc tăng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản. Trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam,
tôm chiếm tỉ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 43,7% (năm 2001), 46,9% (năm
2002), trong đó tôm nuôi chiếm phần lớn.
4.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
NTTS là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng
nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây,
đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động
trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm
ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công
ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là
lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề NTTS ở sông Cửu Long
được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở ven sông.
Đến năm 2005 do chuyển đổi diện tích sang nuôi trồng thuỷ sản đã góp phần
đưa số lao động nuôi trồng thuỷ sản là 2.550.000 lao động (bao gồm cả lao động thời
vụ).

Bên cạnh đó, do hiệu quả của NTSS cao hơn nhiều so với các lĩnh vực nông
nghiệp khác, nên cùng với việc thực hiện chuyển đổi kỹ thuật sản xuất, chuyển đổi
diện tích từ trồng lúa sang NTTS đã tạo ra nguồn thu nhập lớn góp phần nâng cao
mức sống cho người dân.
4.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu nội địa.
Cùng với mức sống của người dân dần được cải thiện, nhu cầu về thực phẩm
chất lượng cao, giàu protein ngày một tăng thì ngành NTTS ngày càng trở thành
nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho thị trường nội địa. Ngành NTTS là một
trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng
trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành NTTS đã góp
phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng
nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành NTTS đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân.
4.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp.
Ngày nay, xu hướng chuyển đổi diện tích trồng kém hiệu quả như trồng lúa
ruộng trũng 1 vụ bấp bênh, năng suất thấp, đất trồng cói, làm muối kém hiệu quả và
đất cát, đất hoang hoá sang sử dụng có hiệu quả hơn cho ngành NTTS . Nguyên nhân
của hiện tượng này là do giá thuỷ sản trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng
đột biến, trong khi giá các loại nông sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại bị giảm sút
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
dẫn đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu diện tích giữa nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp
càng trở nên cấp bách. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả,
sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn 200.000
ha diện tích được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi trồng thủy
sản. Tuy nhiên, từ 2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi mạnh, năm
2003 đạt 49.000 ha và năm 2004 đạt 65.400 ha. Có thể nói NTTS đã phát triển với tốc
độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ
cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu
cho nông dân.

Hơn nữa, NTTS cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như
Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp TNHH, doanh
nghiệp cổ phần NTSS phát triển cũng kép theo sự phát triển của các ngành Dịch vụ
– Công nghiệp. Vì vậy, phát triển NTSS đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày
càng phát triển nhanh và bền vững.
III. Các nhân tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản.
1. Đối tượng nuôi trồng thủy sản.
Cũng giống như sản xuất nông nghiệp, đối tượng của NTTS là các cơ thể
sống. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh trưởng, phát triển và
diệt vong). Các cơ thể sống rất nhạy cảm với những điều kiện ngoại cảnh, chỉ một sự
biến động nhỏ của môi trường sống cũng dễ gây ảnh hưởng đến bản thân các vật nuôi
này. Các ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài như : gió, mưa, bão, lũ, hạn hán… đều
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
- Nguồn lợi cá nước ngọt: Việt Nam đã thống kê được 544 loài trong 18 bộ, 57
họ, 228 giống. Với thành phần giống loài phong phú, nước ta được đánh giá có đa
dạng sinh học. Trong 544 loài đó có nhiều loài có gía trị kinh tế cao.
- Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: Theo số liệu được thống kê, hiện nay nước ta có
186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: Cá song, cá hồng, cá tráp, cá
vựợc, cá măng, cá cam…
- Nguồn lợi tôm: Hiện nay, Việt Nam đã thống kê được 16 loài chủ yếu .
- Về nhuyễn thể: Có một số loài chủ yếu: trai, hầu, điệp, nghêu, sò , ốc…
- Về rong tảo: Với 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó đáng kể là rong câu (11
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
loài), rong mơ, rong sụn…
2. Điều kiện tự nhiên về mặt nước.
Có thể nói nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành
công của ngành NTTS. Môi trường nước được phân thành ba loại: nước ngọt, nước
mặn, nước lợ. Đối với mỗi loại nước có một đối tượng nuôi trồng phù hợp. Đặc biệt
nguồn nước phục vụ NTTS yêu cầu khá khắt khe nghiêm ngặt về chất lượng: nước

