A. LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công
nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch các công
cụ khác. Nhà nước đóng vai trò điều hành nền kinh tế vĩ mô (định hướng và điều tiết)
nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế và ngăn ngừa mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Trong quá trình thực hiện đổi mới và cải cách hành chính hiện nay cải cách công cụ quản
lý kinh tế vĩ mô được đổi mới hoàn thiện. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định
hướng cơ bản cho sự vận động cơ chế thị trường của nước ta. Chúng ta đang đẩy nhanh,
mạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật, các thể chế kinh tế, tăng cường việc sử dụng các
công cụ tài chính và tiền tệ điều tiết thị trường. Như vậy nền kinh tế hàng hóa và kinh tế
thị trường đòi hỏi tăng cường chứ không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước bất
luận là nhà nước TBCN hay XHCN. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN và mở rộng
quan hệ quốc tế đi vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị kinh tế của
nhà nước ngày càng cao.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học - công nghệ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì không thể giải quyết
được nhiều vấn đề kinh tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc tế . Vì thế kết hợp hài hoà giữa
sự vận hành của cơ chế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và là giải
pháp mang lại thành công trên con đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, Nhà nước
giữ vai trò định hướng tạo “hành lang” pháp lý và môi trường đầu tư để các chủ thể có
thể phát huy tính năng động, sáng tạo của mình.
Thực tế đã chứng minh vai trò quản lý kinh tế của nhà Nước trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hết sức quan trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây, dưới sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang khắc phục dần những mặc tích cực và khắc phục
những mặt hạn chế.
Nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường nên nhóm em đã chọn đề tài “Vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế những
nhược điểm của nền kinh tế thị trường’’.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường.
Nền kinh tế thị trường được tập hợp bởi vô số thị trường cụ thể. Trong khuôn khổ
đó, nó tạo nên một cơ chế phân bổ nguồn lực cho việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào và sản xuất cho ai? và cơ chế này được gọi là cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị
trường, những người mua và người bán tác động lẫn nhau để hình thành nên các mức giá
cả hàng hóa khác nhau. Đến lượt mình, chính sự lên xuống của giá cả lại dẫn dắt người ta
sản xuất nhiều hơn hay ít hơn, sản xuất với những cách thức nào và phân phối các kết quả
sản xuất cho ai.
Khái niệm:
- Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường (người
bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó
gọi là nền kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ kinh
tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch
vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào
việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
- Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của
sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công
nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua - bán và
hàng hoá.
2. Bản chất của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường xã hội gần giống với kinh tế thị trường nhưng mục tiêu của nó
là “ gắn kết trên cơ sở thị trường các nguyên tắc tự do và bình đẳng xã hội”. Tuy nhiên,
cần tránh hiểu nhầm vấn đề tự do trên thị trường.
Khái niệm kinh tế thị trường xã hội hoàn toàn khác các quan điểm của “ chủ nghĩa
tự do mới”. Kinh tế thị trường xã hội không đồng nhất với cái gọi là “kinh tế thị trường
tự do”. Đây là mô hình kinh tế được các nhà kinh tế theo trường phái tự do của Mỹ đề
xuất, mà bản chất của nó là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước và để cho nền kinh tế
tự vận hành thông qua các công cụ của nó.
Kinh tế thị trường xã hội cũng không đồng nhất với các quan điểm kinh tế, xã hội
của những người trọng tiền. Những người này muốn giảm thiểu sự can thiệp của Nhà
nước nhưng đồng thời cũng muốn chiến đấu với lạm phát bằng cách theo đuổi một chính
sách hạn chế kiểm soát lượng cung tiền tệ. Hơn nữa, họ cho rằng tiến trình kinh tế tự nó
hoàn toàn có khả năng chịu đựng các biến động có tính chu kỳ nếu Nhà nước kiềm chế
không can thiệp.
3. Phân loại thị trường
Có nhiều cách phân loại khác nhau về thị trường.
