Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Phân tích tình hình trẻ em tại tỉnh An Giang docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 182 trang )

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
75Ҿ(07ӌ1+$1*,$1*
unite for
children
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Tỉnh An Giang UNICEF
Viet Nam
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM
TỈNH AN GIANG
2012
iv
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Lời cảm ơn
Báo cáo Phân tích tình hình này được thực hiện trong năm 2010 và 2011 thuộc Chương
trình Tỉnh bạn hữu trong khuôn khổ Chương trình Hợp tác Quốc gia giữa Chính phủ Việt
Nam và UNICEF giai đoạn 2006-2011. Tài liệu này thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa
tỉnh An Giang và UNICEF Việt Nam.
Nghiên cứu do nhóm nghiên cứu gồm Edwin Shanks, Nguyễn Tam Giang và Dương
Quốc Hùng thực hiện.
Các phát hiện từ nghiên cứu được rút ra từ các cuộc họp tham vấn, lấy ý kiến đóng góp
của các cơ quan liên quan ở địa phương trong chuyến công tác thực địa vào cuối năm
2010 và từ hội thảo góp ý ở An Giang được tổ chức vào tháng 4 năm 2011. Các chuyên
gia đến từ các Sở, ban ngành ở địa phương bao gồm Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục, Sở Y tế, Cục Thống kê, Sở Tài chính,Trung
tâm Bảo trợ xã hội, Hội Phụ nữ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm
cung cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn, Ủy ban Dân tộc, đại diện đến từ các
huyện Tịnh Biên, Tân Châu và thành phố Long Xuyên, các xã Vĩnh Trung, Châu Phong
và phường Mỹ Bình.
Văn phòng UNICEF Việt Nam hoàn thiện và biên tập báo cáo này.
Tỉnh An Giang và UNICEF Việt Nam xin chân thành cảm ơn các cơ quan, tổ chức và cá
nhân đã đóng góp xây dựng báo cáo này.



v
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Lời nói đầu
Tài liệu Phân tích Tình hình này là một trong các phân tích tình hình ở tỉnh mà UNICEF
Việt Nam khởi xướng nhằm hỗ trợ các tỉnh thuộc Chương trình Tỉnh bạn hữu. Mục đích
của sáng kiến này là cung cấp thông tin cho quá trình lập kế hoạch và ngân sách của các
tỉnh, bao gồm Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội (SEDPs) và kế hoạch ngành để các kế
hoạch này trở nên thân thiện với trẻ em hơn và dựa vào bằng chứng thực tế.
Phân tích Tình hình Trẻ
em mang lại bức tranh tổng thể về tình hình trẻ em trai và gái ở
tỉnh An Giang, bao gồm phân tích sâu về các thách thức hiện nay trẻ em đang đối mặt.
Báo cáo Phân tích cũng xem xét nguyên nhân của tình hình trẻ em ở tỉnh và phân tích
những nguyên nhân này trong bối cảnh của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Việt
Nam nói chung. Mục đích của báo cáo là góp phần xây dựng nền tảng kiến thức vững
chắc hơn về trẻ em thông qua việc phân tích thông tin và số liệu về các vấn đề của trẻ
em đang tồn tại nhưng chưa được giải quyết hoặc phân tích đầy đủ.
Các phát hiện của Phân tích khẳng định quá trình phát triển đáng ghi nhận của tỉnh về
các vấn đề trẻ em cùng với các thành tựu phát triển kinh tế xã hội trong những năm gần
đây. Tuy nhiên, vẫn còn những lĩnh vực tồn tại sự bất bình đẳng và cần cải thiệ
n. Đó là
trường hợp của nhóm trẻ em yếu thế như trẻ em sống trong các cộng đồng nghèo nhất,
trẻ em người dân tộc Khơ me hoặc những trẻ em bị bỏ lại nhà vì bố mẹ di cư đi làm xa
nhà và cả những lĩnh vực như giáo dục trung học, suy dinh dưỡng ở trẻ em, trẻ em sống
chung với HIV/AIDS, nước sạch và vệ sinh môi trường, bảo trợ xã hội và bảo vệ trẻ em.
Chúng tôi mong muốn báo cáo Phân tích Tình hình này sẽ là tài liệu tham khảo cho tỉnh
An Giang trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện các Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã
hội, kế hoạch ngành của tỉnh và là tài liệu tham khảo của các đối tác phát triển đang hoạt
động ở tỉnh và cho cộng đồng nói chung.
vi

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Mục lục
Lời cảm ơn ii
Lời nói đầu iii
Danh mục Hình vi
Danh mục Bản đồ vii
Danh mục các Khung vii
Danh mục Bảng vii
Từ viết tắt ix
Tóm lược báo cáo và các khuyến nghị chính 1
Những phát hiện chính của nghiên cứu 2
Những kiến nghị chính cho Kế hoạch Phát triển KT-XH của tỉnh
và của các ngành giai đoạn 2011-2015 18
1. Giới thiệu 27
1.1 Câu hỏi và mục đích nghiên cứu 27
1.2 Khung phân tích và phương pháp luận nghiên cứu 27
1.3 Đị
a bàn đi thực tế và những người tham gia nghiên cứu 29
1.4 Những hạn chế của đợt nghiên cứu 30
2. Bối cảnh phát triển 33
2.1 Thực trạng địa lý 33
2.2 Các đặc điểm và xu hướng dân số 34
2.3 Thực trạng và xu hướng đói nghèo 36
2.4 Nền kinh tế địa phương, thu nhập và chi tiêu hộ gia đình 38
2.5 Các hình thái di cư và di biến động của hộ gia đình 40
2.6 Biến đổi khí hậu và các rủi ro về môi trường 44
2.7 Những khác biệt và chênh lệch trong địa bàn tỉnh 45
3. Lập chương trình hoạt động và phân bổ ngân sách cho các vấn đề trẻ em 49
3.1 Ngân sách của tỉnh và chi tiêu trong các ngành xã hội 49
3.2 Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (2006-2010) 51

3.3 Chương trình Mục tiêu Quốc gia 51
3.4 Nguồn vốn cho các chính sách bảo trợ xã hội 54
3.5 Cơ cấu tổ chức và thể chế trong công tác bảo vệ trẻ em 55
3.6 Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, 2001-2010 58
vii
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
4. Y tế và sự sống còn của trẻ em 62
4.1 Khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cho trẻ em 62
4.2 Bảo hiểm y tế cho trẻ em 65
4.3 Chăm sóc sức khỏe sinh sản 67
4.4 HIV/AIDS và trẻ em 71
4.5 Dinh dưỡng và thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em 73
4.6 Cung cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường 77
4.7 Phòng chống tai nạn thương tích trẻ em 83
5. Giáo dục và phát triển ở trẻ em 88
5.1 Ý kiế
n của trẻ em về quyền được giáo dục 88
5.2 Tiền tiểu học và giáo dục sớm cho trẻ em 89
5.3 Giáo dục tiểu học và trung học 90
5.4 Chất lượng học tập và giáo dục 92
5.5 Giáo dục trẻ em dân tộc thiểu số 95
5.6 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc đi học và tốt nghiệp 96
6. Bảo vệ trẻ em 104
6.1 Những quan ngại của trẻ em về quyền đượ
c bảo vệ của mình 104
6.2 Những vấn đề cơ bản trong quyền được bảo vệ của trẻ em 105
6.3 Đăng ký khai sinh 106
6.4 Trẻ em cần bảo vệ đặc biệt 106
6.5 Việc làm và lao động trẻ em 111
6.6 Buôn bán phụ nữ và trẻ em 113

6.7 Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS 114
6.8 Lạm dụng trẻ em và bạo lực học đường 116
6.9 Trẻ em vi phạm pháp luật 117
6.10 Phát triển hệ thống công tác xã hộ
i 117
7. Sự tham gia của trẻ em 121
7.1 Định nghĩa về sự tham gia của trẻ em 121
7.2 Ý kiến của trẻ em về quyền được tham gia 122
7.3 Giới và sự tham gia 122
7.4 Cơ hội vui chơi, giải trí và học tập ngoài nhà trường cho trẻ em 124
7.5 Các hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức 126
Danh mục các tài liệu nghiên cứu và tham khảo 127
viii
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Danh mục Hình
Hình 1. Khung đánh giá năng lực thể chế 28
Hình 2. Các nguồn thông tin định lượng và định tính 29
Hình 3. Tháp dân số năm 1999 34
Hình 4. Tháp dân số năm 2009 35
Hình 5. Tỉ lệ nghèo trẻ em các vùng theo tiêu chí đa chiều và tiền tệ, 2008 38
Hình 6. Thu nhập bình quân theo đầu người theo nhóm thu nhập, cả nước
và An Giang 2008 39
Hình 7. Tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn (2001-2009) 42
Hình 8. Các nguồn thu ngân sách của tỉnh, 2006-2009 49
Hình 9. Chi tiêu ngân sách của các ngành văn hóa, xã hội tỉnh, 2005-2009 50
Hình 10. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh: so sánh số liệu cấp t
ỉnh, khu vực
và trên toàn quốc, 2009 65
Hình 11. Tỷ số giới tính khi sinh: so sánh số liệu cấp tỉnh, khu vực
và trên toàn quốc 2009 70

Hình 12. Người tiêm chích ma túy sử dụng bơm/kim tiêm được phát,
số liệu năm 2006 và 2008 73
Hình 13. Những người tiêm chích ma túy sử dụng bao cao su
với bạn tình thường xuyên, số liệu năm 2006 và 2008 73
Hình 14. Những nguyên nhân và hạn chế về năng lực liên quan
tới suy dinh dưỡng trẻ em ở An Giang 76
Hình 15. Tiếp cận nước hợp vệ sinh: số
liệu so sánh cấp tỉnh,
khu vực và trên toàn quốc, 2009 78
Hình 16. Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh: số liệu so sánh cấp tỉnh,
khu vực và trên toàn quốc, 2009 78
Hình 18. Tỉ lệ phần trăm dân số trên 5 tuổi chưa tốt nghiệp tiểu học, 2009 97
Hình 19. Tỉ lệ phần trăm dân số trên 5 tuổi đã tốt nghiệp trung học cơ sở, 2009 97
Hình 20. Tỉ lệ phần trăm dân số trên 5 tuổi đã tốt nghiệ
p trung học phổ thông, 2009 97
Hình 21. Những yếu tố gây ra việc bỏ học và các hạn chế về năng lực 99
Hình 22. Tỷ lệ phần trăm trẻ em khuyết tật đến trường theo loại khuyết tật, 2009 111
Hình 23. Các vụ lạm dụng trẻ em, 2009 (phần trăm) 116
Hình 24. Các vụ trẻ em vi phạm pháp luật, 2009 (phần trăm) 117
Hình 25. Những yếu tố ảnh hưởng tới thực trạng thiếu điể
m vui chơi giải trí
và hoạt động ngoài trường học cho trẻ em 124
ix
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Danh mục Bản đồ
Bản đồ 1. Tỉ lệ nghèo theo huyện, 2010 (tỉ lệ phần trăm) 36
Bản đồ 2. Tỷ lệ gia đình nông thôn dùng nước hợp vệ sinh theo đơn vị
hành chính huyện 2009 79
Bản đồ 3. Tỉ lệ hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh theo huyện, 2009 81
Danh mục các Khung