không bị ô nhiễm, độ đục thấp, hàm lượng các chất độc trong nước thấp hoặc không
có. Để sử dụng nguồn nước mặt cho NTTS đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững
phải đặc biệt chú ý giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật, giải pháp công cộng …làm
cơ sở.
Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài hơn
3.260 km với 112 cửa song, lạch và 12 đầm phá, eo vịnh, có khả năng phong phú nuôi
thủy sản lợ, mặn. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch của Việt Nam rất đa dạng và chằng
chịt có tới 15 con sông có diện tích lưu vực từ 300 km
2
trở lên.

Ngoài ra, còn hàng
nghìn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo đường biển là những khu vực có thể phát triển
nuôi trồng thủy sản quanh năm. Trong vùng viển có 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó
có những đảo lớn có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, có
nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải sản
thuận lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi biển và xây dựng
các khu căn cứ hậu cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam
còn có nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta
đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng
và sông Cửu Long, v.v… đó là nguồn thực phẩm chính hằng ngày của hầu hết ngư
dân vùng nông thôn Việt Nam. Ở đất nước này, có lẽ không có một gia đình nông dân
nào mà ở đó người ta không thấy có một loại dụng cụ đánh bắt cá, chí ít cũng có một
cần câu.
Trong nội địa hệ thống sông ngòi chằng chịt ở phía Bắc là hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình, phía Nam là đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống kênh
rạch liên hoàn. Ngoài ra, còn có các đầm hồ thủy lợi, thủy điện đã tạo ra một tiềm
năng to lớn về diện tích mặt nước.
Theo thống kê của Bộ Thủy sản tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thủy
Lớp: Kinh tế phát triển 47A

Lớp: Kinh tế phát triển 47A
sản là khoảng 1.7 triệu ha gồm : 120.000 ha hồ chứa mặt nước lớn: 446.000 ha ruộng
úng trũng, nhiễm mặn, cấy lúa một vụ hoặc hai vụ bấp bênh: 635.000 ha vùng triều.
Ngoài ra, còn phải kể đến khoảng trên 100.000 ha eo vịnh, đầm phá ven biển đang
được quy hoạch nuôi trồng thủy sản
3. Những thuận lợi về khí hậu, thủy văn và lao động.
- Về khí hậu: Các điều kiện thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động NTTS nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát sinh và lan tràn dịch bệnh cho
vật nuôi.
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới pha trộn tính ôn đới, vì vậy
mà điều kiện thời tiết khí hậu có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành NTTS. Nuôi trồng
thủy sản ở nước ta tiến hành được cả từ Bắc vào Nam nhờ khí hậu Á nhiệt nóng ẩm
và một số vùng pha chút khí hậu ôn đới. Tài nguyên khí hậu thực sự quan trọng, đã
trở thành một yếu tố đầu vào thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thủy
sản, giống như một món quà tặng của tự nhiên cho con người.
Chế độ thủy văn ở hầu hết các sông vùng đồng bằng, đặc biệt là vùng hạ lưu
sông đều thích hợp cho nhiều loài thủy sản sinh sống và phát triển, tạo thành một
vùng sinh thái đặc trưng về nhiệt độ, dòng chảy, tính chất thủy lý hóa và nguồn thức
ăn tự nhiên cho thủy sinh vật.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi giúp cho sự phát triển của ngành NTTS thì
cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của ngành như: lũ lụt, hạn hán ,
bão…gây thiệt hại nghiêm trọng cho NTTS, từ đó làm cho ngành thuỷ sản có tính
bấp bênh, không ổn định. Nhiệt độ đóng một vai trò quan trọng cho quá trình sinh
trưởng của sinh vật nói chung và các loài thuỷ sản nới riêng. Khả năng chống chịu
của chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định. Sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm
sản lượng thuỷ sản trong các ao hồ. Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh của
nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng cao làm cho sức khoẻ của
các loài nuôi, môi trường nước xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho các loài vi sinh vật
gây hại.
Đối với nghề NTTS nước mặn, lợ thì độ mặn là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến

sự sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra mưa lớn độ mặn trong các ao
nuôi giảm đi đột ngột vượt ra khỏi khả năng chịu đựng làm cho tôm, cá bị sốc, sặc
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
bùn chết hoặc chậm lớn.
- Về thủy văn: độ phì nhiêu kinh tế của các loại hình thủy vực, ao, hồ, ruộng…
ở các vùng đồng bằng và ven biển là khá cao, có thể phát triển nuôi trồng thủy sản.
Độ phì nhiêu kinh tế bao gồm độ phì tự nhiên do đất phong hòa lâu đời mà có và độ
phì nhiêu nhân tạo do con người tạo ra khi cải tạo vùng nước, bón them các loại phân
xanh, phân chuồng, phân vô cơ… làm tăng hàm lượng chất hữu cơ, các thức ăn tự
nhiên cho nuôi trồng thủy sản.
- Về nguồn nhân lực: người lao động ở nông thôn và các vùng ven biển đều
biết nuôi trồng thủy sản như một nghề truyền thống và hơn nữa, trong những năm gần
đây nuôi trồng thủy sản đã được coi như một nghề chính, có khả năng làm giàu ở
nhiều địa phương. Lao động nông ngư dân với kinh nghiệm và kiến thức nuôi trồng
thủy sản của mình đang là yếu tố thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản.
4. Nhân tố tiến bộ khoa học – công nghệ kỹ thuật
Cùng với sự phát triển của xã hội thì những tiến bộ kỹ thuật của ngành NTTS
ra đời cùng với sự phát triển đó của con người. Tiến bộ khoa học ra đời đã làm thay
đổi đời sống con người trong mọi lĩnh vực, trong đó có ngành NTTS. Khách hàng của
ngành này thường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và một hệ thống quản
lý nghiêm ngặt theo chuẩn quốc tế. Bởi vậy, ứng dụng KH - CN phục vụ công tác
quản lý trong ngành thủy sản đang và sẽ là một đòi hỏi tất yếu.
Đối với ngành NTTS nói riêng, nhờ áp dụng những tiến bộ này mà người ta đã
có thể sản xuất ra những giống thuỷ sản mới, chất lượng cao, sinh trưởng nhanh, có
khả năng chống chịu với những điều kiện ngoại cảnh tốt…Ngoài ra, nhờ áp dụng
những tiến bộ khoa học – kỹ thuật mà người ta có thể kiểm soát và phòng trừ dịch
bệnh trong NTTS, phát triển và mở rộng ứng dụng các kỹ thuật hiện đại chẩn đoán và
xử lý kịp thời bệnh nguy hiểm ở động vật thuỷ sản.
5. Vốn đầu tư đối với phát triển bền vững NTTS