- Cách phổ biến nhất là phân loại thị trường theo nội dung hàng hóa mà người ta
giao dịch. Theo cách này, ở mức tổng quát nhất, các thị trường được chia ra thành thị
trường hàng hóa tiêu dùng (thị trường đầu ra) và thị trường các yếu tố sản xuất (thị
trường đầu vào). Các thị trường đầu ra lại có thể phân nhỏ thành vô số thị trường cụ thể
như thị trường gạo, thị trường quần áo, thị trường ô tô, thị trường giáo dục,v.v…Các thị
trường đầu vào có thể phân thành thị trường vốn hiện vật (máy móc, thiết bị, nhà xưởng
v.v…), thị trường đất đai, thị trường lao động v.v…Tùy theo cách người ta quan niệm về
hàng hóa là theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp hơn mà người ta có thể đặt tên cho thị trường
một cách khác nhau. Ví dụ, thị trường máy móc (đầu vào) có thể chia ra thành các phân
nhánh như thị trường chung, có tính chất đại diện, ta nói đến một thị trường cụ thể hay
riêng biệt nào đó theo cách phân loại này.
- Phân loại theo cách không gian kinh tế mà theo đó các quan hệ trao đổi hàng
hóa diễn ra: theo cách này, thị trường có thể phân ra thành thị trường thế giới, thị trường
khu vực, thị trường quốc gia, thị trường vùng hay địa phương. Thật ra, khi nói đến các thị
trường theo cách phân loại này, người ta vẫn thường kết hợp với cách phân loại thị
trường theo nội dung hàng hóa để xem xét một thị trường cụ thể, trên một địa bàn hay
không gian kinh tế cụ thể. Ví dụ, người ta thường nói đến thị trường lúa, gạo, cà phê hay
chung hơn, thị trường nông sản thế giới, Việt Nam hơn là nói đến một thị trường thế giới,
hay việt Nam chung chung.
Trong các hàng hóa có những thứ do chi phí vận chuyển tương đối thấp so với giá
trị hàng hóa nên thị trường về bản chất thường mang tính chất thế giới. Giá cả các hàng
hóa này ở các địa điểm giao dịch khác nhau trên thế giới không có sai biệt lớn (chẳng hạn
thị trường vàng). Ngược lại, khi chi phí vận chuyển hàng hóa tương đối lớn và do một số
lý do khác, thị trường của một số hàng hóa lại thường mang tính chất địa phương (ví dụ,
thị trường vật liệu xây dựng).
- Theo cấu trúc thị trường, người ta cũng có thể chia ra thành các thị trường khác
nhau. Một cấu trúc thị trường cụ thể thường được định dạng bởi số lượng người mua,
người bán trên đó và mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa họ. Theo cách phân loại này,
thoạt tiên các thị trường được phân ra thành hai loại lớn: thị trường cạnh tranh hoàn toàn
(trên thị trường này người mua hay người bán không có quyền lực chi phối giá cả hàng
hóa) và thị trường cạnh tranh không hoàn toàn (trên thị trường dạng này, người mua hay
người bán riêng biệt, dù ít, dù nhiều vẫn có khả năng chi phối giá). Thị trường cạnh tranh
không hoàn toàn lại bao gồm những dạng thị trường như: thị trường độc quyền thuần túy,
thị trường độc quyền nhóm, thị trường cạch tranh có tính chất độc quyền. Mặc dù có
những điểm chung, hành vi của những người mua hay bán trên từng dạng thị trường cụ
thể vẫn mang những sắc thái riêng, bị chi phối bởi những điểm đặc thù của từng thị
trường.
4. Những điều kiện để phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
- Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại
và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay.
- Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng là điều kiện
tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
- Đa số các nước hiện nay trên thế giới đều phát triển theo mô hình kinh tế thị
trường vì vậy nước ta muốn hoà nhập vào nền kinh tế quốc tế cũng phải phát triển theo
mô hình kinh tế thị trường.
5. Vai trò của nền kinh tế thị trường:
Phát triển kinh tế thị trường sẽ phá vỡ cơ cấu kinh tế tự nhiên chuyển thành kinh tế
hàng hoá, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất .
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
- Kích thích việc cải tiến kĩ thuật nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã cũng như
tăng số lượng hàng hoá dịch vụ.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn
6. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường :
Nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển
- Thứ nhất, trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ ngày càng
tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất
nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp.
- Thứ hai, cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghệ hóa,
hiện đại hóa, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn mất cân đối và kém hiệu
quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hiệp tác, chuyên môn hóa sản xuất
chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế.
- Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị
trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ
thấp. Dung lượng thị trường sức lao động theo đúng nghĩa, thị trường tài chính, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ còn sơ khai, phát triển chậm.