Khung số 1. Quỹ Bảo trợ Trẻ em tỉnh 55
Khung số 2. Phong trào mua thẻ bảo hiểm y tế cho những hộ cận nghèo 66
Khung số 3. Những thay đổi tích cực trong cách thức sinh con của
các bà mẹ ở xã Vĩnh Trung 68
Khung số 4. Cấp nước sinh hoạt và vệ sinh ở xã Vĩnh Trung 82
Khung số 5. Học bổng đi học ở nước ngoài cho học sinh dân tộc Chăm 96
Khung số 6. Trẻ mồ côi, lang thang tại các trung tâm bảo trợ xã hộ
i 110
Khung Số 7. Buôn bán trẻ em liên tỉnh và liên quốc gia qua An Giang 114
Danh mục Bảng
Bảng 1. Các địa bàn nghiên cứu 30
Bảng 2. Tỉ lệ nghèo và dân số dân tộc thiểu số theo huyện, 2008-2010 37
Bảng 3. Tỉ lệ nghèo theo tiếp cận đa chiều ở trẻ em theo vùng và khu vực, 2008 37
Bảng 5. Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội của các địa bàn nghiên cứu 46
Bảng 6. Phân bổ vốn trong các Chương trình Mục tiêu Quốc gia, 2006-2010 52
Bảng 7. Nguồn vốn Chương trình MTQG Phòng chống Một số dịch bệnh
Xã hội và HIV/AIDS (2006 đến 2010) 53
Bảng 8. Vốn bảo trợ xã hội phân theo khu vực hành chính, 2007-2010 54
Bảng 9. Trách nhiệm của các ngành trong vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em 59
Bảng 10. Tiến độ thực hiện Chương trình Hành động Quốc gia
vì trẻ em, 2001-2010 60
Bảng 11. Các chỉ tiêu về dân số, sức khỏe sinh sản và tiêm chủng
trẻ em, 2006-2010 64
Bảng 12. Báo cáo chính thức con số và kết quả điều tra các chỉ tiêu
chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ
sinh và trẻ em tại 4 huyện, 2010 69
x
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Bảng 13. Chỉ số HIV/AIDS tại An Giang, 2006-2009 71
Bảng 14. Tỷ lệ phần trăm suy dinh dưỡng ở trẻ em của cả nước,

theo khu vực và trong tỉnh, 2005 & 2010 74
Bảng 15. Tỷ lệ phần trăm trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân theo nhóm tuổi
và theo huyện, 2008 & 2009 75
Bảng 16. Bộ chỉ số cung cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn, 2009 80
Bảng 17. Nguyên nhân gây tai nạn thương tích ở trẻ em, 2009-2010 84
Bảng 18. Tỉ lệ đến trường tiể
u học và trung học, 2006-2010 91
Bảng 19. Kết quả học tập môn Toán và Tiếng Việt của học sinh lớp 5, 2006-2007 95
Bảng 20. Đối tượng và ngân sách bảo trợ xã hội, 2010 108
Bảng 21. Số trẻ em khuyết tật đi học tại trường công lập, 2005-2010 111

xi
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Từ viết tắt
ADB Ngân hàng Phát triển châu Á
AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
CRC Công ước Quyền trẻ em
CTMTQG Chương trình mục tiêu quốc gia
DPLTMC Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
ĐTMSHGĐ (VHLSS) Điều tra mức sống hộ gia đình
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
IDU Sử dụng ma túy thông qua tiêm tĩnh mạch
KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư
KHPTKTXH Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội
LĐTB&XH Lao động, th
ương binh và Xã hội
MICS Điều tra về tình hình phụ nữ và trẻ em
NHTG Ngân hàng thế giới
NS&VSMTNT Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức

PCFP Chương trình tỉnh bạn hữu với trẻ em
PEDC Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn
QLDA Quản lý dự án
TCTK Tổng cục thống kê
UBND Ủy ban nhân dân
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
UNICEF Quỹ nhi đồ
ng Liên hợp quốc
Tỷ giá: 1 US$ = VND 20,800
xii
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
1
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
TÓM LƯỢC BÁO CÁO VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ CHÍNH
1. Đây là nghiên cứu Phân tích Tình hình Trẻ em ở tỉnh An Giang, một tỉnh thuộc Khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long. Mục đích chính của nghiên cứu là cung cấp cho
Chính phủ Việt Nam, cộng đồng phát triển và công chúng thông tin cập nhật về
các vấn đề và ưu tiên của trẻ em trên địa bàn. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này
là: (i) hoàn thiện số liệu thống kê và phân tích tình hình trẻ em trong bối cảnh Phát
triển Kinh tế - Xã hội hiện nay của tỉnh; (ii) xác định những vấn đề liên quan ảnh
hưởng đến nhận thức về quyền trẻ em và thúc đẩy các quyền này; (iii) đưa ra những
khuyến nghị nhằm tăng cường, cải thiện tình hình trẻ em thông qua việc xây dựng
Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (SEDPs) và kế hoạch ngành phù hợp hơn với
vấn đề về trẻ em.
2. Cách tiếp cận phân tích được áp dụng trong nghiên cứu này gồm ba yế
u tố. Thứ
nhất, các vấn đề về trẻ em được phân tích theo các nhóm quyền trẻ em liên quan
tới các lĩnh vực khác nhau của ngành chuyên môn, bao gồm quyền được chăm sóc
sức khỏe, quyền sống còn, phát triển và học tập, quyền được bảo vệ và tham gia.

Đây là những quyền nằm trong định nghĩa về quyền trẻ em trong Công ước quốc
tế về quyền trẻ em và Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam.
Thứ hai, phân tích cấu trúc theo chương trình và ngân sách về các vấn đề trẻ em
trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội của tỉnh và các kế hoạch ngành, giai đoạn
2006-2010 nhằm xác định các khía cạnh đã được thực hiện tương đối tốt và các
khía cạnh chưa đủ nguồn lực và chưa được giải quyết đầy đủ trong các kế hoạch,
chương trình và dịch vụ hiện nay. Thứ ba, nghiên cứu đưa ra đánh giá năng lực thể
chế và đánh giá những hạn chế về năng lực về trách nhiệm và tổ chức thể chế phục
vụ công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
3. Báo cáo gồm sáu chương chính. Sau phần Giới thiệu là Chương 2 mô tả đặc điểm
nổi bật về địa lý, nhân khẩu học, thực trạng đói nghèo và tình hình kinh tế
của tỉnh
An Giang. Trọng tâm mô tả của chương cũng tập trung vào các hình thức di cư
và biến động của hộ gia đình, biến đổi khí hậu và rủi ro môi trường – hai vấn đề
phát triển đang ngày trở nên quan trọng đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) trong những năm tới. Chương này cũng xác định sự bất bình đẳng và tính
dễ bị tổn thương của hộ gia đình trong tỉnh ảnh hưởng tới tình tình trẻ em. Chương
3 phân tích việc lên kế hoạch và chương trình, ngân sách chung của tỉnh trong Kế
hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội hàng năm, việc phân bổ kinh phí cho các Chương
trình Mục tiêu Quốc gia và cơ chế tổ chức và nguồn vốn cho các chương trình,
chính sách về bảo trợ xã hội. Các chương tiếp theo đi sâu phân tích từng ngành và
các nhóm quyền của trẻ em: sức khỏe và sự sống còn của trẻ em (Chương 4), phát
triển và giáo dục (Chương 5), bảo vệ (Chương 6) và tham gia (Chương 7). Các
bảng biểu thống kê được đưa ra trong Phụ lục số 1.
4. Phần Tóm lược báo cáo gồm hai nội dung chính. Phần thứ nhất nêu tóm tắt những
đặc điểm lớn về bối cảnh phát triển kinh tế và xã hội của An Giang cũng như các xu
hướng và vấn đề liên quan tới quyền trẻ em c
ủa từng lĩnh vực. Phần thứ hai là bảng
tóm tắt những đánh giá về hạn chế trong năng lực thể chế và những kiến nghị nhằm
tăng cường việc lồng ghép vấn đề trẻ em trong Kế hoạch Phát triển KT-XH của tỉnh

cũng như của các ngành trong giai đoạn từ 2011 đến 2015. Các con số [đặt trong
ngoặc vuông] để biểu thị những chương, phần trong nội dung chính của báo cáo nơi
trình bày chi tiết cho từng vấn đề được phân tích.
.
2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
Các chỉ tiêu so sánh trên toàn quốc, trong khu vực và của tỉnh
1
Chỉ tiêu An Giang Cả nước
Khu vực
ĐBSCL
Nguồn
Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm (phần trăm) 0,5 1,2 0,6 i) 2009
Dân số dưới 15 tuổi (phần trăm) 24,8 25,0 24,4 i) 2009
Tỷ số giới tính khi sinh (sinh trai trên 100 sinh gái) 113,7 110,5 109,9 i) 2009
Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (Trên 1000 trẻ để sống) 17,0 16,0 13,3 i) 2009
Tỷ lệ đói nghèo 2006 (phần trăm) 9,7 15,5 13,0 ii) 2006
Tỷ lệ đói nghèo 2008 (phần trăm) 8,5 13,4 11,4 ii) 2008
Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng (VND ‘000) 1,064 995 940 ii) 2008
Trẻ em <1 tuổi
được tiêm phòng đầy đủ (phần trăm)
1
91,0 94,0 94,5 iii) 2008
Trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
(phần trăm)
17,5 18,9 18,7 iv) 2009
Trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi
(phần trăm)
29,6 31,9 29,1 iv) 2009
Trạm y tế xã/phường có bác sỹ (phần trăm) 73,0 66,0 80,0 iii) 2008