Như chúng ta đã biết ngành NTTS có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân trong tương lai ngành sẽ là một nghề có lợi và phát triển mạnh. Với những
điều kiện thuận lợi về diện tích mặt nước, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào, nguồn lợi
giống loài phong phú, đa dạng chúng ta còn thấy được sự cần thiết của việc tăng
cường và phát triển đầu tư vào lĩnh vực này hơn nữa
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Vốn đầu tư cho chương trình nuôi trồng thủy sản được huy động từ các nguồn:
- Vốn ngân sách nhà nước (kể cả vốn vay và vốn viện trợ chính thức của Chính phủ
các nước, tài trợ của các tổ chức Quốc tế).
- Vốn tín dụng trung hạn và dài hạn, Vốn tín dụng ngắn hạn.
- Vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư.
- Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan có giải pháp cân đối các nguồn vốn và bố
trí theo kế hoạch hàng năm trình Chính phủ quyết định để đầu tư theo dự án thực hiện
chương trình.
6. Công tác quản lý và chỉ đạo của Nhà nước.
Do đặc điểm của ngành nuôi trồng thủy sản là nhỏ bé, manh mún và phân tán
nên ngoài việc tăng nguồn vốn đầu tư để để phát triển giống, xây dựng trang trại nuôi
trồng quy mô, đầu tư kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực… thì vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý, chỉ đạo là vô cùng cần thiết để những đồng vốn đầu tư đó được sử
dụng đúng mực đích và hiệu quả. Có thể nói vai trò của Nhà nước như kim chỉ nam
trong công tác quy hoạch nhằm khắc phục những vấn đền còn tồn tại, yếu kém trong
quá trình hoạt động và phát triển của ngành NTTS như: nạn ô nhiễm môi trường, dịch
bệnh đang có nguy cơ bùng nổ, cơ sở hạ tầng yếu kém, nguồn nhân lực, khả năng ứng
dụng KH –CN còn thấp Vì thế, nhà nước cần có những chính sách và thiết chế tổ
chức có hiệu lực để khắc phục những tình trạng còn tồn tại trên
II – Sự cần thiết phải phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản.
1. Khái niệm về phát triển bền vững:

Theo Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới: Phát triển bền vững là sự phát
triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Như vậy, phát triển bền vững ngành Thuỷ sản nói chung và ngành NTTS nói
riêng đó là sự phát triển toàn diện, hợp lý và lâu dài trên cả 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội
và môi trường.
Khái niệm phát triển bền vững trong nuôi trông thuỷ sản có thể được khái quát
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
theo bốn tiêu thức :
- Tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất, doanh thu và lợi nhuận ổn định qua
các năm.
- Quy trình sản xuất ngày càng hiện đại, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào nuôi
trồng thuỷ sản, năng suất ngày càng cao. Hình thức sản xuất chuyển từ nuôi trồng nhỏ
lẻ, tự phát sang nuôi trồng tập trung theo qui mô lớn.
- Giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động
- Bảo vệ môi trường sinh thái biển, bảo tồn và phát huy được các giống thuỷ
sản.
2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy
sản.
2.1. Về mặt kinh tế:
Sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thuỷ sản thể hiện ở sự tăng
trưởng cả về mặt chất và mặt lượng của ngành.
2.1.1. Về mặt lượng:
- Tăng trưởng về diện tích nuôi trồng. Sự tăng trưởng diện tích nuôi trồng
thuỷ sản thể hiện khả năng khai thác điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển ngành.
- Tăng trưởng về sản lượng nuôi trồng: thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của
thị trường.
- Tăng trưởng về giá trị sản xuất, doanh thu và lợi nhuận: thể hiện hiệu quả
của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư vào