- Thứ tư, công cuộc đổi mới ở nước ta trong 20 năm qua đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Một trong những thành tựu quan trọng nhất là kinh tế tăng
trưởng khá nhanh, GDP bình quân đầu người liên tục tăng. Song, thực tế cho thấy thu
nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức mua hàng hóa còn
thấp, tỷ suất hàng hóa chưa cao.
- Thứ năm, còn chịu ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp.
Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ
đạo
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hóa tuy có bản chất kinh tế khác
nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với
các quan hệ cung cầu, tiền tệ, giá cả chung
Mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng bên cạnh
tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn có sự khác nhau và mâu thuẫn
khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương
hướng khác nhau.
Cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế
những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các
thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng, vấn đề có ý nghĩa quyết
định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây
dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, tránh nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”
Cơ cấu kinh tế “mở” bắt nguồn từ sự phân bố không đều về tài nguyên thiên nhiên và
sự phát triển không đều về kinh tế, kỹ thuật giữa các nước, đáp ứng yêu cầu quy luật
phân công và hợp tác lao động quốc tế. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia
muốn phát triển toàn diện cần phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô
của nhà nước
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế
thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước đây, cũng như khác
với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô
hình kinh tế khái quát trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh
tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản
chủ nghĩa.
7. Ưu và nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng
vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý. Do
vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư thừa hàng hoá để cho phép
thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Ưu điểm:
- Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để
cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại để
phát triển không ngừng.
- Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh
doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
- Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo
vệ lợi ích người tiêu dùng.
- Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ được mở rộng
và coi như là hàng hoá. Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ.
Nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ được mở rộng
và coi như là hàng hóa. Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ.
Song ngoài những ưu điểm nêu trên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số nhược
điểm sau:
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không
chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi
thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá, các
công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
- Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì vậy họ có thể lạm
dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả
kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
- Một nền kinh tế tự do thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng
hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà
còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà
nước. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường
được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự
phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo
ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước
mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản
xuất thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.
II. ĐÔI NÉT VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Những đặc điểm chính:
Nhà nước ta từ khi ra đời năm 1945 cho đến nay luôn thể hiện bản chất là nhà
nước của nhân dân, phục vụ vì lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là một hệ thống gồm nhiều cơ quan thuộc nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau,
được thành lập, tổ chức và hoạt đọng theo những nguyên tắc chung thống nhất tạo thành
một cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhưng nhiệm vụ chức năng của Nhà nước.
Cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đảm bảo tính thống nhất của
quyền lực Nhà nước. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân lập ra. Các cơ khác của
Nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan đại diện dân cử, chịu trách nhiệm và báo cáo trước
cơ quan đó. Tuy bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực
nhà nước là thống nhất, nhưng Nhà nước có sự phân công phối hợp giữa các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, lẫn lộn chức năng giữa
chúng.
-Trên lĩnh vực lập pháp: Bộ máy nhà nước thể chế hóa đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng Sản thành pháp luật của nhà nước.
- Trên lĩnh vực hành pháp: Bộ máy nhà nước bằng hoạt động cụ thể, đưa pháp luật
vào đời sống xã hội, đảm bảo để pháp luật nhà nước trở thành khuôn mẫu hoạt động của
nhà nước, xã hội đảm bảo thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
- Trên lĩnh vực tư pháp: bằng hoạt động cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện nghiêm nhằm duy trì trật tự, kỉ cương, ổn định xã hội.
2. Vai trò của Nhà nước:
Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng có vai trò nhất định trong sự phát
triển của một quốc gia, đặc biệt là trong sự nghiệp cải tổ và xây dựng nền kinh tế. Việt
Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước với nền kinh tế
thị trường với nhiều thành phần cùng tham gia. Trong điều kiện như vậy thì vai trò quản
lý kinh tế của nhà nước là khách quan, một nhu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường, thể
hiện ở việc Nhà điều tiết nền kinh tế thông qua việc hoạch định chính sách. Vì vậy, nâng
cao vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình
công nghiệp hóa– hiện đại hóa là vấn đề mang tính thời sự. Nền kinh tế thị trường và cơ
chế thị trường không làm giảm nhẹ sự quản lí của Nhà nước.
• Vai trò kinh tế của Nhà nước:
- Nhà nước phải đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập
khuôn khổ pháp luật để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, từ đó mà phát triển
kinh tế.
- Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt
động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Cụ thể như nhà
nước xây dựng chiến lược quy hoạch và phát triển, đầu tư vào một số lĩnh vực trọng
điểm để dẫn dắt nền kinh tế- xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước sử dụng
chính sách tài chính, tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế.
- Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả : ngăn chặn những tác
động xấu ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội như lạm dụng tài nguyên,
gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh,
chống độc quyền để nâng cao hiệu quả của hoạt động thị trường.
- Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các hạn chế của cơ chế thị trường, thực hiện
công bằng xã hội. Cơ chế thị trường có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế,
nhưng bản thân nó không mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, vậy nên nhà
nước phải thực hiện phân phối công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ
và công bằng xã hội.
3. Những ảnh hưởng của Nhà nước thể hiện trong các chính sách
Kể từ đại hội VI năm 1986,nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới:
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Trải qua nhiều giai đoạn hình thành và
phát triển,nền kinh tế thị trường ở nước ta đã dần được hoàn thiện thông qua những chính
sách,đường lối và quan điểm của Nhà nước.
3.1 Những đổi mới về cơ sở pháp lí và thể chế thị trường:
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung
pháp lí cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời và trải qua nhiều lần
sửa đổi và bổ sung đã trở nên hoàn thiện hơn,mới nhất đây là Bộ Luật doanh nghiệp năm
2005.
Hiến pháp sửa đổi năm 1992 dã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và đầu tư nước
ngoài.
Luật Đầu tư 2005 đã tạo bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường
đầu tư của Việt Nam để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh
tháo gỡ những vướng mắc cho nhà đầu tư nước ngoài,hạ thấp mức thuế thu nhập cá
nhân,thực hiện cơ chế một cửa,giảm giá dịch vụ viễn thong,nâng cấp cơ sở hạ tầng,mở
rộng lĩnh vực đầu tư như viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng…
Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã
được hình thành ở Việt Nam như Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật phá sản và Luật Lao
động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh nghị định của Chính phủ đã được ban hành
nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Cùng việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được
hình thành. Chính phủ đã chủ trương hóa xóa bỏ các cơ chế tập trung bao cấp, nhấn mạnh
quan hệ hàng hóa tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lí kinh tế, thành lập hàng loạt
các tổ chức tài chính ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ,
thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… cải cách hành chính được
thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến
nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, gồm 5 thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư
nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự đổi mới tư duy
kinh tế của Đảng còn thể hiện ở việc xác lập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh
tế trong nền kinh tế quốc dân.
Vậy sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan
trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phát huy
mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước, đồng thời là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế. Ngoài ra
nó còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ chức hoạt
động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo pháp luật.
3.2 Các giai đoạn nhận thức của Đảng:
Trải qua các kì đại hội Đảng,thể chế thị trường dần được hoàn thiện,cụ thể:
Đại hội VI 12-1986), Đảng ta mới chỉ khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan
hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII (6-1991) đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước”.
Đại hội VIII (7-1996) Đảng đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế
hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”.
Đại hội IX (4-2001) chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định:
“ Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ” tiếp tục đánh dấu thêm
một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng, đã xác định: Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội X(4-2006) làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong nền kinh tế thị trường, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát
triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ
chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà
phải được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác
quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một
số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức
tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính
quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh
tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần
phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm
“vướng chân” sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này rất sai lầm. Bởi vì, Việt Nam chủ
trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự
phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh.
Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng
sản –đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật
sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất
nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng
đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng
và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo
toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện
bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
3.3 Kết quả và ảnh hưởng của những chính sách Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường
Nhìn chung những cải cách kinh tế trong hơn hai thập kỉ qua đã đem lại cho Việt
Nam những thành tựu ban đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi
trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các
nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở
nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực
hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, kiều
hối
Sau năm 1989, Việt Nam đã tiến hành tự do hóa thương mại, phá giá tỷ giá để hỗ
trợ xuất khẩu, và bắt tay thực hiện một chính sách tái hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế. Việt Nam đã thể hiện cam kết tự do hóa thương mại của mình trong những năm gần
đây, và sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã trở thành một trong những điểm mấu chốt
của chương trình cải cách của Việt Nam. Do kết quả của những cải cách này, xuất khẩu
đã tăng mạnh, tới gần 20 – 30% trong một vài năm qua. Năm 2007, xuất khẩu chiếm 78%
GDP. Nhập khẩu cũng tăng nhanh, và Việt Nam đã phải chịu thâm hụt thương mại lớn ở
mức 12.8 tỷ đôla năm 2007. Tổng nợ nước ngoài của Việt Nam, chiếm gần 30,2% GDP
trong năm 2006, được ước tính ở mức khoảng 18,4 tỷ đôla.