Trạm y tế xã/phường có nhân viên hộ sinh (phần trăm) 100 93,0 95,5 iii) 2008
Nhiễm HIV tích lũy trong mỗi 100.000 người 321 204,5 168,7 iii) 2008
Hộ nông thôn & thành thị có nước sinh hoạt hợp vệ sinh
(phần trăm)
62,9 86,7 77,9 i) 2009
Hộ nông thôn & thành thị
có nhà tiêu hợp vệ sinh
(phần trăm)
55,3 54,0 42,4 i) 2009
Hộ gia đình có nhà ở kiên cố (phần trăm) 10,9 46,3 8,3 i) 2009
Tỷ lệ học sinh tiểu học đến trường đúng độ tuổi (phần trăm) 92,3 95,5 94,3 i) 2009
Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đến trường đúng độ tuổi
(phần trăm)
64,4 82,6 71,5 i) 2009
Tỷ lệ học sinh THPT đến trường đúng độ tuổi (phần trăm) 33,0 56,7 40,4 i) 2009
Nguồn: (i) Tổng cục Thống kê (2010) Điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam 2009. (ii) Tổng cục Thống kê (2010)Niên giám
Thống kê Việt Nam 2009. (iii) Bộ Y tế (2009) Niên giám Thống kê y tế 2008. (iv) Viên Dinh dưỡng – Hệ thống Giám sát
Dinh dưỡng Quốc gia.
Những phát hiện chính của nghiên cứu
5. Thực trạng trẻ em ở An Giang có mối quan hệ đan xen mật thiết với các đặc điểm và
xu hướng phát triển mang nhiều nét đặc thù riêng của khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long. Những đặc điểm đó bao gồm: (i) tỷ lệ tăng trưởng kinh tế mạnh trong những
năm gần đây đi cùng với những thay đổi cơ cấu kinh tế và tiến trình “đô thị hóa nông
thôn”; (ii) tỷ lệ xuất cư sang các khu vực khác khá cao, đặc biệt là từ các vùng nông
thôn trong tỉnh; (iii) bộ phận dân số ‘di biến động’ khá lớn do di cư lao động và nhiều
hộ tham gia vận chuyển, làm ăn, buôn bán trên sông; (iv) tiềm lực kinh tế nâng lên
cùng với giao thông đi lại phát triển đã làm xuất hiện một số dạng thay đổi hành vi
mới của một bộ phận dân số; (v) áp lực dân số lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên
gia tăng; và (vi) những tổn thương về môi trường do lũ ngập và tác động của biến
đổi khí hậu.

6. Tăng trưởng kinh tế nhanh [Chương 2.4]. Trong những năm gần đây, An Giang
đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế rất đáng kể. Theo Báo cáo Phát triển
1 Tiêm chủng đầy đủ gồm ba loại vắc-xin chống Viêm gan B, Bại liệt, Ho gà, Bạch hầu, Uốn ván và một loại vắc-xin
phòng Lao và Sởi.
3
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
KT-XH của tỉnh, tỷ lệ tăng GDP đạt 14,2 phần trăm năm 2008, tuy các năm tiếp theo
giảm xuống còn 8,7 phần trăm năm 2009 và 10 phần trăm năm 2010 do ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tỉnh An Giang có nhiều thuận lợi về sản xuất nông
nghiệp và là tỉnh dẫn đầu về xuất khẩu lúa gạo và thủy sản. Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của tỉnh
đã tăng vọt đặc biệt nhờ vào sự phát triển nhanh chóng của ngành
nuôi trồng thuỷ sản; giá trị nuôi trồng thủy sản tăng 224 phần trăm từ 772 tỷ đồng
trong năm 2000 lên tới 2.500 tỉ đồng trong năm 2009, với sản lượng hiện tại khoảng
300.000 tấn mỗi năm. Thương mại qua biên giới là một phần quan trọng trong cơ
cấu kinh tế của tỉnh. Trong giai đoạn từ 2006-2010 kim ngạch xuất, nhập khẩu qua
biên giới Campuchia đã đạt 3,9 tỷ đô la Mỹ. Đồng thời, khu vực biên giới này đã trở
thành hành lang buôn lậu hàng hóa cũng như buôn bán phụ nữ và trẻ em và là điểm
nóng về những bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS. Công tác phối, kết hợp qua biên
giới vì thế cũng trở thành vấn đề mấu chốt trong việc chống lại những ảnh hưởng,
tác động xấu của các vấn đề nêu trên đồng thời nâng cao hiệu quả của các hoạt
động liên kết cũng như phát triển kinh tế trong khu vực.
7. Các hộ di cư, di biến động và khả năng dễ bị tổn thương [Chương 2.5]. Cũng
giống như các tỉnh khác trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang có tỷ lệ
xuất cư khá cao. Theo số liệu Điều tra Dân số năm 2009 tỷ
số xuất cư của An Giang
là 55 trên 1000 dân và tỷ suất di cư thuần là âm bốn sáu (-46) trên 1000 dân. Số liệu
về di cư theo kết quả Điều tra 2009 chỉ bao gồm địa bàn cư trú cố định/bán cố định
và dân số từ 5 tuổi trở lên; chính vì thế những số liệu này không đưa ra được bức
tranh đầy đủ về sự di chuyển của dân số hoặc không nêu đầy đủ được thực trạng

của trẻ em trong các gia đình di cư. Các hình thái di cư và di biến động hộ gia đình ở
An Giang khá phức tạp và đa dạng theo từng địa bàn cụ thể. Tuy nhiên có thể liệt kê
một số hình thái di cư phổ biến trong địa bàn nội tỉnh, liên tỉnh/liên khu vực và sự di
chuyển của hộ gia đình có những ảnh hưởng khác nhau tới trẻ em như sau:
• Di chuyển thời gian ngắn theo thời vụ củ
a các hộ gia đình nông thôn đi làm
những công việc nông nghiệp. Đây là những trường hợp cả gia đình đi cùng
nhau trong khoảng thời gian vào vụ thu hoạch, gây ra tình trạng trẻ em bỏ học
tạm thời. Tuy nhiên, khối lượng công việc loại này gần đây đã giảm do việc cơ
khí hóa thu hoạch, dùng máy thay cho sức người.
• Di cư lâu dài của các hộ nông thôn đi làm thuê nông nghiệp ở các tỉnh hoặc khu
vực lân cận.
Ở trường hợp này, thông thường cha mẹ sẽ đi cùng với đứa con
đầu, để lại những trẻ nhỏ cho ông bà hoặc người thân chăm sóc. Hệ quả của
việc đó là những đứa trẻ lớn trong gia đình phải nghỉ học lâu dài và có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến việc chăm sóc và dinh dưỡng cho số trẻ nhỏ phải gửi lại
sống với ông bà hoặc ngườ
i thân.
• Di cư của lao động trẻ tìm việc bán phổ thông trong các khu công nghiệp, khu
đô thị. Trong những năm gần đây tỷ lệ xuất cư khá cao chủ yếu là từ loại hình di
cư lao động này. Trước đây, đối tượng trên chủ yếu là lao động trẻ chưa lập gia
đình người Kinh đi tìm kiếm công việc lao động phổ thông hoặc bán phổ thông
trong các công trình xây dựng, các nhà máy, công xưởng dệt, may hoặc đi giúp
việc cho các hộ gia đình vv Tuy nhiên, thời gian gần đây lượng lao động trẻ
người Khơ me di cư theo loại hình này cũng đã tăng lên. Mặc dù di cư lao động
giúp cho nhiều lao động trẻ có thu nhập từ việc làm nhưng nhiều báo cáo cho
biết, số này lại gặp phải rất nhiều khó khăn khi hòa nhập với cuộc sống xã hội
ở môi trường mới cũng như khi muốn thiết lập cơ sở lâu dài xây dựng một cuộc
sống gia đình và công việc sau này.
4

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
• Lao động di cư trở lại quê nhà. Vấn đề hồi cư – một khía cạnh gắn liền với các
hình thức di cư trên đây – thường không được quan tâm một cách đầy đủ.
Những lý do phải hồi cư thường rất đa dạng và có thể có những tác động tích
cực cũng như tiêu cực đối với những người hồi cư và gia đình của họ. Mối quan
ngại l
ớn nhất của họ khi trở về là ở nông thôn thiếu việc làm thường xuyên và
nguồn thu nhập bị giảm sút.
• Di dân và sơ tán do ngập lũ. Để đối phó với ngập lũ, một bộ phận dân cư phải
sơ tán hoặc di chuyển đến nơi khác, nhất là vào những năm đỉnh lũ dâng cao.
Trẻ em và các hộ nghèo có thể lên các trung tâm đô thị để tránh ngập lũ. Sự
di chuyển theo mùa t
ới các khu vực thành thị là một vấn đề quan trọng đối với
những người phải tìm sinh kế thay thế. Một số hộ phải chuyển đi nơi khác lâu
dài hơn khi bị lũ tàn phá sinh kế cũng như khi việc cứu trợ khắc phục thiên tai
không đủ cho sự phục hồi.
• Quá trình Đô thị hoá. Trong vòng thập niên vừa qua, việc đô thị hóa ở An Giang
đã diễn ra khá mạnh. Từ
năm 2001 đến năm 2009 đã có 5,6 phần trăm tổng
dân số chuyển từ dân số nông thôn sang dân số thành thị, số dân ở nông thôn
giảm từ 77,2 phần trăm xuống còn 71,6 phần trăm. Việc này không hẳn là do
sự di chuyển của dân cư từ các vùng nông thôn ra đô thị trong địa bàn tỉnh, mà
chủ yếu do sự chuyển đổi một số huyện, xã nông thôn thành các địa bàn đô
thị - đây cũng là sự phản ánh thực tế đặc điểm chung quá trình “đô thị hóa nông
thôn” của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Điều đó sẽ đặt ra nhiều thách
thức cho các hộ sống ven đô do những hộ này phải chuyển đổi các hình thức
sinh kế, sản xuất dựa chủ yếu vào nông nghiệp sang cách tạo thu nhập và việc
làm mới.
• Các hộ di biến động dịch vụ vận chuyển, làm ăn, buôn bán trên sông.
Tuy xét