ngành
- Đóng góp của ngành thuỷ sản vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất
khẩu: thể hiện tầm quan trọng của ngành nuôi trồng thuỷ sản đối với nền kinh tế.
- Tỷ lệ vay vốn/ tổng vốn đầu tư.
2.1.2. Về mặt chất:
- Hình thức nuôi trồng thuỷ sản của các hộ gia đình: ảnh hưởng quan trọng tới
chất lượng, sản lượng của ngành, đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Năng suất lao động: giúp tiết kiệm chi phí, tăng sản lượng đầu ra, tăng thu
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
nhập cho người lao động.
2.2. Về mặt xã hội:
Sự phát triển bền vững về mặt xã hội của ngành nuôi trồng thuỷ sản Được
đánh giá qua một số tiêu chí như chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số phát triển
giới (GDI), hệ số bình đẳng thu nhập, các tiêu chí giá dục, dịch vụ y tế, hoạt động văn
hoá, khả năng giải quyết công ăn việc làm nâng cao đời sống cho người dân được thể
hiện ở 1 số chỉ tiêu cụ thể sau
- Số lượng lao động tham gia nuôi trồng thủy sản
- Tỷ lệ vay nợ trong tổng số hộ nuôi trồng thủy sản
- Tỷ lệ vùng nuôi có sự tham gia của cộng đồng
- Tỷ lệ vùng nuôi áp dụng phương pháp nuôi sạch
- Tỷ lệ đối tượng nuôi được kiểm soát dịch bệnh hàng năm
2.3. Về mặt môi trường – sinh thái:
Sự phát triển bền vững về mặt môi trường được thể hiện ở việc đảm bảo môi
trường sinh thái: ao hồ, đầm, kênh, rạch…ngăn ngừa dịch bệnh. Ngoài ra, còn được
thể hiện ở việc bảo vệ và phát huy các giống thuỷ sản.
Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển bền vững về mặt môi trường.
- Tỷ lệ hệ thống quan trắc dịch bệnh, cảnh báo môi trường so với nhu cầu.
- Tỷ lệ sử dụng nước ngầm cho nuôi trồng thủy sản, tính theo ha nuôi trồng
thủy sản.

- Diện tích rừng ngập mặn bị chặt phá (được phục hồi, trồng mới hàng năm).
- Số trại sản xuất giống được tập huấn GAP
- Tỷ lệ trại giống có tôm bố mẹ được thuần hóa
- Tỷ lệ diện tích vùng nuôi có nước đạt tiêu chuẩn
- Tỷ lệ protein từ thực vật trong khẩu phần thức ăn
- Tỷ lệ diện tích nuôi trồng thủy sản trên cát có hệ thống thủy lợi cung cấp đủ
nước ngọt cho nuôi trồng thủy sản.
3. Sự cần thiết phải phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản.
3.1. Về mặt kinh tế:
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất,
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
nâng cao chất lượng hàng hoá thuỷ sản, từ đó đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị
trường trong nước và thoả mãn đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Tạo ra
nguồn cung ổn định, khắc phục biến động thất thường của giá cả trên thị trường .
- NTTS theo quy mô lớn giúp nâng cao năng suất, đảm bảo phát triển bền
vững môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu.
- NTTS góp phần tăng doanh thu và đóng góp to lớn vào sự tốc độ tăng GDP
của toàn ngành.
3.2. Về mặt xã hội
- Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng sâu vùng xa, góp
phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam, cung cấp
nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền núi, tất cả các
ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động NTTS.
Ngành NTTS là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung
cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Theo số liệu thống kê hàng năm có khoảng 50
% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh
bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu
của người dân Việt Nam. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành

NTTS đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ
thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành NTTS đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân. Trong thời gian tới, các mặt
hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp
nhân dân Việt Nam.
- Ngoài ra, sự bền vững về mặt xã hội còn được thể hiện ở khía cạnh khắc
phục tình trạng làm ăn theo mùa vụ, đảm bảo đầu ra cho thủy sản được ổn định, đảm
bảo công ăn việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm thu nhập cho hàng
triệu người dân, phát triển kinh tế xã hội nhất là đối với địa phương vùng ven biển,
hải đảo.
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát
triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm
nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh
từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm
canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi
công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá
lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất
nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng
đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung
du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
3.3. Về mặt môi trường:
Môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa to lớn bởi nuôi trồng thuỷ sản
sản xuất trực tiếp trên môi trường, tận dụng và phát huy những lợi thế của môi trường
để nâng cao năng suất và chất lượng ngành là tiêu điểm của sự phát triển bền vững
ngành NTTS hiện nay. Hiện nay, vấn đề môi trường đang nhận được rất nhiều sự
quan tâm của cộng đồng thế giới. Như chúng ta đã biết môi trường trong NTTS có ý

