Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.51 KB, 71 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là một nước
nông nghiệp trên 70% lực lượng lao động hoạt động trong ngành nông
nghiệp, vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông sản là mặt hàng xuất
khẩu chiến lược nhằm sử dụng lực lượng lao động rất lớn trong nông nghiệp,
phân công lại lực lượng lao động và tạo nguồn ban đầu cần thiết cho sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Thế Giới, việc
xuất khẩu của các quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc hội nhập kinh tế
quốc tế đối với Việt Nam ngày càng quan trọng và cần thiết bởi nước ta vẫn
là nước đang phát triển, có hội nhập thì chúng ta mới phát triển được.
Với những điều kiện hết sức thuận lợi như nước ta hiện nay, việc phát
triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản đang là một xu hướng tất yếu để góp
phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu và sự phát triển của nền kinh tế, nhất là
khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới
(WTO). Trong bối cảnh thế giới đang suy thoái toàn cầu. Hiện nay thì Việt
Nam phải có những hướng đi đúng đắn và có biện pháp thích hợp trong việc
xuất khẩu các mặt hàng nông sản như thế nào.
Ý thức được điều này, em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát
triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm
kinh tế toàn cầu”
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt
Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu nhằm
Trang 1
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tình hình tăng hay giảm xuất nhập khẩu nông sản ở
Việt Nam
- Những thành công và hạn chế


- Vị thế của nông sản Việt Nam trên thế giới
Nêu ra một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu như
- Dự báo xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010-
2020
- Quan điểm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam giai
đoạn 2010-2020
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt
Nam trong năm 2007-2009
Một số mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu…
4. Phương pháp sử dụng nghiên cứu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thay thế liên hoàn
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Tổng quan về suy thoái kinh tế toàn cầu và những ảnh
hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản
- Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu
- Chương III: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông
sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu.
Trang 2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU NÔNG SẢN
I. VÀI NÉT VẾ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU

1. Lý luận chung về suy thoái kinh tế
1.1 Khái niệm:
Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong kinh tế học vĩ mô là sự suy
giảm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực trong thời gian hai hoặc hơn
hai quý liên tiếp trong năm (hay nói cách khác là tốc độ tăng trưởng kinh tế
âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp nhận
rộng rãi. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra
định nghĩa về suy thoái kinh tế còn mập mờ hơn “là sự tụt giảm hoạt động
kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng”. Suy thoái kinh tế có thể liên quan
sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế
như việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể
đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát)
trong thời kỳ đình lạm.
Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được goi là khủng hoảng kinh
tế. Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp hay đổ vỡ kinh tế.
Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm theo
chu kỳ kinh tế, nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh tế)
không thường xảy ra. Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp để
điều hòa kinh tế (học thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes), khuyếch đại chu kỳ
Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp
kinh tế (lý thuyết chu kỳ kinh tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra chu kỳ kinh tế
(chủ nghĩa tiền tệ).
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái kinh tế là:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền
trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản
xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng
giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao
động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất

nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản
xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dich vụ khó giảm nhưng
tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán
thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu
kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất cũng giảm xuống
trong thời kỳ suy thoái.
1.2 Nguyên nhân của suy thoái kinh tế:
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh
luận sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù
đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các
yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại
sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia
theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ
kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời
tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc
ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ
Trang 4
Chuyên đề tốt nghiệp
quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay
và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế
tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không
hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo
thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là
nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi
quản lý tiền tệ yếu kém.
2. Thực trạng suy thoái kinh tế toàn cầu.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ở hầu khắp các quốc gia trên
thế giới đã đẩy nền sản xuất bị sa sút nhanh chóng; vốn đầu tư cơ bản bị rút

bớt; nạn thất nghiệp tràn lan, nguồn nhân lực bị xáo trộn, rối loạn; đời sống
của những người lao động bị xuống cấp; số công ty, hãng, doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ, bị phá sản ngày càng nhiều; thị giá cổ phần sụt xuống; lạm phát
tăng lên; thị trường chứng khoán rơi tự do, không ít thị trường chứng khoán
mất tới 50% giá trị; nguồn dự trữ của nhà nước bị cạn kiệt vì phải bơm tiền
vào thị trường; đồng tiền của nhiều quốc gia bị mất giá, phải cầu cứu IMF;
bất động sản bị chao đảo; những biến động kinh tế liên tục diễn ra tại nhiều
nước, đẩy nền kinh tế của nhiều nước rơi vào suy thoái. Mỹ, Anh, Nhật,
Đức,... đều phải gánh chịu hậu quả.
Dư luận Đức hiện nay đang nóng lòng vì cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu đã tác động khá mạnh đến hệ thống ngân hàng, trong đó, Deutsche
Bank, ngân hàng lớn nhất của Đức tuyên bố quý 4-2008, đã lỗ 4,8 tỷ euro.
Royal Bank của Xcốtlen, là một trong 5 ngân hàng lớn nhất thế giới, đã chịu
mức thua lỗ 39 tỷ USD lớn nhất trong lịch sử Anh quốc. Nhiều ngân hàng
nước ngoài do cần tiền đã bán bớt cổ phần cho các ngân hàng Trung Quốc.
Tổng giá trị tài chính toàn cầu giảm 50 nghìn tỷ USD. Trị giá tài sản "tài
chính" của châu á đã bị mất đi 9.600 tỷ USD, một khoản tiền cao hơn một
Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp
năm GDP của toàn châu á. Đồng tiền Hàn Quốc giảm 35% giá trị so với
mức bình quân của năm 2006-2007.
Các ngân hàng liên tục bị phá sản. Đến nay, thế giới mất gần 400 tỷ
phú USD, từ 1.125 người của năm 2008, đến đầu năm 2009 chỉ còn 793
người. Với 332 người bị loại ra khỏi làng tỷ phú (trong đó có 18 người chết)
đã làm cho danh sách các nhà tỷ phú vơi đi tới 30%. Đây là lần đầu tiên, số
lượng các nhà tỷ phú lừng danh trên thế giới bị giảm nhanh. Tổng tài sản của
các nhà tỷ phú cũng giảm tới 2 nghìn tỷ USD. Điều này, tác động mạnh tới
mọi lĩnh vực kinh doanh, từ cổ phiếu, thị trường nguyên liệu, bất động sản,
nhà đất, công nghệ, tín dụng đóng băng, sức mua yếu. Có người cho rằng, sự
phá sản của các nhà tỷ phú là sự mở đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài

chính lần này.
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, thế giới đã xảy ra 13 cuộc khủng hoảng
(crisis) kinh tế - tài chính lớn vào các năm 1892-1893, 1902-1903, 1916-
1921, 1929-1933 (nặng nhất), 1944-1947, 1955-1956, 1961-1962, 1973-
1975, 1980-1982, 1990-1992, 1997- 1998, 2000-2001. Cuộc khủng hoảng
lần này phát sinh từ cuối năm 2007 và đang còn có những diễn biến hết sức
phức tạp.
Đặc điểm của cuộc khủng hoảng lần này là bắt nguồn từ khủng hoảng
tài chính và nó đánh vào tất cả các nước với mức độ cao, thấp khác nhau.
Những nước rất ổn định về kinh tế - xã hội như Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Đan
Mạch, Na Uy, Phần Lan,..., sự khủng hoảng nhẹ hơn so với các nước khác.
Nặng nhất vẫn là những nước phát triển, trong đó phải kể đến Mỹ, Anh,
Đức, kế đó là những nước đang phát triển. Nền kinh tế Anh tăng trưởng
-1,3%, Đức - 0,8%, Mỹ- 0,7%, Tây Ban Nha - 0,7%,...
Theo Ngân hàng thế giới (WB), có tới 94/116 nước đang phát triển bị
ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế. Những nước này đang phải đương đầu
Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp
với sự sụt giảm nghiêm trọng của kim ngạch xuất khẩu; giá nguyên liệu sa
sút; đầu tư nước ngoài đi xuống và tín dụng bị hao hụt. Khoảng 46 triệu
người bị đẩy vào cảnh nghèo đói trong năm 2009 bởi mất việc làm. WB dự
đoán sẽ có 53 triệu người tái nghèo, làm tăng vọt con số 155 triệu người hiện
nay đang sống với thu nhập ít hơn 2 USD/ ngày. 2,8 triệu trẻ em sẽ bị chết
trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men
cứu chữa. Tỷ lệ tử vong đối với trẻ sơ sinh tăng do khủng hoảng kinh tế - tài
chính. Một số nước ở châu Âu, như Ba Lan, Hunggari, Czech đang chịu tác
động nghiêm trọng do kim ngạch xuất khẩu sang Tây Âu sụt giảm và tình
trạng thắt chặt tín dụng tại các ngân hàng lớn của châu Âu sau khi các ngân
hàng đó bị thua lỗ nghiêm trọng. Các nước Đông Á và Đông Nam Á bị ảnh
hưởng nặng từ sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, trong đó, nhu cầu

thương mại từ Mỹ giảm mạnh.
Tình hình kinh tế thế giới theo dự báo của Ngân hàng thế giới (WB)
và bình luận của các nhà khoa học kinh tế thế giới, thì năm 2009, sản lượng
công nghiệp thế giới sẽ thấp hơn tới 15% so với cùng kỳ năm 2008, trong
khi giá trị thương mại sẽ giảm mạnh nhất trong vòng 80 năm trở lại đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính lần này sẽ gây thiệt hại cho cả nước
giàu lẫn nước nghèo, trong đó, các nước đang phát triển có thể đối mặt với
các khoản thâm hụt tài chính lên tới 700 tỷ USD. Giá trị thương mại tại khu
vực Đông Á sẽ suy giảm mạnh nhất, vì đây là khu vực có nhiều nước xuất
khẩu lớn.
3. Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu vào Việt Nam
Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Đầu tầu
kinh tế toàn cầu sau khi lên dốc không thành vào quý III/2008, đã trượt dốc
không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra, mà riêng
ở Hoa Kỳ đã lên tới hơn 2.000 tỷ USD, nhưng không làm sao ngăn được sự
Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp
bốc hơi của lượng tài sản tài chính (bao gồm cả bất động sản đã tiền tệ hóa)
lên tới hơn 30.000 tỷ USD.
Toàn thế giới đã rung động. Sốt lạm phát. Giá hàng hóa vật tư sản
xuất tăng cao. Giá dầu ngự trị trên 149 USD, và đã từng được tiên đoán có
thể vượt 200 USD. Rồi co rút tín dụng và mất thanh khoản dòng vốn toàn
cầu. Giá dầu tụt xuống ngưỡng 40 USD chẳng bao lâu sau cái đỉnh suýt 150
kia.
Đối với Việt Nam, khó khăn về nguốn vốn và tín dụng quốc tế chưa
qua đi. Thu hút vốn FDI trong năm 2009 sẽ gặp nhiều khó khăn. Qui mô vốn
cam kết mới khó lòng vượt qua con số kỷ lục của 2008. Ưu tiên đẩy nhanh
tiến độ và tăng cường giải ngân các dự án đã có cam kết vốn trong những
năm trước là lựa chọn hợp lý so với nỗ lực thu hút thêm các cam kết đầu tư
mới. WB dự báo dòng vốn tư nhân chảy sang các nước đang phát triển sẽ