về mặt kỹ thuật đây không thể coi là một dạng di cư, nhưng một phần tương
đối lớn dân số của An Giang hiện đang tham gia vào công việc vận tải và buôn
bán trên sông nước. Không có số liệu chính xác nào về số hộ loại này. Tuy vậy,
cộng đồng dân cư “di biến động” này lại là một bộ phận dân số đặt ra nhiều nhu
cầu và đặc thù riêng biệt. Việc cung cấp dịch vụ xã hội cho nhóm dân cư này
gặp rất nhiều thách thức. Do đặc điểm di chuyển hoặc bán di chuyển, nhiều gia
đình đã không thể đảm bảo cho con đi học đầy đủ và làm cho tỷ lệ bỏ học của
trẻ em ở nhóm dân số này cao hơn những nhóm khác.
8. Theo dõi dân số trong nhóm dân di biến động [Chương 2.5, 3.6 & 6.2]. Chính
quyền địa phương đã và đang gặp khó khăn trong việc theo dõi và nắm bắt thự
c
trạng của trẻ em.Việc thu thập số liệu hành chính cho các mảng số liệu khác nhau
không thể bao quát đầy đủ đối với các nhóm dân cư này do các hộ thường vắng
mặt vào những khi đi thu thập số liệu. Thêm nữa, thiết kế mẫu của các đợt điều tra
chuyên ngành hiếm khi đủ để có thể mang đến những hiểu biết tường tận về các
nhu cầu và hoàn cảnh cụ thể của các nhóm vừa nêu. Việc đó dẫn tới những khoảng
trống về số liệu hiện nay đối với nhiều chỉ tiêu về chăm sóc và bảo vệ trẻ em nói
chung của An Giang. Đây nên đặt là một ưu tiên thực hiện trong công tác giám sát
dân số của Kế hoạch Phát triển KT-XH giai đoạn 2011-2015.
9. Lưu động kinh tế và hành vi gia tăng [Chương 4.1 & 4.3]. Một trong những đặc
điểm quan trọng nh
ất về tình hình kinh tế - xã hội ở An Giang hiện nay là khả năng
lưu động kinh tế của nhiều hộ gia đình đã được nâng cao. Điều này đi cùng với sự
gia tăng về của cải vật chất và sự đa dạng của các hình thức kinh tế cũng như di cư
lao động. Thực tế cho thấy việc đó cũng đồng thời đi cùng với những thay đổi trong
5
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
các hành vi xã hội đặc biệt trong thói quen tìm kiếm dịch vụ y tế và mang trong nó cả
những tác động tiêu cực lẫn tích cực. Có rất nhiều ví dụ về những hành vi thay đổi
tích cực nhất là với vấn đề chăm sóc y tế cho trẻ em cụ thể như việc đến sinh nở tại

các cơ sở y tế, bệnh viện có chuyên môn tốt và đưa trẻ em đi tiêm phòng đầy đủ đã
trở thành thói quen thường nh
ật của hầu hết các gia đình ở An Giang. Đây là một
sự thay đổi lớn về hành vi chăm sóc sức khỏe của cộng đồng xã hội. Tuy nhiên bên
cạnh đó cũng có những ví dụ tiêu cực như sự gia tăng tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
ở An Giang. Theo Điều tra Dân số 2009, tỷ số giới tính khi sinh của An Giang là
113,7 nam trên 100 nữ, cao hơn mức bình quân chung cả nước là 110,5. Tình hình
gia tăng tỷ số giới tính khi sinh trong thập niên qua ở Việt Nam là một mối quan ngại
trên phạm vi toàn quốc, trong đó liên quan tới vấn đề người dân có thể dễ dàng tiếp
cận với công nghệ hiện đại và dịch vụ y tế tư nhân để thực hiện ý muốn lựa chọn
giới tính thai nhi của mình.
10. Dân số trong độ tuổi lao động và việc làm [Chương 2.2 & 5.6]. Trong những
năm gần đây, lực lượng lao động của An Giang đ
ã tăng lên đáng kể và sẽ tiếp tục
gia tăng ở thập niên tới. Việc cung cấp đủ cơ hội dạy nghề và tạo việc làm cho học
sinh, sinh viên mới tốt nghiệp ra trường, cho lực lượng lao động trẻ nhất là từ các
vùng nông thôn hiện đang đặt thành một ưu tiên lớn. Để nâng cao sức cạnh tranh
cho lực lượng lao động ở An Giang trong thời gian tới, chính quyền tỉnh cần ưu tiên
đảm bảo đầy đủ các lớp dạy nghề gắn với tạo việc làm cho số lượng ngày càng gia
tăng các lao động trẻ tuổi và học sinh tốt nghiệp từ các trường phổ thông. Tuy nhiên
nhiều ý kiến trong đợt nghiên cứu cho thấy chất lượng của các chương trình dạy
nghề vẫn còn nhiều hạn chế. Kiến nghị đưa ra ở đây là cần nâng cao lợi ích cho các
doanh nghiệp, công ty tư nhân để họ tham gia trực tiếp vào công tác đào tạo nghề;
gắn nhiều hơn nữa các chương trình dạy nghề và tạo việc làm sau khi tốt nghiệp; và
nâng cao chất lượng của các lớp dạy nghề về phương pháp đào tạo, thời gian đào
đạo cho phù hợp với các đối tượng đi học.
11. Những yếu tố dẫn tới nghèo đói ở trẻ em [Chương 2.3]. Theo Kết quả đ
iều tra
Mức sống Hộ gia đình (VHLSS 2008), 52,8 phần trăm trẻ em khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long thuộc diện đói nghèo theo tiêu chí đa chiều, trong khi đó nếu sử

dụng tiêu chí nghèo tiền tệ con số này chỉ còn 15,5 phần trăm. Đây là tỷ lệ cao thứ
hai trên toàn quốc theo tiêu chí đói nghèo đa chiều ở trẻ em, sau khu vực Tây Bắc
và cao hơn nhiều so với tỷ lệ bình quân chung cả nước, 28,9 phần trăm. Điều tra
Mức sống hộ gia đình cho thấy nghèo ở trẻ em ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
đặc biệt liên quan đến việc thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường. So với các khu
vực khác, tỉ lệ nghèo ở trẻ trong khu vực liên quan đến bảo trợ xã hội, nước sạch và
vệ sinh, nhà ở và giáo dục. Tuy nhiên, tỉ lệ nghèo ở trẻ em liên quan đến y tế ở khu
vực này lại thấp hơn các khu vực khác.
12. Rủi ro môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu [Chương 2.6]. Nền nông
nghiệp của An Giang phụ thuộc vào chu kỳ lũ dòng sông Cửu Long. Lũ vừa là một
phần không thể thiếu trong nền sản xuất nông nghiệp nhưng cũng là yếu tố hàng
năm mang lại nhọc nhằn, vất vả cho các hộ gia đình và cộng đồng nằm trong vùng
ngập lụt. Từ giữa th
ập niên 90, Chính phủ đã đề cao chiến lược “sống chung với
lũ” cho toàn bộ khu vực. Đây là chiến lược tập trung củng cố hệ thống đê, kè và cơ
sở hạ tầng giao thông, cùng với việc xây dựng các cụm, tuyến dân cư vượt lũ tạo
điều kiện sống ổn định cho các cộng đồng chịu nhiều ảnh hưởng. Sau đỉnh lũ lịch sử
năm 2000, chiến lược này đã được tăng cường hơn nữa và việc đầu tư xây dựng
các cụm dân cư mùa lũ đã trở thành một trong những mục tiêu chính trong Phát
triển Kinh tế - Xã hội của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005.
Thập niên vừa qua, tỉnh An Giang cũng đã đầu tư khá lớn cho việc phòng chống lũ
6
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
và giảm nhẹ thiên tai cũng như những nỗ lực quan trọng nhằm bảo vệ trẻ em trong
mùa lũ. Hạn chế tác động của trận lũ lớn đối với con người trong năm 2011 đã thể
hiện kết quả của các biện pháp ứng phó và chiến lược của tỉnh. Tuy nhiên, số người
thiệt mạng, gồm 19 trẻ em vẫn là con số cao và cho thấy cần phải nỗ lự
c hơn nữa.
13. Đồng bằng sông Cửu Long được coi là nơi chịu nhiều ảnh hưởng nhất của biến đổi
khí hậu trong đó bao gồm các vấn đề như nước biến dâng và xâm nhập mặn, lượng

mưa và lưu lượng dòng chảy biến đổi đa dạng. Khả năng tác động tiêu cực tới hoạt
động nông nghiệp là rất lớn. Khả năng tác động tiêu cực tớ
i các hoạt động kinh tế
nông nghiệp là rất lớn. Mặc dù tác động của biến đổi khí hậu lên từng địa bàn trong
khu vực ĐBSCL là khác nhau, song sẽ có một hệ quả giống nhau trong số các tác
động và biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu, đó là: sự gia tăng mức độ di và sơ tán
dân ra khỏi vùng ngập. Trẻ em trong các hộ di cư nói chung và trong các gia đình
chịu ảnh hưởng lũ nói riêng rất dễ bị tổn thương trước các vấn đề sức khỏe, sinh tồn
và cơ hội đến trường.
14. Cần đưa vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu trở thành một phần không thể thiếu
trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của An Giang trong những năm tới. Về mặt
này, theo kiến nghị của Báo cáo gần đây cho Diễn đàn Biến đổi khí hậu khu vực
Đồng bằng sông Cử
u Long, chiến lược ‘sống chung với lũ’ của chính phủ cần được
cụ thể hóa một cách chi tiết và đầy đủ hơn nữa trên thực tế. Như vậy, cần có một
cách tiếp cận tổng hợp để kết nối những nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu về mặt
công nghệ với các hoạt động quy hoạch không gian và quy hoạch phát triển kinh
tế, và bảo trợ Xã Hội đồng thời tăng cường các hệ thống quản lý và khôi phục tài
nguyên thiên nhiên.
15. Những khác biệt, chênh lệch trong địa bàn tỉnh ảnh hưởng tới tình hình trẻ em
[Chương 2.7].Ở một số tỉnh của Việt Nam, sự chênh lệch về thực trạng đói nghèo và
tình hình trẻ em có mối liên hệ rất rõ với các yếu tố về địa lý và dân tộc. Tuy xét theo
mức độ nào đó thực trạng này cũ
ng đúng đối với bối cảnh ở An Giang nhưng nhìn
chung có thể nói sự chênh lệch và khác biệt trong địa bàn của tỉnh không bắt nguồn
nhiều từ yếu tố vị trí địa lý cũng như dân tộc. Mặc dù tỷ lệ đói nghèo của dân số Khơ
me thường cao hơn và thu nhập bình quân đầu người hàng tháng thường thấp hơn
so với các nhóm dân tộc thiểu số khác; người Khơ me vẫn gặp những bất lợi hơn
trong tiếp cận với các dịch vụ xã hội, giáo dục bậc trung học và cơ hội nghề nghiệp
do các rào cản về mặt xã hội và những khó khăn về ngôn ngữ phổ thông vv Tuy