nghĩa to lớn bởi NTTS là ngành có quan hệ sản xuất trực tiếp với môi trường để nâng
cao năng suất. Các yếu tố của môi trường như : nguồn nước, các khu rừng sinh
thái được ngành NTTS tận dụng như những đối tượng sản xuất và tư liệu sản xuất.
Ngoài ra, việc sử dụng thức ăn và chất hoá học trong quâ trình nuôi trồng cũng là
nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng môi trường. Môi trường sẽ bị ô nhiễm và
nguy hại khi NTTS chỉ hướng tới sự phát triển về kinh tế. Vì thế mục tiêu bảo vệ môi
trường sẽ được đặt ngang bằng với mục tiêu phát triển kinh tế. Mặt khác, phát triển
bền vững NTTS hướng tới môi trường làm cho chất lượng môi trường được cải thiện,
nâng cao sẽ là nền tảng vững chắc, lâu dài cho sự phát triển của NTTS . Vì thế, bảo vệ
môi trường và sự phát triển ngành NTTS phải có sự kết hợp hài hoà và có mối quan
hệ thân thiện.
Chất lượng các yếu tố môi trường sống như: môi trường nước, không khí, đất,
không gian vật lý…đúng quy định của Nhà nước và đặc biệt cần có sự kết hợp hài
hoà giữ khai thác, sử dụng với việc gìn giữ,bảo vệ môi trường, đó là việc làm rất cần
thiết và vô cùng quan trọng. Trong quá trinh sử dụng những nguồn tài nguyên thiên
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
nhiên quý hiếm đó con người cần đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo an toàn và cân
bằng môi trường sinh thái.
III – Kinh nghiệm một số nước về phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy
sản.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Hiện nay, Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản lớn nhất thế giới, chiếm khoảng
Hiện nay, Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản lớn nhất thế giới, chiếm khoảng
35% tổng sả
35% tổng sả
n lư
n lư
ợng thủy sản toàn cầu. Trung Quốc cũ
ợng thủy sản toàn cầu. Trung Quốc cũ

ng là nư
ng là nư
ớc duy nhất trên thế
ớc duy nhất trên thế
giới có sả
giới có sả
n lư
n lư
ợng nuôi trồ
ợng nuôi trồ
ng vư
ng vư
ợt quá sả
ợt quá sả
n lư
n lư
ợng khai thác.
ợng khai thác.
Năm 2004, t
Năm 2004, t
ổng sả
ổng sả
n lư
n lư
ợng
ợng
thủy sản của Trung Quố
thủy sản của Trung Quố
c đ
c đ

ạt 49 triệu tấ
ạt 49 triệu tấ
n, trong đó 64% là th
n, trong đó 64% là th
ủy sản nuôi. Thủy sả
ủy sản nuôi. Thủy sả
n
n


ớc mặn chiếm 56% tổng thủy sả
ớc mặn chiếm 56% tổng thủy sả
n nuôi, trong đó ph
n nuôi, trong đó ph
ần lớn là thủy sản có vỏ; thủy
ần lớn là thủy sản có vỏ; thủy
sả
sả
n nư
n nư
ớc ngọt chiếm 44%, chủ yếu là họ cá chép.
ớc ngọt chiếm 44%, chủ yếu là họ cá chép.
Dự báo, tiêu thụ thủy sản bình quân trong n
Dự báo, tiêu thụ thủy sản bình quân trong n
ư
ư
ớc của Trung Quốc sẽ
ớc của Trung Quốc sẽ
tăng m
tăng m