Việt Nam khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài như là một phần trong chiến
lược phát triển của mình, và Chính phủ cam kết sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và
kinh doanh. Khả năng tiếp tục thu hút vốn bên ngoài, thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), là một phần không thể tách rời
trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 8% của năm 2008. Kế hoạch 5 năm 2006-
2010 của chính phủ đã đặt mục tiêu giải ngân vốn FDI đạt khoảng 17.5 - 19.5 tỷ đôla từ
các dự án đã được cấp phép và thu hút khoảng 10 tỷ đôla vốn ODA. Chính phủ Việt Nam
cũng hy vọng sẽ huy động được khoảng 4.3 tỷ đôla vào năm 2010 vốn đầu tư gián tiếp
thông qua trái phiếu và bán cổ phiếu ở nước ngoài.
Nhờ việc gia nhập WTO, nhịp độ dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên đáng
kể. Tính đến cuối năm 2007, Việt Nam đã thu hút được khoảng 83.1 tỷ đôla vốn đầu tư
cam kết từ 8,590 dự án tính từ khi đất nước mở cửa cho đầu tư nước ngoài vào năm 1988,
trong đó 29,236 tỉ đôla đã được giải ngân.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế, tiền tệ thế
giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu
(ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
Tuy nhiên có một số bất cập: tình trạng ban hành chính sách kinh tế chưa phù hợp
với thực tế, trong việc ban hành và thực thi chính sách, nhất là chính sách đất đai và tín
dụng. Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của nền
kinh tế nước ta vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử dụng
vào đầu tư phát triển kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại. Sự
phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần phải giải quyết như khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề, năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM HẠN CHẾ
NHƯỢC ĐIỂM NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Những nhược điểm chưa khắc phục được và hướng giải quyết trong tương lai.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và
thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng
khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng
nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất
nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế
giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng
và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ
tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên, cũng có
nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời
gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những
phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam như sau:
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối
với bất cứ thành phần kinh tế nào.
- Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,
là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công
cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ
những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
- Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà
nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh
nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh
doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
- Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng
cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi
những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không
giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng
khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển
hợp tác xã.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài.
Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác
tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
- Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên
của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ
phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà
nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
- Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng
vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút
công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để
thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
- Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang
lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh
doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau,
giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm
huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng
cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới
mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan
tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao
động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ,
đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị
và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị
trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố
tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai
trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi
tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để
định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo
đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh
doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế,
trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách,
luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông
tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi
các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện
ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội,
thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động
lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình
đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp,
điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra
nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng
hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo
hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và
trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có
công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một
yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh.
Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương
xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống
không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ
tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương
mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ
thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh
tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong
những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất
nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng
đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng
và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo
toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện
bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân
dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có
kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu
quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của
Nhà nước.
Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà
còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang
tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới
mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn
không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như:
các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý
doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện
được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp
công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp
tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham
nhũng , v.v
2. Những giải pháp của Nhà nước nhằm hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế
thị trường hiện nay.
Những giải pháp nhằm hạn chế nhược điểm của nền kinh tế thị trường của Nhà
nước.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các
nền kinh tế thị trường nguyên thủy dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể
hoạt động hiệu quả mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh tế
tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp như hiện nay nên sự can thiệp
của nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị
trường.
Bởi vậy, thông qua đề tài tiểu luận này, nhóm chúng em xin nêu ra những giải
pháp của Nhà nước nhằm hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Thứ nhất: Nhà nước sử dụng các tổ chức kinh tế của như công cụ để khắc phục
và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường.