nhiên, ở các chỉ tiêu và xu thế xã hội khác hầu như không có sự chênh lệch giữa
nhóm này với các nhóm dân tộc khác trong địa bàn tỉnh.
16. Những chênh lệch và khác biệt trong địa bàn ảnh hưởng tới tình hình trẻ em ở An
Giang chủ yếu là do yếu tố hoàn cảnh cụ thể của các hộ gia đình và nhóm dân số dễ
bị tổn thương đưa lại. Sự chênh lệch đa chiều đó không liên quan nhiều tới những
yếu tố khác biệt nói chung về địa lý và hành chính mà chủ yếu liên quan tới những
khác biệt đa chiều “vi mô” giữa các hộ gia đình và các địa bàn dân cư/nhóm cộng
đồng. Đây là một thực trạng kinh tế-xã hội vô cùng phức tạp gắn với các đặc điểm
mật độ dân số đông và mức cạnh tranh kinh tế cao ở địa phương. Những yếu tố về
vị trí hộ gia đình, điều kiện sống, tư liệu sản xuất sẽ kết hợp với các yếu tố về tiềm
năng nguồn nhân lực, năng lực kinh tế và vị thế xã hội của hộ gia đình để tạo ra các
dạng thức thuận lợi, bất lợi tương ứng khác nhau. Chính vì thế, nhìn từ góc độ tổng
hợp có thể nói “không gian vật chất” và “không gian kinh tế-xã hội” của mỗi hộ gia
đình là yếu tố quyết định chủ yếu tới thực trạng đời sống và viễn cảnh tương lai của
trẻ em.
7
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
17. Thu ngân sách của tỉnh và chi tiêu trong các ngành xã hội [Chương 3.1 đến
3.3]. An Giang có thế mạnh là cơ sở nguồn thu của địa phương tương đối lớn và đa
dạng. Thu ngân sách tại địa phương chiếm khoảng một nửa tổng thu nhập của tỉnh,
năm 2008 là 2.916 tỷ đồng (49.8 phần trăm); trong khi đó ngân sách hỗ trợ từ trung
ương chỉ chiếm 37,2 phần trăm (2.181 tỷ đồng). Chi tiêu chung của tỉnh đã tăng
thêm 82,5 phần trăm, từ 3.092 tỷ đồng năm 2005 đến 5.643 tỷ đồng năm 2008. Ở
giai đoạn này, chi tiêu của các ngành văn hóa xã hội đã tăng 60,2 phần trăm, từ 854
tỷ đồng năm 2005 đến 1.989 tỷ đồng năm 2008 theo con số sơ bộ (trong đó chi tiêu
cho giáo dục tăng 73 phần trăm và chi tiêu cho y tế, bảo trợ xã hội đều tăng 40 phần
trăm ở mỗi ngành). Về tỷ lệ so với tổng chi tiêu toàn tỉnh, chi tiêu từ các ngành xã
hội giảm từ 27,6 phần trăm năm 2005 xuống còn 24,25 phần trăm năm 2008.
18. Nhờ có nguồn thu tương đối lớn ở địa phương, chính quyền tỉnh An Giang có thể
dành ra một nguồn lực để bổ sung cho việc thực thi các chương trình, chính sách

nâng cao hiệu quả tác động đối với các chỉ tiêu xã hội ở một số ngành, đặc biệt là
thông qua việ
c bổ sung ngân sách thường xuyên cho các hoạt động cung cấp dịch
vụ (vốn sự nghiệp). Ví dụ như năm 2008 ngân sách của tỉnh thu được từ nguồn sổ
xố kiến thiết là 7 phần trăm (402 tỉ đồng). Tuy được nhập vào ngân sách tỉnh nhưng
theo các cán bộ cấp tỉnh cho biết khoảng 70 phần trăm số tiền đó được dành chi
cho y tế và giáo dục.Tỉnh cũng đã sử dụng nguồn thu ngân sách từ địa phương kết
hợp với huy động các nguồn lực khác ngoài xã hội để hỗ trợ cho việc thực hiện các
Chương trình Mục tiêu Quốc gia (NTPs).
19. Các Chương trình MTQG [Chương 3.3]. Chương trình Mục tiêu Quốc gia (NTP)
là một trong những phương tiện chủ yếu qua đó tập trung các chính sách và nguồn
vốn ngân sách để thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội và tăng cường cung
cấp dịch vụ xã hộ
i. Theo số liệu của Sở Tài chính, tổng chi trong các chương trình
MTQG ở An Giang giai đoạn 2006-2010 là 2.289 tỷ đồng. Khoảng 65 phần trăm vốn
của các Chương trình MTQG được huy động từ ‘các nguồn khác’ trong khi đó vốn
từ ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh chỉ chiếm tương ứng là 23,5 phần trăm
và 11,5 phần trăm. Điều đó thể hiện mức đóng góp đáng kể của các nguồn lực ngoài
quốc doanh và của các chính sách xã hội hóa cho nguồn vốn thực hiện các Chương
trình MTQG. Cụ thể như, nguồn đóng góp huy động cho Chương trình về Giảm
nghèo; Chương trình Phòng chống Một số Dịch bệnh Xã hội Nguy hiểm và HIV/AIDS
(với các nguồn huy động xã hội chủ yếu dành cho dự án phòng chống HIV/AIDS)
và Chương trình MTQG về Nước sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn (thông qua
các loại hình đầu tư vào hợp tác xã và doanh nghiệp cấp nước tư nhân).
20. Khả nă
ng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cho trẻ em [Chương 4.1]. Dịch vụ y
tế cho phụ nữ và trẻ em của An Giang trong vòng thập kỷ qua đã có những tiến bộ
đáng khích lệ. Cụ thể, đã có sự thay đổi hành vi đáng kể về đăng ký khai sinh, bảo
hiểm y tế và tiêm chủng cho trẻ em. Đảm bảo tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em
2

đã
trở thành thói quen của các bậc cha mẹ, tác động tích cực lên giảm tỷ lệ mắc bệnh
truyền nhiễm ở trẻ. Tuy vậy, một số bằng chứng cho thấy tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ ở
trẻ em trên thực tế dường như thấp hơn so với con số báo cáo. Theo kết quả một
cuộc điều tra gần đây do Sở Y tế thực hiện dựa trên mẫu điều tra 1.100 hộ gia đình
ở 4 huyện, tỷ lệ trẻ em dưới 24 tháng tuổi được tiêm chủng đầy đủ chỉ đạt 57,2 phần
trăm, thấp hơn nhiều so với con số báo cáo chính thức. Cùng với việc đẩy mạnh
hoàn thành đăng ký khai sinh, công tác cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi
cũng đã được thực hiện tới hầu hết số trẻ em ở lứa tuổi này trong tỉnh. Một thành
tựu tiến bộ nữa đó là việc chăm sóc sức khỏe định kỳ cho học sinh; trong năm 2009,
2 Tiêm chủng mở rộng gồm ba văc-xin phòng bệnh Viêm gan B, bại liệt, ho gà, Bạch hầu, Uốn ván và một văc-xin
phòng Lao và Sởi.
8
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
có 74 phần trăm học sinh trong 93 phần trăm các trường toàn tỉnh được tiến hành
khám định kỳ. Khám và tư vấn về chăm sóc sức khỏe răng miệng cũng được thực
hiện cho 100 phần trăm các trường tiểu học.
21. Chăm sóc sức khỏe sinh sản [Chương 4.3]. Khoảng 69 phần trăm ngân sách của
Chương trình MTQG về Dân số và KHHGĐ được lấy từ ngân sách tỉnh. Tương tự
như vậy, 94 phần trăm ngân sách cho Chương trình MTQG phòng chống Một số
Dịch bệnh Xã hội nguy hiểm và HIV/AIDS đến từ ngân sách địa phương. Điều đó
phản ánh sự tập trung của chính quyền tỉnh An Giang cho công tác KHHGĐ và nâng
cao các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Đổi lại, những thành tựu trên toàn tỉnh
về chăm sóc sức khỏe sinh sản được thể hiện rõ nét qua sự tiến bộ của các chỉ tiêu
tương ứng. Theo nhóm chuyên gia thực hiện nghiên cứu này, đây là một ví dụ rõ
ràng về hiệu quả việc phân bổ nguồn lực từ ngân sách tỉnh bổ sung cho các chương
trình quốc gia, mang lại những kết quả tích cực cho cả hai đối tượng phụ nữ và trẻ
em. Nhiều chỉ tiêu đã thể hiện những tiến bộ trên đây:
• Tỷ lệ phụ nữ được khám thai ba lần tr
ở lên đã đạt từ khoảng 60-70 phần trăm

năm 2006 lên đến trên 95 phần trăm năm 2009 và năm 2010. Kể từ năm 2006,
trên 95 phần trăm các bà mẹ mang thai được tiêm phòng uốn ván và số phụ nữ
mang thai đi xét nghiệm HIV tự nguyện cũng đã tăng lên.
• Toàn bộ các xã, phường đều có nhân viên hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, đồng thời
lực lượng cán bộ này cũng tương đối ổn định; k
ể từ 2006, tỷ lệ phụ nữ sinh con
tại các cơ sở y tế đã tăng lên trên 99 phần trăm; tỷ lệ sinh con tại trạm y tế xã,
phường liên tục giảm từ 23,3 phần trăm năm 2006 xuống 14,6 phần trăm năm
2009. Việc này là do phần lớn số ca sinh hiện nay người dân đều tới các bệnh
viện huyện hoặc tỉnh nơi chất lượng của dịch vụ và cơ sở vật chất tốt hơn.
• Những tiến bộ trên đây được thể hiện rõ trong các số liệu về tỷ lệ tử vong mẹ
liên quan đến thai sản, tỷ lệ này đã giảm đáng kể từ 60 trên 100.000 ca sinh
sống năm 2000 xuống 28 năm 2006 và 20 năm 2009. Hơn thế nữa, những thay
đổi này diễn ra đồng thời ở tất cả các nhóm dân số. Điều đ
ó chứng tỏ rằng các
hoạt động thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, giáo dục thay đổi hành
vi về sức khỏe sinh sản đã được tăng cường, củng cố một cách hiệu quả.
22. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế,
song vẫn còn nhiều ý kiến quan ngại về vấn đề chất lượng. Cuộc đi
ều tra gần đây
của Sở Y tế tại 4 huyện cho thấy chỉ có 63,1 phần trăm phụ nữ mang thai được
khám thai 3 lần trở lên, dao động từ 54,8 phần trăm tại Tịnh Biên đến 72,8 phần
trăm tại Phú Tân. Những con số vừa nêu thấp hơn so với con số do Phòng Y tế
huyện cung cấp. Ngoài ra, chỉ có 19,7 phần trăm phụ nữ có thai được khám thai với
chất lượng đáp ứng đúng theo quy định của Bộ Y tế. Kết quả điều tra trên đây cho
thấy cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa để nâng cao chất lượng cho các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe sinh sản.
23. Có hai nhóm dân số cần được tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản. Thứ
nhất, phụ nữ di cư lao động và phụ nữ trong các hộ di biến động. Theo cán bộ các
c