ạnh
ạnh
trong thời gian tới, từ
trong thời gian tới, từ
25 kg/ngư
25 kg/ngư


i năm 2004 lên 36 kg/ngư
i năm 2004 lên 36 kg/ngư


i vào năm 2020.
i vào năm 2020.
Việc Trung Quố
Việc Trung Quố
c đ
c đ


u tư m
u tư m
ạnh vào sản xuất cá rô phi cũng góp phần phát triển
ạnh vào sản xuất cá rô phi cũng góp phần phát triển
ngành thủy sả
ngành thủy sả
n trong nư
n trong nư



c, đưa Trung Qu
c, đưa Trung Qu
ốc trở thành nhà sản xuấ
ốc trở thành nhà sản xuấ
t cá rô phi hàng đ
t cá rô phi hàng đ
ầu
ầu
thế giới.
thế giới.
Sự phát triển nhanh của ngành thuỷ sản không chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường
và cải thiện đời sống dân cư, mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm và góp phần cơ cấu
lại ngành nông nghiệp.
Từ năm 1979 – 1996, ngành thủy sản đã tạo thêm khoảng 9 triệu việc làm cho
người lao động. Năm 1999, số lao động tham gia sản xuất thuỷ sản là 12,57 triệu
người, trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản chiếm tới 70%. Đời sống của ngư dân
cũng được cải thiện rõ rệt, thu nhập của lao động nghề cá từ 126 RMB năm 1979,
tăng lên 4.474 RMB năm 1999, nghĩa là gấp 35 lần sau 20 năm. Mức thu nhập của lao
động thuỷ sản gấp gần 2 lần so với thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông
thôn. Đồng thời ngành thuỷ sản cũng tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các
ngành liên quan như chế biến, vận chuyển, thương mại, v.v…
Tuy nhiên, trong suốt quá trình phát triển cho đến nay, ngành thuỷ sản phải
thường xuyên đối mặt với những vấn đề ngày càng lớn lên, như suy giảm nguồn lợi
tự nhiên, suy thoái môi trường, dư thừa lao động…
Bên cạnh những ưu đãi về điều kiện tự nhiên để phát triển ngành NTTS,
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Chính phủ Trung Quốc còn có nhiều biện pháp khuyến khích phát triển NTTS và tăng
cường mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thuỷ sản (ngư
dân, nông dân, hợp tác xã, công ty). Các biện pháp này góp phần quan trọng đảm bảo

cho sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản Trung Quốc trong tương lai. Vì vậy đã
tạo nên một sức mạnh mới cho ngành NTTS Trung quốc phát triển mạnh mẽ sau này.
Các biện pháp quan trọng có thể kể đến là:
- Tăng cường cung cấp các dịch vụ tiền sản xuất và hỗ trợ sau thu hoạch
thông qua việc đầu tư xây dựng nhiều trại sản xuất giống, các trạm kiểm soát dịch
bệnh thuỷ sản, phổ biến kỹ thuật cho ngư dân. Bên cạnh đó chính phủ còn đề ra các
chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế và tín dụng cho các hộ gia đình nuôi trồng thuỷ sản
ở nông thôn.
- Ưu tiên thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ thuỷ sản, chú trọng ứng
dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Thông qua các chính sách ưu đãi
của chính phủ, nhiều nhà khoa học được khuyến khích làm việc cùng ngư dân và
người nuôi thuỷ sản. Ước tính đóng góp của khoa học và công nghệ trong giá trị gia
tăng của sản suất thuỷ sản đã tăng từ 30% vào đầu những năm 1980 lên 47% năm
1996. Ví dụ, nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, năng suất nuôi cá thương phẩm trong ao
từ mức bình quân 724kg/ha năm 1979, đã tăng 4,7 lần, đạt 4.097kg/ha năm 1996. Sự
phát triển của công nghệ nuôi lồng và nuôi rào chắn đã giúp tăng diện tích mặt nước
có thể sử dụng để nuôi thuỷ sản. Sự thành công của công nghệ nuôi và sản xuất giống
nhân tạo các loài có giá trị cao như tôm, bào ngư, điệp, hải sâm, cá rô mo thân cao,
cua đồng, đã làm tăng thu nhập cho người nuôi và mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Tăng cường hiệu lực hệ thống pháp luật thuỷ sản và quản lý nguồn lợi thuỷ
sản: Để bảo vệ và sử dụng nguồn lợi thuỷ sản hợp lý, chính phủ Trung Quốc đã chú
trọng đến việc xây dựng Luật Thuỷ sản. Ngay từ năm 1979, Hội đồng Nhà nước đã
thông qua “Quy định về bảo vệ và nhân giống nguồn lợi thuỷ sản”.
- Mở rộng hợp tác quốc tế: đến năm 1996, Trung Quốc đã tiến hành nhiều
hoạt động hợp tác thuỷ sản với hơn 60 quốc gia và các tổ chức quốc tế. Những hoạt
động này đã mang đến cho Trung Quốc một triển vọng mới trong nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tạo ra một môi trường đầu tư tốt để thu hút ngày càng
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
Lớp: Kinh tế phát triển 47A
nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản của nước này.