Mô hình kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại những khuyết tật cố hữu, gắn liền với
bản chất của nó mà chúng ta thường gọi là mặt trái của thị trường. Năng lực quản trị hiệu
quả của Nhà nước thể hiện ở khả năng sử dụng các công cụ để hạn chế những hệ quả tiêu
cực do các “khuyết tật” đó gây ra. Sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước chính là sự
can thiệp vào thị trường bằng sức mạnh vật chất của Nhà nước. Do đó, vấn đề tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là
các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty chính là “tái cấu trúc” lực lượng này để làm tốt
vai trò tham gia điều tiết thị trường, cung cấp tốt hơn các loại hàng hóa và dịch vụ công
cộng phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Do đó, có nhiều lãnh vực cần sự can thiệp
mang tính chủ đạo của lực lượng kinh tế Nhà nước như cung cấp hàng hóa và dịch vụ
công cộng; các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời thấp, nhưng cần thiết cho quá trình
công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư kết cấu hạ tầng, đầu tư
cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghiệp công
nghệ cao… Nhà nước đã thể hiện quyết tâm chính trị trong chính sách quản lý, đầu tư
phát triển, chứ không phải để mặc doanh nghiệp Nhà nước cân nhắc hiệu quả tài chính
đơn thuần.
- Thứ 2: Nhà nước đã thiết lập các cụm giải pháp riêng biệt.
Các giải pháp về phát triển văn hóa, tạm gọi là như vậy, sẽ lệ thuộc vào tốc độ cải
thiện về dân trí, về hiện đại hóa tập quán sinh hoạt, hiện đại hóa nhiều quy định, quy chế
dưới luật để đưa hàng chục triệu người dân sống và làm việc theo pháp luật, có tác phong
hiện đại, có đủ trình độ để sử dụng những trang thiết bị, máy móc hiện đại của kết cấu hạ
tầng thị trường hiện đại nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
+ Cụm các giải pháp về nâng cao năng lực điều tiết của Nhà nước đối với kinh tế
thị trường, khi nói đến những thất bại của thị trường thì vấn đề đầu tiên cần phải lưu ý đó
là tính chất chu kỳ của kinh tế. Những biến động về tài chính, tiền tệ những tháng đầu
năm 2008 ở trong nước và trên thế giới đã thể hiện rõ nét thêm về điều đó. Tuy nhiên,
kinh nghiệm về minh bạch thông tin, cảnh báo sớm để can thiệp kịp thời làm giảm tác hại
của những chu kỳ kinh tế có thể lường trước là một nghệ thuật mà các nền kinh tế phát
triển đã rất thuần thục. Tiếp đến là trong điều hòa các vấn đề xã hội, nhất là kìm chế sự
phân hóa giàu nghèo, không ai khác ngoài các chính sách của Chính phủ làm cho xã hội
phát triển nhanh, nhưng hài hòa giữa các tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người đều được
hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
vừa nhanh, vừa hiệu quả và bền vững.
+ Nhà nước đã sử dụng một hệ thống luật pháp điều lệ, mức hình phạt thậm chí cả
mức truy tố để giảm ô nhiễm môi trường.
+ Ngoài ra nhà nước còn sử dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài
nguyên, nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường.
-Thứ 3: Nhà nước đã điều hành chính sách tài chính và chính sách tiền tệ một cách
độc lập nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng tiền.
Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường luôn rơi vào tình trạng bị đe dọa bởi khi
đồng tiền tăng giá đột ngột, khi nạn thất nghiệp phát triển cao, khi thì vừa có tình trạng
thất nghiệp vừa có tình trạng lạm phát
Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của nhà
nước nhằm điều tiết chu kì kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng
trưởng liên tục của nền kinh tế.
Ngoài ra ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ
xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát
từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết này của
nhóm chúng em xin được nói thêm về khía cạnh thứ hai vừa nêu.
+ Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong
sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế
chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương
nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được
thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước
do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định
hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản ánh chính xác yêu cầu phát triển
khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang
tính khách quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của
Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân
dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu tiên
bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh
tế cơ bản sau:
+ Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở
hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn
bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
+ Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách… tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham
gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát
triển của doanh nghiệp.
+ Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế
do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước –
để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên
phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa…
+ Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to
lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định”
ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo
ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng
đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách
phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng
thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho
phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải
phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…; mặt khác,
phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
+ Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội,
bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có
chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ
lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề
này.
+ Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung, của sự
phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những mục tiêu của quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước hướng
tới là xóa bỏ tình trạng vi phạm công bằng xã hội. Đây là một nhiệm vụ lâu dài. Ở nước
ta hiện nay, công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế được biểu hiện không chỉ ở chỗ lao
động ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau, mà còn ở chỗ cống hiến – đóng góp cả
về vật chất lẫn tinh thần trong quá khứ cũng như trong hiện tại – ngang nhau cho sự phát