ấp tỉnh, huyện, có rất nhiều khó khăn để đảm bảo việc kiểm tra sinh nở định kỳ, tiêm
phòng uốn ván cũng như tư vấn sức khỏe sinh sản cho số phụ nữ này. Ưu tiên thứ hai
là nâng cao dịch vụ tư vấn chăm sóc sức khỏe sinh sản và nâng cao nhận thức cho trẻ
vị thành niên và thanh niên mới lớn, cả ngoài xã hội và trong các trường phổ thông.
24. HIV/AIDS [Chương4.4]. HIV/AIDS mới xuấ
t hiện ở An Giang so với các tỉnh khác ở
Việt Nam. Trong giai đoạn đầu của thập kỷ trước, tỉ lệ nhiễm mới HIV và tỷ lệ hiện
9
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
nhiễm HIV ở An Giang là khá cao cao. Trẻ em dưới 16 tuổi chiếm 3,8 phần trăm
ca nhiễm HIV năm 2006 và tỉ lệ này đã tăng lên 4,8 phần trăm năm 2009. Tỉnh đã
có nhiều cố gắng nâng cao ý thức, phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS. Số ca nhiễm
HIV mới đã giảm 50 phần trăm từ 766 người trong năm 2006 xuống còn 388 vào
năm 2009. Tỉ lệ lây nhiễm đã giảm từ 34,6 trên 100.000 dân năm 2006 xuống còn
18,1 vào nă
m 2009. Tỉ lệ nhiễm HIV của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và và công
tác phòng ngừa lây truyền HIV từ mẹ sang con là mối quan tâm lớn của tỉnh này.
An Giang thành công trong việc khuyến khích phụ nữ mang thai đi xét nghiệm HIV
tự nguyện và tập trung giám sát và hướng mục tiêu vào nhóm dân số này và người
hoạt động mại dâm nữ. Cần tiếp tục duy trì những nỗ lực này thông qua việc mở
rộng hoạt động phòng ngừa lây truyền HIV từ mẹ sang con (DPLTMC) ở các cơ sở
y tế. Cần kết hợp với việc tăng cường sự tham gia của nam giới trong hoạt động dự
phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con ở các cơ sở y tế, chăm sóc phụ nữ trước khi
và sau khi sinh.
25. Suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em [Chương 4.5]. Theo Hệ thống Giám sát Dinh
dưỡng Quốc gia, trong vòng thập niên qua An Giang luôn duy trì việc giảm tỷ lệ suy
dinh dưỡng của trẻ em d
ưới 5 tuổi thể nhẹ cân từ 32 phần trăm năm 2000 xuống
24,9 phần trăm năm 2006 và 17 phần trăm năm 2010 vượt hơn so với chỉ tiêu đề ra
của tỉnh là 19 phần trăm cho năm 2010. Tuy nhiên, cũng giống như các tỉnh khác,

tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi vẫn giữ ở mức cao, chỉ giảm nhẹ từ 30 phần trăm
năm 2005 xuống 28,7 phần trăm năm 2010. Con số vừa nêu thể hiện vấn đề lo ngại
trên toàn quốc về tác động đối với vấn đề sức khỏe cũng như kinh tế xã hội của
việc thiếu dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em. Nhìn chung ở các huyện, xã vùng sâu,
vùng dân tộc thiểu số Khơ me và trong các nhóm di biến động tỷ lệ suy dinh dưỡng
thường cao hơn. Số liệu của các huyện cho thấy có nhiều khác biệt về tình hình suy
dinh dưỡng trẻ em trên các địa bàn khác nhau với nhóm trẻ nhỏ dưới 2 tuổi có tỷ lệ
suy dinh dưỡng thấp hơn nhóm trẻ từ 3 - 5 tuổi. Đây là một vấn đề lớn liên quan đến
dinh dưỡng của trẻ lứa tuổi mẫu giáo và bắt đầu tiểu học.
26. Suy dinh dưỡng thể thấp còi gây ra do sự thiếu hụt dinh dưỡng triền miên trong quá
trình mang thai của bà mẹ và khi trẻ còn nhỏ, xuất phát từ cách ăn uống và ch
ăm
sóc thiếu hiểu biết trong đó bao gồm cả việc không cho bú mẹ đầy đủ trong vòng
24 tháng đầu. Những yếu tố khác gây thấp còi được biết tới bao gồm điều kiện vệ
sinh, chất lượng nước sinh hoạt kém và dịch bệnh truyền nhiễm. Vì vậy, suy dinh
dưỡng thể thấp còi là một chỉ số hữu hiệu thể hiện mức độ chất lượng của các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và điều kiện sinh hoạt của đời sống các hộ
gia đình. Cuộc điều tra 1.100 hộ ở An Giang cho thấy chỉ có dưới 10 phần trăm các
bà mẹ cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và 56,7 phần trăm bà
mẹ cho con bú uống bổ sung Vitamin A. Một cuộc điều tra khác tại 3 huyện của An
Giang cho thấy mức độ thiếu dinh dưỡng của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không
cao (19,2 phần trăm), nhưng tỷ lệ này lại khá cao ở phụ nữ độ tuổi từ 15 đến 19
(33,3 phần trăm). Cuộc điều tra này cũng thấy tỷ lệ thiếu sắt của phụ nữ mang thai
khá lớn (46,6 phần trăm), đặc biệt là trong ba tháng cuối của thai kỳ (50,6 phần
trăm), cũng như vậy đối với trẻ em dưới năm tuổi (65,7 phần trăm) nhất là ở Tịnh
Biên (84,4 phần trăm). Chỉ có 58 phần trăm hộ gia đình ở An Giang sử dụng muối
i-ốt cho bữa ăn hàng ngày. Kết quả là, phụ nữ và trẻ em trong tỉnh có nguy cơ thiếu
hụt i-ốt rất cao.
27. Một điểm cần lưu ý là vấn đề suy dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em ở An Giang
không phải do tình trạng thiếu th

ức ăn hàng ngày hoặc không đủ nguồn thực phẩm
dinh dưỡng như ở một số tỉnh khác. Nhiều cán bộ cấp tỉnh và huyện ở An Giang đã
nhận xét mặc dù tỉnh là một trong những nơi sản xuất ra nhiều lúa, gạo, cá và rau
10
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
quả nhưng suy dinh dưỡng vẫn tiếp tục là vấn đề lớn trong địa bàn. Điều đó chứng
tỏ nguyên nhân gốc rễ của vấn đề này nằm ở chất lượng chăm sóc y tế và dinh
dưỡng cho bà mẹ trước và trong khi mang thai, cũng như do thói quen và hành vi
nuôi dưỡng và chăm sóc bà mẹ và trẻ nhỏ. Vấn đề suy dinh dưỡng không chỉ xảy
ra ở các gia đình nghèo vì trên thực tế trẻ em của tất c
ả các loại gia đình thuộc các
nhóm thu nhập khác nhau - lao động cũng như cán bộ, nhân viên - đều gặp vấn đề
về ăn uống và dinh dưỡng. Cha mẹ bận công việc không có thời gian chăm sóc con
thường là một trong những lý do được nêu ra cùng với việc các lớp mẫu giáo chưa
học cả hai buổi ở nhiều nơi cũng như việc thực hiện dự án phòng chống suy dinh
dưỡng còn nhiều khó khăn, hạn chế. Trẻ em của các hộ dân di cư lao động nông
thôn là những đối tượng dễ bị thiếu dinh dưỡng nhất, đặc biệt là những trẻ nhỏ phải
gửi lại cho ông bà, người thân chăm sóc khi cha mẹ đi làm ăn xa.
28. Trong những năm tới, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở An Giang, nhất là tỷ lệ suy dinh dưỡng
thể thấp còi sẽ giảm chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề cải thiệ
n chất lượng
chăm sóc y tế và dinh dưỡng cho phụ nữ trước và trong khi mang thai, cũng như
nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ nhỏ trong hai năm đầu tiên; ví dụ như, phòng
ngừa việc bà mẹ mang thai bị thiếu dinh dưỡng và vi chất, tăng cường thói quen
nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ và cho ăn thực phẩm bổ sung. Những hành vi xã
hội của cha mẹ và cộng đồng như vậy sẽ cần rất nhiều thời gian để thay đổi. Để
giải quyết những khó khăn với các đặc điểm mới nêu trên trong bối cảnh kinh tế - xã
hội hiện tại, kiến nghị đưa ra ở đây là cần tăng cường quy mô, nội dung các chương
trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em trong kế hoạch của ngành y tế. Theo Sở Y
tế, hiện nay số trẻ béo phì đang gia tăng ở một số bộ phận dân số; vấn đề này cho

tới nay chưa có những biện pháp giải quyết cụ thể, tuy nhiên nó cần được đưa vào
trong hoạt động của các chương trình dinh dưỡng. Chỉ riêng ngành Y tế sẽ không
thể đủ sức đối phó với vấn đề của toàn bộ cộng đồng xã hội này, vì vậy việc phối kết
hợp với ngành có liên quan, các cơ quan đoàn thể và các phương tiện thông tin đại
chúng là rất cần thiết.
29. Cung cấp nước [Chương 4.6]. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, 62,9 phần
trăm hộ gia đình ở nông thôn và thành thị ở An Giang được tiếp cận với nước sạch;
tỉ lệ này thấp hơn so với mức trung bình trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
(77,9 phần trăm) và mức trung bình trên toàn quốc (86,7 phần trăm). Số liệu báo cáo
của tỉnh cho biết tính đến năm 2009, 61,64 phần trăm người dân nông thôn được
tiếp cận với hệ thống cung cấp nước sạch, trong khi 44,34 phần trăm người dân
sử dụng nước sạch theo đúng tiêu chuẩn chất lượng của Bộ Y tế. Tỉ lệ người dân
nông thôn dùng nước sạch cao nhất là ở Tịnh Biên (58 phần trăm), Tân Châu (67,1
phần trăm) và Châu Đốc (81,1 phần trăm). Ở Châu Thành, Chợ Mới và Thoại Sơn
tỉ lệ này thấp hơn, lần lượt là 27,5 phần trăm, 29,3 phần trăm và 30,2 phần trăm.
Chất lượng nước là vấn đề lớn ở ba huyện này –72 phần trăm xã nông thôn của ba
huyện này chưa có đến 25 phần trăm người dân được sử dụng nước có chất lượng
phù hợp.
30. Vệ sinh môi trường [Chương 4.6]. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, 55,3
phần trăm hộ gia đình ở nông thôn và thành thị ở An Giang có nhà tiêu hợp v
ệ sinh,
cao hơn mức trung bình ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (42,4 phần trăm) và
cao hơn chút ít so với mức trung bình cả nước (54 phần trăm). Số liệu báo cáo của
tỉnh cho biết tính đến năm 2009, 46,08 phần trăm hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ
sinh, với tỉ lệ từ 34.5 phần trăm ở An Phú đến 56,8 phần trăm ở Thoại Sơn và 82,46
phần trăm hộ gia đình có nhiều loại nhà tiêu khác nhau. Vệ sinh môi trường ở các hộ
gia đình đã được cải thiện thông qua sự hỗ trợ phối hợp nhịp nhàng của Trung tâm y
tế dự phòng, Hội Phụ nữ và Trung tâm quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn nhằm nâng cao ý thức vệ sinh môi trường và thúc đẩy sử dụng nhà tiêu
11