2. Kinh nghiệm NTTS của Thái Lan.
Nuôi trồng thủy sản ở Thái Lan đã góp một phần lớn vào sự gia tăng sản xuất
của nước này. Một báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của LHQ dự báo
rằng nuôi trồng thủy sản sẽ đóng góp được gần một nửa tổng sản lượng sản xuất của
đất nước này vào năm 2010, so với chỉ một vài phần trăm vào năm 1990.
Thái Lan được xem như bắt đầu phát triển từ đầu thế kỉ 19. Nghề nuôi trồng
thủy sản nước ngọt đã phát triển trước đó trong một thời gian dài, nhưng nghề nuôi
thủy sản nước mặn ngày càng mở rộng trong thời gian gần đây. Trong năm 2003, sản
lượng nuôi trồng thủy sản đạt khỏang 1.064 triệu tấn và đạt giá trị 1.46 tỉ USD được
tính trên 1 quý của tổng sản phẩm thủy sản. Sự họat động của nghành nuôi trồng thủy
sản ở Thái Lan có thể được chia thành hai nhóm: thủy sản nước ngọt và nước mặn.
Nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt, chủ yếu là trong các ao, hồ và trên cánh
đồng lúa, đã tồn tại ở Thái Lan trên 80 năm. Sự phát triển nghề nuôi thủy sản nước
ngọt bắt đầu vào năm 1922 sau khi sự nhập khẩu cá chép Trung Quốc để làm cá nuôi
lan rộng toàn Bangkok. Năm 1951, bộ thủy sản đã thiết lập một chương trình quảng
bá nghề nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, có hơn 50 loài thủy sản nước ngọt đã và đang
được nuôi trồng. Có 5 loài quan trọng, nuôi hàng năm thu sản phẩm có giá trị cao: cá
rô sông Nile, cá trê lai, cá ngạch bạc, tôm càng xanh, cá rô phi.
Gần gây, nghề nuôi trồng thủy sản ven biển bắt đầu được phổ biến với kỹ thuật
thâm canh và bây giờ đã trở nên rất thành công cho những vụ nuôi. Nó cũng được
khuyến khích bởi vì nó hạn chế sự khai thác quá mức nguồn lợi ven biển và sự ô
nhiễm môi trường. Một trong những loài thủy sản nước mặn quan trọng là: cá vược,
cá mú, tôm he, nghêu, sò, cua, ghẹ. Nó bao gồm hai hệ thống nuôi cá giống từ cá bột
ở biển và những con đang thành thục mắc trong bẫy nhưng là trường hợp của loài cua
bùn. Nghề nuôi trồng nghêu, sò và tôm mang lại hiệu quả cao nhất.
Thái Lan tiếp tục triển khai Dự án “Phát triển nuôi trồng hải sản và đánh giá
nguồn lợi thủy sản tại biển Andaman, Thái Lan nhằm giúp người Thái có thể tự nuôi
thuỷ sản theo kỹ thuật hiện đại. Viện Nghiên cứu Biển (IMR) là nhà tư vấn chính của
dự án. Dự án này bao gồm hai phần “Phát triển nuôi trồng hải sản ” và “Đánh giá
Lớp: Kinh tế phát triển 47A

Lớp: Kinh tế phát triển 47A

×