giảm mạnh từ 1.000 tỷ USD (2007) xuống còn 530 tỷ USD trong năm 2009.
Bên cạnh đó, giá các tài sản tài chính tại Việt Nam đang ở mức rất
thấp. Có thể coi đây là thời điểm thuận lợi cho khoản 10 tỷ USD- đang nằm
tại các quỹ đầu tư, giải ngân vào Việt Nam. Lượng vốn FPI này gần tương
đương với vốn FDI đã thực hiện trong năm 2008. Ưu thế của dòng vốn này
là có khả năng nhân lên trong thời gian ngắn và tiếp tục vận động trong nền
kinh tế Việt Nam cho tới hết thời gian hoạt động của quỹ, thường từ 7 đến
10 năm. Khả năng xuất hiện tình trạng rút vốn hàng loạt (capital flight) như
từng xảy với nhiều quốc gia Đông Á trong khủng hoảng 1997 hầu như
không có với Việt Nam. Lý do căn bản là vì TTCKVN đã qua rất lâu thời kỳ
đỉnh cao. Muốn khai thác hiệu quả dòng vốn FPI, cùng với hỗ trợ chính sách
từ Chính phủ, tự thân các doanh nghiệp cần làm tốt công tác truyền thông tài
chính, đẩy mạnh và phát triển thương hiệu.
Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp
Tạo đủ công ăn việc làm cũng là một thách thức của kinh tế Việt Nam
trong năm 2009. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp
nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thu hẹp qui mô và giãn
sản xuất, đồng nghĩa với cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời
gian làm việc, là những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất thời
gian qua. Ngay trong khu vực vốn tạo nên cơn sốt nhân lực trong năm 2006-
2007 là tài chính, ngân hàng, và chứng khoán cũng hình thành xu thế cắt
giảm mạnh. Giá cổ phiếu xuống thấp cộng với qui mô giao dịch giảm mạnh
đẩy không ít công ty chứng khoán lâm vào cảnh thua lỗ và hoạt động cầm
chừng.
Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt sáu tháng cuối
năm 2008 nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn
chưa tìm được tiếng nói thống nhất. Quá trình tự điều chỉnh sẽ dẫn tới điểm
chung. Vấn đề của hệ thống ngân hàng là sàng lọc tốt và lựa chọn các dự án
thực sự có chất lượng, chỉ cần được tiếp đủ vốn là sẽ đạt tới qui mô sản xuất

kinh doanh hiệu quả. Trong thời gian TTCKVN tăng trưởng đầy hào hứng
kể từ giữa 2006 đến hết 2007, nhiều dự án đầu tư mở rộng hoặc phát triển
mới đã được triển khai mà không có các đánh giá đầy đủ và cẩn trọng về
mức độ khả thi thương mại. Đa phần các ngân hàng hiện này đều có qui
trình tín dụng với nhiều thủ tục nhằm đảm bảo mức độ an toàn cao cho các
khoản vay. Tuy nhiên, phần cơ bản nhất là đánh giá tín nhiệm để phân cấp
tín dụng, làm căn cứ xác định lãi suất và hạn mức cho từng khách hàng hay
nhóm khách hàng thì vẫn chưa hoàn chỉnh.
Tỷ giá USD/VND diễn biến phức tạp và khó lường, tâm lý găm giữ
ngoại tệ của các tổ chức và doanh nghiệp khiến cho cung cầu USD trở nên
căng thăng.
Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp
Do suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong
năm 2009 giảm mạnh. Từ đó, có thể nhận định nhiều khó khăn cho xuất
khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù giá nhập khẩu cũng có xu thế
giảm nhưng muốn đảm bảo nhập siêu ở mức an toàn, cần tiếp tục kiểm soát
chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng
và đầu tư.
II. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN
CẦU ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1. Đối với các yếu tố cung
Trong thập niên từ 1997-2007, nền kinh tế Việt nam khởi sắc cùng với
quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, đặc biệt là sau khi gia nhập APEC cuối
năm 1998 và hiệp định thương mại song phương với Mỹ được ký kết năm
2000. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng trưởng kể từ các thời
điểm quan trọng đó. Sự tăng trưởng liên tục của thương mại quốc tế đã đưa
Việt Nam thành một quốc gia có độ mở lớn đối với nền kinh tế toàn cầu.
Từ đầu năm 2008, nền kinh tế toàn cầu bắt đầu có những dấu hiệu khủng
hoảng, bắt nguồn từ sự suy thoái của thị trường bất động sản ở Mỹ dẫn đến

cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn nước Mỹ. Cuôc khủng hoảng đã nhanh
chóng lan ra khắp toàn cầu, từ châu Âu, Mỹ Latinh, Trung Đông, Nga, châu
Á. Việt Nam, cho dù có trễ hơn so với các quốc gia khác, cũng bị ảnh hưởng
do độ mở khá lớn của nền kinh tế.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá cả nông sản ngày càng phụ
thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, sự cân
bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả đầu
tư nước ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc
Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp
gia xem xét, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm
cho giá cả xuất nhập khẩu trở nên khó lường.
Một thách thức khác của thị trường xuất khẩu nông sản là độ nhạy
cảm thấp của nhu cầu nông sản đối với giá của nó. Nếu doanh nghiệp xuất
khẩu chủ động giảm giá của một mặt hàng nông sản để kích thích thì nhu
cầu của người tiêu dùng đối với mặt hàng nông sản cũng không tăng lên
nhiều như mức độ giảm giá.
2. Đối với các yếu tố cầu
Một tác động dễ thấy nhất của khủng hoảng toàn cầu là sự suy giảm
nhanh chóng về nhu cầu nhập khẩu trên thế giới trong khi nền kinh tế Việt
Nam đang hướng đến xuất khẩu. Khi kinh tế suy thoái, người tiêu dùng trên
thế giới sẽ thắt chặt chi tiêu và xuất khẩu của chúng ta đến các thị trường
quốc tế sẽ bị suy giảm, qua đó, làm giảm tăng trưởng của Việt Nam. Năm
1997, thế giới cũng đã phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á xuất phát từ Thái Lan nhưng nền kinh tế Việt Nam ít bị ảnh hưởng nặng
nề do mức độ hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam lúc đó còn khiêm tốn
và chưa chính thức gia nhập thị trường vốn toàn cầu. Tuy nhiên, năm 2008,
với độ mở lớn của nền kinh tế sau 10 năm gia nhập APEC và 2 năm gia
nhập WTO, mức độ ảnh hưởng của nền kinh tế Việt nam chắc chắn sẽ bị tác
động nhiều hơn cho dù mức độ tác động ít hay nhiều còn tùy thuộc vào từng

ngành hàng, từng lĩnh vực khác nhau. Cụ thể như lĩnh vực nông sản, thị
trường nông sản cũng là thách thức lớn nhất cho xuất khẩu Việt Nam là tính
biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 đã là những
minh chứng cụ thể cho đặc điểm này. Mặt hàng gạo, giá thế giới có khi tăng
vọt lên đến 300%, sau đó lại suy giảm.
Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ
TOÀN CẦU
1. Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo.
Nhưng cũng không tránh khỏi tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, Thái
Lan cũng phải chịu ảnh hưởng không nhỏ, cụ thể là giá gạo xuất khẩu năm
2009 cũng bị giảm mạnh.
Theo Vụ Ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Thái Lan cho biết, giá
gạo xuất khẩu của Thái Lan năm 2009 chỉ còn 530 – 540 USD/tấn, giảm
mạnh so với mức 1.080 USD/tấn hồi tháng 4 năm 2008.
Xuất khẩu gạo của nước này năm 2009 có thể đạt từ 8,5 – 9,5 triệu tấn.
Tháng 1 năm 2009, xuất khẩu gạo của Thái là 628.792 tấn gạo, đạt 331 triệu
USD, giảm mạnh so với 1,02 triệu tấn, tương đương 421 triệu USD hồi cùng
kỳ năm 2008. Theo bà Apiradi Tantraporn, Vụ trưởng Vụ Ngoại thương cho
biết, xuất khẩu gạo của Thái Lan năm 2008 là một hiện tượng lạ khi những
nỗi lo về thiếu hụt gạo đã khiến cho các nhà nhập khẩu nhập nhiều gạo để
tích trữ. Thêm vào đó, vài nước xuất khẩu gạo lớn như Ấn Độ và Việt Nam
đã áp dụng những biện pháp hạn chế hoặc cấm xuất khẩu, điều này đã tạo
điều kiện cho các nhà xuất khẩu gạo của Thái. Do đó, xuất khẩu gạo của
Thái năm 2008 đạt 10,02 triệu tấn, tăng mạnh so với 9,5 triệu tấn năm 2007.
Tuy nhiên, năm 2009 với tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng đã
Trang 12

Chuyên đề tốt nghiệp
khiến thị trường gạo trên thế giới thắt chặt hơn, hợp đồng mua bán gạo giảm
mạnh. Thái Lan có thể sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt khi chính
phủ Ấn Độ gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo. Ấn Độ là một trong những nước
xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo năm
2008 do lo sợ về tình trạng thiếu hụt gạo tại thị trường trong nước.
2. Ấn Độ
Xuất khẩu chè của Ấn Độ trong 3 tháng đầu năm 2009 giảm 24% do
sản lượng nội địa giảm, nhu cầu nội địa ổn định và tinh trạng suy giảm kinh
tế thế giới tác động đối với hoạt động xuất khẩu.
Số lương xuất khẩu chè của Ấn Độ tháng 1 đến tháng 3 chỉ đạt 38.900
tấn so với 50.940 tấn so với cùng kỳ năm 2008. Một lý do chính đáng là
không đủ nguồn cung. Sản xuất chè của Ấn Độ trong 3 tháng đầu năm 2009
do những vấn đề liên quan đến thời tiết và khô hạn, đã giảm sút và nhu cầu
chè tại thị trường nội địa cũng là một vấn đề. Tình trạng giảm nhu cầu xuất
khẩu nói chung cũng đã và đang bị tác động bởi suy giảm kinh tế thế giới.
Xuất khẩu chè của khu vực phía Bắc Ấn Độ giảm 34% còn 19.940 tấn
trong khi xuất khẩu chè của khu vực phía Nam Ấn Độ giảm 8% còn 18.960
tấn trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2009. Ấn Độ xuất khẩu chè
CTC (Crush-Tea-Curl) chủ yếu sang Ai Cập, Pakistan và UK, và chè PO
(Premium Orthodox ) sang Iran, Iraq và Ai Cập.
Tình trạng giảm sản lượng ở một số nước sản xuất chè lớn như Kenya,
Sri Lanka cũng được xem như là nhân tố thúc đẩy xuất khẩu chè của các
nước khác.
Ấn Độ, Trung Quốc, Sri Lanka, Indonesia và Kenya sản xuất tới 75%
sản lượng chè của thế giới.
3. Các nước Mỹ Latinh
Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngày 15/7/2009, Ủy ban Kinh tế Mỹ La tinh (CEPAL), đã chính thức