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
hợp vệ sinh thông qua phát triển công nghệ và kế hoạch tín dụng. Nhiều kiểu nhà
tiêu đã được áp dụng tùy theo điều kiện nhà cửa trong khu vực, bao gồm nhà tiêu
phù hợp với vùng ngập lụt và nhà sàn dọc bờ kênh. Ở trường học, việc cung cấp
nước và cơ sở vệ sinh đã được cải thiện rất nhiều. Tính đến năm 2009, 86,7 phần
trăm trường công cải tạo cơ sở v
ệ sinh tuy nhiên khả năng vận hành và duy trì vẫn
là thách thức lớn.
31. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, ở An Giang có 37,1 phần trăm trẻ dưới 5
tuổi chưa được tiếp cận nước sạch (khiến An Giang xếp hạng 14 trong số 63 tỉnh
thành). Đồng thời, 44,7 phần trăm trẻ em chưa được tiếp cận với vệ sinh môi trường
(khiến An Giang xếp hạng 45 trong số 63 tỉnh thành). Khoảng 17,5 phần tr
ăm người
dân nông thôn (76.000 người) vẫn chưa có nhà tiêu nên đi tiêu tự do ở sông, kênh
rạch hoặc cánh đồng. Hành động này gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường, ảnh
hưởng đến sức khỏe người dân. Do đó, mọi nỗ lực và sáng kiến thúc đẩy vệ sinh
môi trường cần hướng mục tiêu vào nhóm dân cư này.
32. Phòng chống tai nạn thương tích trẻ em [Chương 4.7]. Nguyên nhân chính của
tai nạn, thương tích trẻ em là do: tai nạn giao thông (37 phần trăm), tiế
p sau đến bị
ngã (27.5 phần trăm) và tai nạn lao động (6 phần trăm). Mạng lưới sông ngòi chằng
chịt và ngập lụt thường xuyên ở An Giang là mối nguy hiểm lớn cho trẻ nhỏ. Sau
đợt lũ lịch sử của năm 2000 và 2001, tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp bảo vệ trẻ
em khỏi những hiểm họa này trong đó bao gồm một chương trình dạy bơi tập trung
cho trẻ em lứa tuổi tiểu học và xây dựng các điểm giữ trẻ mùa lũ. Tuy đuối nước là
một trong những nguyên nhân phổ biến gây tử vong ở trẻ em của Đồng bằng sông
Cửu Long, nhưng tại An Giang đây không phải là vấn đề lớn nhờ có những biện
pháp phòng ngừa hiệu quả trên đây. Các biện pháp phòng ngừa nói trên cần được
tiếp tục duy trì nhằm đảm bảo rằng tất cả thế hệ trẻ em đều có những kỹ năng cần
thiết cũng như nơi chốn an toàn để đối phó với ngập lụt. Trên một bình diện khác,

an toàn giao thông cho trẻ em là vấn đề quan ngại lớn ở An Giang. Số lượng các
vụ tai nạn và tử vong do tai nạn giao thông ở An Giang vẫn chưa giảm nhiều trong
thời gian qua bất chấp những nỗ lực tuyên truyền, giáo dục và xử lý vi phạm. Để giải
quyết vấn đề bức xúc toàn xã hội trên đây, cần phải có những nỗ lực mạnh mẽ hơn
trong việc khuyến khích thay đổi hành vi của bản thân các bậc cha mẹ cũng như
mọi thành phần trong xã hội kết hợp với theo dõi, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện
những quy định, pháp luật về an toàn giao thông. Cần có sự phối hợp ở các cấp để
giải quyết vấn đề này.
33. Một điểm đáng lưu ý là 5,2 phần trăm nguyên nhân có liên quan tới các vụ hành
hung, bạo lực, với tỷ lệ tăng từ 3,1 phần trăm ở nhóm tuổi 5-14 lên 9,3 phần trăm
ở nhóm tuổi 15-19. Số liệu báo cáo về tình hình tự tử cũng khá cao trong độ tuổi vị
thành niên từ 15-19 (4,8 phần trăm), phần lớn là các em nam. Đây là một vấn đề
đáng quan ngại. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm đã không có
điều kiện để tìm
hiểu thêm về những bối cảnh cụ thể đằng sau các con số thống kê này. Tuy nhiên,
một kiến nghị đưa ra ở đây là cần tiến hành một nghiên cứu xem xét sâu hơn và tìm
hiểu xem các nhóm trẻ em nào dễ bị tổn thương nhất cũng như những nguyên nhân
gây ra tình trạng nói trên. Đặc biệt, cần tập trung xem xét mức độ liên quan đến các
vấn đề trẻ em bắt nạt nhau ở trường và bạo lực học đường. Trong công tác xây
dựng và phát triển mạng lưới nghề công tác xã hội ở An Giang, cần tăng cường tập
trung cho việc cung cấp các dịch vụ tư vấn cho trẻ em và lứa tuổi vị thành niên cũng
như thanh niên mới lớn.
34. Giáo dục mầm non [Chương 5.2]. Khả năng đến lớp mẫu giáo và số lượng trẻ 5
tuổi ra lớp đã tăng đáng k
ể trong vòng thập niên qua ở tất cả các nhóm dân số của
12
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
An Giang, trong đó bao gồm cả trẻ em thuộc các nhóm dân tộc thiểu số tại các thôn,
xã vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi ra lớp mẫu giáo đã tăng từ 26,8 phần trăm
năm 2000, lên 67,5 phần trăm năm 2005 và 91,8 phần trăm vào năm 2010, thấp hơn

một chút so với mục tiêu của tỉnh đề ra cho năm 2010 - 95 phần trăm. Tuy nhiên, tỷ
lệ các lớp mẫu giáo học 2 buổi hiện mới chỉ đạt kho
ảng 16 phần trăm và tỷ lệ các
cháu đi nhà trẻ mới chỉ đạt 5,5 phần trăm vào năm 2009. Tại nhiều xã, các lớp mẫu
giáo phải dùng chung cơ sở vật chất của trường tiểu học.
35. Một trong những ưu tiên chính của ngành giáo dục trong giai đoạn phát triển KT-XH
tới (2011 đến 2015) là phổ cập bậc học mầm non theo Quyết định 239/2010/
QĐ-TTg, trong đó bao gồm tăng tỷ l
ệ học sinh học hai buổi cho các lớp mẫu giáo.
Cần giải quyết ba vấn đề lớn để có thể hoàn thành được mục tiêu này. Thứ nhất,
mạng lưới cơ sở trường lớp hiện vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu – cần đầu tư tăng
gấp đôi số phòng học và cung cấp các trang thiết bị, đồ dùng cần thiết. Thứ hai,
nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non. Thứ ba, cần có các
chính sách hỗ trợ đầu tư và phát triển đội ngũ giáo viên và khuyến khích khu vực tư
nhân đầu tư thành lập các trường mầm non mới, nhất là các lớp nhà trẻ.
36. Giáo dục tiểu học và trung học [Chương 5.3, 5.4. & 5.5]. Những năm vừa qua,
công tác giáo dục tiểu học và trung học tiếp tục có nhiều bước tiến bộ, trong đó phải
kể đế
n: (i) việc đầu tư tăng cường, củng cố hệ thống cơ sở vật chất trường lớp; (ii)
tỷ lệ học sinh đến trường liên tục gia tăng nhất là ở bậc tiểu học; (iii) hoàn thành và
tiếp tục duy trì phổ cập trung học cơ sở ở hầu hết các địa phương; (iv) đội ngũ giáo
viên nhìn chung được đảm bảo đầy đủ đáp ứng cả về số lượng lẫn chất lượng; (v)
trang thiết bị và đồ dùng, dụng cụ phục vụ giảng dạy được cung cấp đầy đủ và tốt
hơn; và (vi) sự hợp tác, hỗ trợ của cha mẹ học sinh đã được nâng lên nhất là đối với
các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Chính quyền tỉnh và Sở Giáo dục & Đào
tạo đã tập trung nhiều nỗ lực nhằm cải tiến chất lượng công tác quản lý giáo dục
cũng như nâng cao chất lượng giảng dạy.Tuy vậy, tỷ lệ các trường tiểu học và trung
học cơ sở đạt chuẩn quốc gia ở An Giang vẫn thấp hơn so với mức bình quân trong
khu vực và trên cả nước. Điều đó cho thấy, vẫn tiếp tục cần có sự đầu tư hơn nữa
để nâng cao cả cơ sở vật chất, hạ tầng trường học cũng như chất lượng giáo dục

trên địa bàn.
37. Nhiều tiến bộ đã đạt được trong việc hạn chế tỷ lệ trẻ em bỏ học các cấp tiểu học và
trung học cơ sở những năm vừa qua. Mặc dù vậy, cũng giống như các tỉnh khác ở
ĐBSCL đây vẫn tiếp tục là một v
ấn đề gặp nhiều khó khăn ở An Giang. Số liệu Điều
Tra Dân số 2009 cho thấy khoảng một phần tư (25,9 phần trăm) trẻ em ở độ tuổi 5
đến 15 bỏ học. Tuy tỷ lệ bỏ học các lớp cấp một nhìn chung không chênh lệch nhau
giữa các khu vực nông thôn và thành thị, song tỷ lệ bỏ học các lớp cấp hai và cấp
ba ở khu vực nông thôn lại cao hơn rất nhiều. Tỷ lệ bỏ học ở các vùng chủ yếu phụ
thuộc vào nhận thức của cha mẹ cũng như điều kiện kinh tế của hộ gia đình.
38. Tỷ lệ cân bằng giới trong số học sinh đến trường bậc tiểu học và trung học cơ sở có
mức độ tương ứng gần sát với tỷ lệ giới trong tổng số dân toàn tỉnh. Ở b
ậc trung học
phổ thông, tỷ số giữa học sinh nam và nữ cách xa nhau hơn (46,4 phần trăm nam và
53,6 phần trăm nữ). Cuộc điều tra Dân số 2009 cũng khẳng định tỷ lệ đi học đúng độ
tuổi của học sinh nữ bậc trung học phổ thông (36,3 phần trăm) cao hơn so với nam
(29,9 phần trăm). Điều này cho thấy lượng bỏ học của trẻ vị thành niên nam có thể
cao hơn vị thành niên nữ trên thực tế. Đây là một vấn đề đáng quan ngại. Tỷ lệ học
sinh dân tộc thiểu số giảm dần từ bậc tiểu học lên trung học - trong ba năm học từ
2007-2008 đến 2009-2010, học sinh dân tộc thiểu số chiếm 5,5 phần trăm tổng số
học sinh tiểu học và 4,6 phần trăm trung học cơ sở, riêng bậc trung học phổ thông tỷ
13
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
lệ này chỉ chiếm 2,8 phần trăm. Đây là con số thể hiện tình trạng chung ít đi học bậc
trung học của trẻ em dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ em vị thành niên người Khơ me.
39. Giáo dục và đào tạo cho người dân [Chương 5.6]. Cũng giống như các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long khác, số liệu Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy An
Giang đang phải
đối mặt với những thách thức to lớn trong việc giáo dục cho dân số
lớn tuổi trên địa bàn của mình. Trong tất cả các chỉ tiêu về hoàn thành giáo dục cho