công bố dự kiến về triển vọng kinh tế các nước Mỹ La tinh và Caribe năm
2009/2010. Theo báo cáo của Ủy ban này, GDP của các nước Mỹ La tinh sẽ
giảm 1,9% trong năm nay do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, các mâu thuẩn nội tại trong khu vực và thiên tai dịch bệnh đã và đang
phát sinh
Khủng hoảng đã làm gián đoạn quá trình 6 năm liên tục tăng trưởng kinh tế
và cải thiện chỉ số xã hội theo hướng tích cực của các nước trong khu vực.
Và mặc dầu hiện tại đã có dấu hiệu cho thấy, thời điểm tồi tệ nhất đã qua,
song việc phục hồi vẫn diễn ra chưa được như mong đợi. Các chỉ số kinh tế
cơ bản như xuất nhập khẩu, đầu tư, sản xuất công nghiệp của các nước như
Achentina, Brazil, Chile, Mexico, Colombia, Venezuela, đều giảm mạnh so
Với cùng kỳ năm ngoái, Cũng do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, lượng kiều hối, nguồn thu nhập quan trọng của các nước Mỹ La
tinh trong 10 tháng đầu năm đã giảm trên 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhiều nước đã phải điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP và thu ngân sách
của năm nay, đồng thời áp dụng các biện pháp nới lỏng tỷ giá chuyển đổi
giữa đồng USD so với đồng tiền bản địa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để hỗ
trợ và khuyến khích xuất khẩu và tiếp tục thực hiện các chính sách kích cầu
và hỗ trợ lãi suất tín dụng đã được đưa ra vào cuối năm ngoái và đầu năm
nay. Thiên tai cũng là một nguyên nhân khiến cho kinh tế các nước chậm
tăng trưởng. Một số nước như Achentina, Uruguay, Paraguay, Venezuela và
Brazil lại phải đương đầu với nạn hạn hán lớn nhất trong vòng 10 năm qua
gây hậu quả nặng nề cho trồng trọt và chăn nuôi. Achentina dự kiến năm nay
sản lượng ngũ cốc và hạt có dầu sẽ giảm từ 97,1 triệu tấn của niên vụ trước
xuống còn 63,5 triệu tấn trong niên vụ này. Cũng do hạn hán, một số nước
Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp
trong khu vực như Ecuador, Venezuela buộc Chính phủ phải ban hành chính
sách tiết kiệm điện, nước và và luân phiên cắt điện, nước ở từng khu vực đô
thị . Tình hình chính trị trong khu vực cũng bất ổn tác động tiêu cực đến

quan hệ chính trị và trao đổi thương mại giữa các nước. Phòng thương mại
và dịch vụ Colombia cho biết buôn bán giữa hai nước sẽ giảm trên 22%
trong năm nay và tiếp tục giảm mạnh trong năm tới. Theo báo cáo của UB
Kinh tế Mỹ La tinh, xuất nhập khẩu của các nước trong khu vực năm 2009
giảm mạnh, buôn bán trong nội khối giảm trên 19%, đây là mức giảm đầu
tiên sau hơn một thập kỷ buôn bán trong nội khối tăng trưởng cao trên 16%
và liên tục. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do tác động của khủng hoảng tài
chính thế giới làm cho nhu cầu tiêu thụ giảm, giá hàng nông nghiệp, nguyên
liệu và khoảng sản giảm mạnh, đặc biệt là trong 9 tháng đầu năm.
Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC
MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU.
I. ĐẶC TRƯNG CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có 2 mùa nắng mưa rõ rệt.
Việt Nam được coi là nước có đIều kiện khí hậu thuận lợi cho việc trồng các
cây nông sản. Do điều kiện khí hậu 2 mùa rõ rệt nên đã tạo nên ngành nông
nghiệp Việt Nam 2 mùa thu hoạch: vụ mùa và vụ chiêm. Do nông sản có
tính thời vụ vì vậy quá trình sản xuất, buôn bán nông sản Việt Nam cũng
mang tính thời vụ. Từ đó tạo nên sự cung theo mùa có nghĩa là khi chính vụ
thì hàng nông sản dồi dào, chủng loại đa dạng, chất lượng tốt, giá bán rẻ
(cung >cầu) nhưng khi trái vụ nông sản lại trở nên khan hiếm, số lượng ít,
chất lượng không cao, giá lại cao (cung<cầu).
Nông sản Việt Nam khi thu hoạch thường có chất lượng cao nhưng do
không được bảo quản dự trữ và chế biến đúng quy cách, kỹ thuật nên khi
xuất khẩu thì thường xuất khẩu hàng thô hoặc qua sơ chế hay có được chế
biến thì chất lượng sản phẩm không cao, không đạt các tiêu chuẩn do vậy
thường bán với giá rẻ.

Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp
Hàng nông sản phụ thuộc rất lớn vào thời tiết, khí hậu, địa lý… Năm
nào có mưa thuận gió hoà thì cây cối phát triển, năng suất cao, hàng nông
sản được bày bán tràn ngập trên thị trường. Năm nào thời tiết khắc nghiệt,
bão, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên nông sản mất mùa lúc đó thì hàng
nông sản khan hiếm, chất lượng lại không cao, do không có hàng bán nên
cung < cầu, lúc này giá bán lại rất cao. Hàng nông sản chủ yếu là phục vụ
nhu cầu ăn uống của người tiêu dùng cuối cùng vì thế chất lượng của nó tác
động trực tiếp tới tâm lý, sức khoẻ người tiêu dùng trong khi đó khâu bảo
quản, dự trữ chế biến hàng nông sản của nước ta vừa thiếu lại vừa yếu nên
hàng nông sản của Việt Nam khi bán trên thị trường thì giá thường thấp hơn
các nước trong khu vực và thế giới.
Với điều kiện khí hậu nước ta rất phù hợp với nhiều loại cây trồng do
đó chủng loại hàng nông sản của nước ta rất đa dạng, phong phú, một số loại
cây trồng cho năng suất rất cao tạo ra chất lượng hàng hoá cũng phong phú
và đa dạng. Nước ta là nước nông nghiệp với hơn 70% dân số là làm nông
nghiệp do vậy cây nông sản được trồng ở khắp mọi nơi trên đất nước nhưng
do khác nhau về tự nhiên, địa lý mỗi vùng thích hợp cho một hoặc một vài
loại cây trồng khác nhau, mỗi vùng sử dụng một phương thức sản xuất khác
nhau và trồng những giống cây khác nhau. Do vậy tạo nên những loại hàng
hoá khác nhau và chất lượng hàng hoá khác nhau.
Tóm lại, nông sản Việt Nam rất đa dạng, phong phú về chủng loại,
chất lượng cao được rất nhiều nước trên thế giới và khu vực ưa chuộng.
Nhưng do nền kinh tế của nước ta chưa phát triển nên khâu bảo quản, dự trữ
rất yếu kém và ngành chế biến chưa được đầu tư đúng mức. Do đó hầu hết
hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường khu vực và thế giới chủ
yếu là hàng thô và thường bị ép giá nên giá trị xuất khẩu không cao.
Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp

Do vậy, vấn đề bảo quản, dự trữ, chế biến là rất quan trọng, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Với đặc tính
khó bảo quản, dễ bị ẩm mốc, biến chất của hàng nông sản, vì vậy trong quá
trình tổ chức xuất khẩu nông sản các doanh nghiệp phải rất quan tâm đến
đIều khoản giao hàng, đIều khoản chất lượng… để tổ chức thực hiện một
cách nhanh chóng song vẫn đảm bảo được các điều khoản đã ký kết.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG
NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ
TOÀN CẦU.
1. Tình hình xuất khẩu nông sản nói chung.
Theo kế hoạch năm 2008, xuất khẩu sẽ đạt kim ngạch 58,6 tỷ USD,
tăng 22% so với năm 2007. Trên thực tế, xuất khẩu năm 2008 đạt kim ngạch
62,7 tỉ USD, vượt 4,7 tỷ USD so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, hoạt động
xuất khẩu năm 2009 không có nhiều khởi sắc như kết quả đã đạt được của
các năm trước. Tính đến hết tháng 12 năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đạt 56,58 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước,
không đạt mục tiêu đã đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm
2009 với kim ngạch xuất khẩu là 71 tỷ USD. Bảng 1 cho thấy dưới tác động
của khủng hoảng kinh tế, phần lớn các ngành hàng xuất khẩu đều bị ảnh
hưởng, thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu giảm tương đối nhiều so với cùng
kỳ năm 2008, cụ thể đối với một số mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo
giảm 8%, cao su giảm 25,2% và cà phê giảm 19%. Ngoài tác động trực tiếp
của khủng hoảng kinh tế dẫn tới nhu cầu sụt giảm, thì một số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương mại mới
do các nước đưa ra để hạn chế nhập khẩu trong tình hình nền kinh tế của họ
Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp
đang gặp khó khăn. Một điều nhận thấy là các hành vi bảo hộ thương mại ngày
càng tinh vi, nhất là tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 so với năm 2008

Giá trị xuất khẩu
2008 (triệu USD)
Giá trị xuất khẩu
2009 (triệu USD)
Giá trị xuất
khẩu 2009 so
với 2008 (%)
Tổng giá trị xuất khẩu 62.685 56.584 90,3
Dầu thô 10.357 6.210 60
Dệt may 9.120 9.004 98,7
Giày dép 4.768 4.015 84,2
Thủy sản 4.510 4.207 93,3
Gạo 2.894 2.662 92
Gỗ và sản phẩm gỗ 2.829 2.550 90,1
Cao su 1.603 1.199 74,8
Cà phê 2.111 1.710 81
Điện tử, máy tính và
linh kiện
2.638 2.774 105,1
Máy móc thiết bị và
dụng cụ phụ tùng
1.860 2.028 109,1
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (2009)
Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp
Một điều hiển nhiên là ngoài việc tăng số lượng xuất khẩu thì việc tăng
giá trị xuất khẩu còn phụ thuộc một phần vào giá thế giới và những thị trường
xuất khẩu lớn. Do đó khi những thị trường này có biến động thì kim ngạch xuất
khẩu bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu không chỉ
đơn thuần là do các khó khăn khách quan mà đồng thời cũng cho thấy sức

cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế, năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp chưa cao. Nền kinh tế Việt Nam tham gia vào nền kinh tế
thế giới với tư cách là một nền kinh tế nhỏ, có trình độ phát triển thấp, do đó
phần lớn các mặt hàng xuất khẩu đều mới chỉ dừng lại ở dạng thô, sơ chế, ít
giá trị gia tăng (gạo, cà phê,…), do đó sẽ chịu nhiều biến động trước diễn
biến bất lợi của nền kinh tế thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng,
phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng
trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh
sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các
ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị
gia tăng xuất khẩu lớn. Không những thế, Việt Nam vẫn chưa tận dụng triệt để
lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu
vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các
thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu hiện chiếm khoảng 30 - 35% khối
lượng hàng nông sản thực phẩm làm ra, trong đó lúa gạo chiếm khoảng
20%, cà phê: 95%, cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95%…
Một số nông sản của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế
giới (gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu). Ngoài các khu vực tiêu thụ truyền
thống nông sản của Việt Nam, như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước
Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp
Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường
Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Trong năm 2008, mặc dù phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng
kinh tế thế giới nhưng xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn có được bước phát
triển vững chắc với kim ngạch năm 2008 lên tới trên 8,5 tỷ USD, tăng tới
36,7% về giá trị xuất khẩu, trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chính như cà
phê, cao su, gạo là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao trên 1 tỷ USD:
cà phê là 2,11 tỷ USD (chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu các nông sản

chủ yếu), cao su với 1,6 tỷ USD (chiếm 18,7%) và gạo là 2,9 tỷ USD (chiếm
33,8% tổng kim ngạch). Có thể nói đây là các mặt hàng thế mạnh của Việt
Nam và sản phẩm Việt Nam đã được thị trường thế giới chấp nhận rộng rãi
và là các sản phẩm có khả năng cao nhất tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
do cả thế mạnh trong điều kiện sản xuất và kinh nghiệm sản xuất - kinh
doanh - xuất khẩu của doanh nghiệp và chính sách của Nhà nước.
Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu nông sản, trong 8 tháng đầu năm ước
đạt 8,25 tỷ USD, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm 2008 và chiếm tỷ trọng
22% kim ngạch xuất khẩu. Lượng xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông
sản đều tăng mạnh như nhân điều lượng đạt 115.000 tấn, tăng 6% so với
cùng kỳ năm 2008, cà phê lượng đạt 848.000 tấn, tăng 17%; chè các loại
lượng đạt 83.000 tấn, tăng 16,8%; hạt tiêu lượng đạt 96.000 tấn, tăng 46,8%;
gạo lượng đạt 4,7 triệu tấn, tăng 43%, tuy nhiên do giá xuất khẩu bình quân
của các mặt hàng nông sản đều giảm đã làm cho xuất khẩu nhóm hàng này
giảm 9,4% so với cùng kỳ năm 2008, cụ thể giá điều giảm 19%, giá cà phê
giảm 29%, giá hạt tiêu giảm 34%, giá gạo giảm 29%, giá cao su giảm 46%.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu nhóm này giảm 808 triệu USD, trong đó
giảm do giá khoảng 2,25 tỷ USD nhưng tăng do lượng khoảng 1,44 tỷ USD.
Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp
Bảng 2.2: Xuất khẩu nông sản chủ yếu của Việt Nam
n v tính: L ng (1.000 t n), giá tr (tri u USD)Đơ ị ượ ấ ị ệ
Năm 2007 Năm 2008
Lượng Giá trị Lượng Giá trị
Nông sản chủ yếu 6,274 8,580
1 Cà phê 1,229 1,911 1,060 2,111
2 Cao su 715 1,393 658 1,604
3 Gạo 4,558 1,490 4,742 2,894
4 Chè 114 131 104 147
5 Hạt điều 153 654 165 911

6 Lạc nhân 37 31 14 14
7 Hạt tiêu 83 271 90 311
8 Hàng rau quả 0 306 186 407
9 Đường 12 5 13 5
1
0 Sữa & sản phẩm sữa 0 35 0 77
11 Dầu mỡ động, thực vật 0 48 0 100
(Nguồn: Báo cáo tình hình xuất khẩu nông lâm thủy sản và các biện pháp đẩy
mạnh xuất khẩu năm 2009 – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.)
2. Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu
Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra từ quý IV năm 2008 đã tác
động mạnh tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Tính đến hết năm 2009,
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt kim ngạch 56,58 tỉ
USD, giảm 9,7% so với năm trước. Trong những tháng cuối năm 2009, nền
kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam đã tăng nhẹ về lượng xuất khẩu nhưng do giá trên thị
trường thế giới biến động theo hướng bất lợi, thấp hơn so với giá trước
khủng hoảng, do đó dẫn đến kim ngạch xuất khẩu giảm rõ rệt. Dưới đây là
tổng quan về tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu
của Việt Nam trong năm 2008-2009.
 Mặt hàng gạo: Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, trong năm
2008, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng so với năm 2007, đạt 4,6 triệu tấn
với giá trị thu được là 2,6 tỉ USD (tính theo giá FOB), lượng xuất khẩu tăng
3,3% và giá trị thu được tăng 99% (tính theo giá FOB) so với năm 2007.
Tính đến hết năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt
2,662 tỉ USD, giảm 6,7% so với năm trước2008. Philippin là thị trường xuất
khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam; Indonesia đứng thứ hai với tỷ trọng 25,44% trong tổng

kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam; tiếp theo là Malaysia (7,83%);
Singapo (1,74%) và Nhật Bản (1,26%). Năm 2005 Việt Nam xuất khẩu gạo
tới 40 thị trường, năm 2006, 2007 và 2008 con số này đã là 41 thị trường.
Đặc biệt trong năm nay, tổng lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu
Phi và Trung Đông tăng mạnh.
 Mặt hàng cà phê: Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng
mạnh từ 735 triệu USD năm 2005 lên 1.911,5 triệu USD năm 2007 và đạt
2.111 triệu USD năm 2008. Trong tháng 12 năm 2009, lượng cà phê xuất
Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp
khẩu đạt 182 nghìn tấn, đem lại tổng kim ngạch cho cả năm 2009 là 1.710
triệu USD, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2008. Các nước nhập khẩu chính
của cà phê Việt Nam là Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Đức, Hoa Kỳ….. Đối thủ
cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Braxin, Colombia và Indonesia. Xét về
giá trị, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2001 đến nay tăng
trung bình khoảng 30%/năm, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, theo thống
kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA), kim ngạch xuất khẩu
tăng tới 53%. Việt Nam trong nhiều năm liền là một trong các nước xuất
khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Việt Nam đã xuất khẩu cà phê sang 74 nước
trên thế giới, thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng đã hình thành một số
thị trường lớn, ổn định.
 Mặt hàng cao su: Năm 2007, Việt Nam là nước xuất khẩu cao su tự
nhiên lớn thứ tư trên thế giới sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Kim
ngạch xuất khẩu cao su tự nhiên của Việt Nam tăng từ 804,1 triệu USD năm
2005 lên 1.392,8 triệu USD năm 2007 và đạt 1.604 triệu USD trong năm
2008. Tính đến hết tháng 12 năm 2009, lượng giá trị cao su xuất khẩu là
1199 nghìn tấn, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm 2008. Theo dự đoán của
các nhà kinh tế học, giá cả trên thị trường cao su nói riêng và nhóm thị
trường nguyên liệu thô nói chung sẽ hồi phục trước khi kinh tế toàn cầu hồi
phục, do hoạt động của các quỹ đầu cơ trên thị trường tương lai (future

market) đối với nguyên liệu thô. Thị trường xuất khẩu cao su tự nhiên chủ
yếu của Việt Nam là Trung Quốc (chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu). Tuy
nhiên, do thuế xuất khẩu mặt hàng này từ Việt Nam vào Trung Quốc tương
đối cao nên xuất khẩu cao su qua các kênh chính thức còn rất hạn chế, chủ
yếu được buôn bán qua biên giới. Ngoài Trung Quốc, những thị trường xuất
Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp
khẩu lớn của cao su tự nhiên Việt Nam là: Malaysia (5,0%), Đài Loan
(4,9%), Hàn Quốc (4,8%) và Đức (4,3%).
 Mặt hàng hạt tiêu: Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đã
tăng từ 150 triệu USD năm 2005 lên 300 triệu USD năm 2007 và đạt 311
triệu USD năm 2008. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong
tháng 6/2009, cả nước ta đã xuất khẩu được 15.276 tấn, với kim ngạch 35,52
triệu USD, giảm 4,4 % về kim ngạch, nhưng lại tăng 44,1% về lượng so với
cùng kỳ năm 2008. Như vậy, tổng lượng hồ tiêu xuất khẩu trong 6 tháng đầu
năm 2009 đạt 67.998 tấn, trị giá 158,17 triệu USD, giảm 5,12% về kim
ngạch và tăng 44,42% về lượng so với cùng kỳ năm 2008. Hạt tiêu Việt
Nam hiện đã có mặt tại trên 50 thị trường trên thế giới. Các thị trường xuất
khẩu chính của hạt tiêu Việt Nam là Hoa Kỳ, Đức, Ấn Độ, Hà Lan, Ucraina,
Singapore, Pháp, Ba Lan… Ba thị trường lớn như Đức, Hà Lan, Tiểu Vương
quốc Arập đều có kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD trong 6 tháng đầu
năm 2009.
 Mặt hàng hạt điều: Kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã
tăng từ 502 triệu USD năm 2005 lên 640 triệu USD năm 2007 và đạt 911
triệu USD năm 2008. Năm 2009, xuất khẩu hạt điều đạt 177.154 tấn, trị giá
846,7 triệu USD, tăng 7,15% về lượng nhưng giảm 7,06% về trị giá so với
cùng kỳ năm 2008. Sản phẩm điều nhân Việt Nam đã xuất khẩu sang 52
nước trên thế giới, chiếm khoảng 20% thị phần xuất khẩu điều thế giới.
Nhân điều Việt Nam được thế giới đánh giá thuộc loại tốt, có chất lượng
cao. Các nước Hoa Kỳ, Australia, Anh, Hà Lan và Trung Quốc là những thị

trường nhập khẩu lớn của Việt Nam.
 Mặt hàng chè: Kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam đã tăng từ 97
triệu USD năm 2005 lên 130 triệu USD năm 2007 và đạt 147 triệu USD năm
Trang 25

×