dân số tuổi trên 15, An Giang đứng ở vị trí thấp so với các tỉnh khác. Theo cuộc Điều
tra 2009, ở An Giang có gần 32 phần trăm dân số lứa tuổi trên 15 chưa hoàn thành
tiểu học – đây là con số cao nhất trên toàn quốc, gấp đôi so với mức bình quân cả
nước, 14.5 phần trăm. Chỉ có 14,3 phần trăm dân số độ tuổi trên 15 tốt nghiệp trung
học cơ sở - thấp nhất trên toàn quốc và chỉ bằng một nửa so với số bình quân chung
cả nước là 28,9 phần trăm. Tương tự như vậy, chỉ có 5,7 phần trăm hoàn thành bậc
trung học phổ thông và lại một lần nữa bằng nửa con số bình quân trên toàn quốc
12 phần trăm. Theo số liệu Điều tra Dân số 2009, hiện chỉ có 1,8 phần trăm dân số
trên 15 tuổi ở An Giang tốt nghiệp các trường dạy nghề.
40. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tốt nghiệp và kết quả giáo dục [Chương 5.6].
Trong tất cả các chỉ tiêu về ‘trình độ học vấn cao nhất đạt được của dân số 5 tuổi
trở lên’, An Giang đứng ở vị trí thấp so với các t
ỉnh trong khu vực và trên toàn quốc.
Theo cuộc Điều tra 2009, ở An Giang có 37 phần trăm dân số lứa tuổi trên 5 chưa
hoàn thành tiểu học – đây là con số cao nhất trên toàn quốc, cao hơn nhiều so với
mức bình quân cả nước: 22,7 phần trăm. Chỉ có 11,8 phần trăm dân số độ tuổi trên
5 tốt nghiệp trung học cơ sở - thấp thứ hai trên toàn quốc và chỉ bằng một nửa so
với số bình quân chung cả nước là 23,7 phần trăm. Tương tự như vậy, chỉ có 9,5
phần trăm số này hoàn thành bậc trung học phổ thông, thấp hơn con số bình quân
trong khu vực (14,3 phần trăm) và bằng một nửa con số bình quân trên toàn quốc –
20,8 phần trăm.
41. Đợt nghiên cứu đã tìm hiểu và xác định nhiều loại nguyên nhân gây ra tình trạng bỏ
học cao của trẻ em ở An Giang. Những nguyên nhân đó bao gồm nhu cầu bắt trẻ
phải lao độ
ng giúp đỡ gia đình hoặc kiếm tiền, hoàn cảnh gia đình nghèo, lực học
yếu, rào cản ngôn ngữ, thiếu các tấm gương thành đạt từ việc học hành, ảnh hưởng
xấu từ bạn bè đồng lứa, tác động tiêu cực của lối sống hiện đại. Nhiều nguyên nhân
nêu trên bắt nguồn từ các yếu tố chủ quan trong đó gắn với chất lượng của việc dạy
và h
ọc. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân xuất phát từ ngay chính cấu trúc

nền kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và trong quan điểm của người dân
về việc giáo dục và học hành. Chính vì thế, cần phải có một chiến lược lâu dài để
giải quyết những nguyên nhân đó. Cụ thể như triển khai đồng bộ các nỗ lực, thực
hiện thắng lợi mục tiêu phổ cập giáo dục mầ
m non để tạo tiền đề xây dựng một ‘văn
hóa đi học’ cho trẻ em các thế hệ tiếp sau và việc này nên được đặt là ưu tiên cao
nhất trong giai đoạn phát triển KT-XH tới.
42. Cơ cấu tổ chức và thể chế trong công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em [Chương
3.5 & 6.2]. Chính quyền tỉnh An Giang đã tập trung nhiều nỗ lực để đẩy mạnh cơ
sở pháp lý và các tổ chứ
c bộ máy, thể chế cho vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
Những nỗ lực có thể kể đến bao gồm các hoạt động nâng cao quyền của trẻ em
như tăng cường đăng ký khai sinh. Với việc giải thể Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ
em năm 2008, trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong công tác bảo vệ và
chăm sóc trẻ em đã được phân công lại. Nhìn chung các cơ quan cấp tỉnh, huyện đã
nhận thức và nắm rõ cơ chế tổ chức mới cũng như các trách nhiệm và vai trò của
mình trong công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tỉnh cũng đã có các bước bổ sung
nguồn nhân lực để đảm bảo duy trì tốt hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em tại các
14
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẺ EM TỈNH AN GIANG
xã/phường sau khi chuyển đổi, tách nhập, nhất là việc tiếp tục duy trì vị trí cán bộ
Gia đình và Trẻ em (ở 156 xã phường) sử dụng nguồn ngân sách của tỉnh.
43. Điều phối liên ngành trong chăm sóc trẻ em [Chương 3.5 & 6.2]. Nhiều cơ chế
hợp tác và điều phối liên ngành có hiệu quả đã được thiết lập xung quanh một số
vấn đề quan trọng về bảo vệ trẻ em, như
: (i) đăng ký khai sinh; (ii) phòng chống đuối
nước; (iii) buôn bán phụ nữ và trẻ em; (iv) khuyến học; và (v) vệ sinh môi trường
và vệ sinh hộ gia đình. Tuy nhiên, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác phối, kết hợp liên
ngành cho một số vấn đề khác như: (i) phòng chống tai nạn thương tích trẻ em, nhất
là vấn đề an toàn giao thông; và (ii) triển khai một phương pháp tiếp cận sâu, rộng

hơn trong các hoạt động về dinh dưỡng trong đó bao gồm việc đưa các mục tiêu về
dinh dưỡng trẻ em vào trong chiến lược phổ cập giáo dục mầm non.
44. Độ bao phủ và những khoảng trống số liệu trong các chỉ tiêu về bảo vệ trẻ em
[Chương 6.2]. Số liệu hành chính về bảo vệ trẻ em ở An Giang tương đối có đầy đủ
(cụ thể như số liệu về khai sinh, số trẻ em được hỗ trợ theo các chính sách bảo tr

xã hội vv ). Nhưng mặt khác các số liệu về tình hình bảo vệ trẻ em ngoài cộng đồng
lại rất thiếu (ví dụ như số liệu về số trẻ em lao động, trẻ em nghiện ma túy, trẻ em
mồ côi, lang thang trên địa bàn toàn tỉnh ) khiến khó nắm bắt được số trẻ em cần
bảo vệ đặc biệt đã thực sự nhận được hỗ trợ này. Một trong nhữ
ng lý do của việc
này là An Giang có một bộ phận dân số di biến động khá lớn, việc theo dõi thường
xuyên số dân này là cực kỳ khó khăn. Sở LĐTB&XH có kế hoạch triển khai một đợt
khảo sát số liệu cơ bản về trẻ em trên toàn tỉnh trong năm 2012, đây là cơ hội đặt ưu
tiên cao cho việc giám sát dân số cơ bản ở tỉnh.
45. Đăng ký khai sinh [Chương 6.2].Trong vài năm qua đã có rất nhi
ều tiến bộ trong
việc đăng ký khai sinh cho trẻ em. Trong tổng số 210.000 trẻ em được đăng ký khai
sinh giữa năm 2006 và 2010, 48 phần trăm được đăng ký đúng hạn (trong vòng 60
ngày sau khi sinh) so với 20 phần trăm của năm năm trước đó. Nhìn chung, khoảng
95 phần trăm trẻ em được khai sinh khi đến 5 tuổi, đáp ứng mục tiêu của tỉnh đề ra
cho Chương trình Hành động Quốc gia vì trẻ em. Có thể nói đây là một thành công
đáng kể. Tỉnh đã có nhiều nỗ lực để giải quyết tình trạng tồn đọng khai sinh cho
trẻ em thông qua việc tổ chức các đội đăng ký khai sinh lưu động đi xuống các xã
trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận trẻ em bị khai sinh chậm dọc
theo các khu vực biên giới nơi người Khơ me sinh sống. Một mặt tích cực nữa của
những thành quả trong công tác đăng ký khai sinh cho trẻ em đó là nó đã đẩy nhanh
tiến độ cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ.
46. Trẻ em khuyết tật [Chương 6.3]. Theo số liệu do Sở GD&ĐT cung cấp, An Giang có
khoảng 5.000 trẻ khuyết tật (CWD) trong năm 2009-2010, trong khi đó Sở LĐTB&XH

lại báo cáo con số thấp hơn – 1.900 em. Sự chênh lệch số liệu nói trên là do khác
biệt trong định nghĩa khuyết tật và các tiêu chí mà mỗi ngành sử dụng. Một đợt điều
tra ti
ến hành tại hai huyện Phú Tân và An Phú đối với 6000 hộ gia đình và 22.000
trẻ em dưới 16 tuổi cho thấy có 2 phần trăm trẻ em nhóm tuổi nói trên bị khuyết tật.
Tuy nhiên, thực trạng tình hình trẻ em khuyết tật trên toàn bộ địa bàn tỉnh vẫn chưa
có sự hiểu biết đầy đủ.Theo Nghị định 67/2007/ND-CP và Nghị định 13/2010/ND-CP
về chính sách cho các đối tượng bảo trợ xã hội, số lượng các gia đình có trẻ em bị
khuyết tật được hỗ trợ tài chính đã tăng lên. Tuy nhiên không có số liệu về tổng tỷ lệ
trẻ em khuyết tật được nhận trợ cấp so với tổng số trẻ em khuyết tật đủ điều kiện để
nhận hỗ trợ. Đây là một hạn chế trong công tác xác định đối tượng hỗ trợ của Nghị
định 13. Cần làm rõ thêm các tiêu chí xác định đối tượng hỗ trợ đối với người bị tàn
tật ở cấp quốc gia.

×