Thuyết minh về 1 loài hoa
Mai vàng là một loại hoa mai có hoa màu vàng, khác với các loại hoa mai ở
Trung Quốc, hay nhắc đến trong thi ca cổ là có màu trắng. Trên thế giới có ít nhất là
50 loài mai vàng phân bố rải rác ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, song chủ yếu
tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Á và châu Phi.
Mai và đào chính ra cùng dòng họ, nhưng về sau các nhà thực vật học nghiệm
thấy đào (peach) hay mơ (apricot), mận (plum hay prune) và anh đào (cherry) là loại
ra quả, nên tách riêng dòng họ mai ra. Mai có nhiều màu như: hoàng mai, hồng mai,
và bạch mai. Ở Việt Nam người ta gọi hồng mai là hoa đào hay mơ, nở hoa dịp đầu
xuân.
Về loại mai vàng tại miền nam có nhiều. Nếu như hoa đào, chi mai là đặc sản
của miền bắc vào ngày tết, thì hoa mai vàng lại là đặc sản của miền nam. Mai vàng
thuộc họ hoàng mai, là một loại cây rừng. Cây mai vàng cũng rụng lá vào mùa Ðông,
thân, cành mềm mại hơn cành đào. Hoa mai vàng mọc thành chùm và có cuống dài
treo lơ lửng bên cành, ở nách vệt cuống lá và hơi thưa. Hoa màu vàng, có mùi thơm, e
ấp và kín đáo. Mai vàng còn có giống sau khi cho hoa còn kết quả màu đỏ nhạt bóng
như ngọc, là mai tứ quí và nhị độ mai.
Mai trồng để lấy hoa vào dịp tết Nguyên đán được trồng từ hạt hay triết cành.
Có thể trồng mai vàng ngoài vườn, vào bồn hay vào chậu đều được. Mai ưa ánh sáng
và đất ẩm. Người miền Nam thường chơi hoa mai vàng vào những ngày tết. Còn
giống hoa nước gọi là mai chiếu thủy, cây lá nhỏ, hoa nhỏ mọc chùm trắng và thơm,
thường trồng vào núi đá non bộ, ra hoa mùa xuân, cây và cành được uốn tỉa lại thành
cây thế.
Mai Tứ quý là một loại hoa mai vàng nhưng sau khi rụng cánh hoa còn lại đài
hoa đỏ và hạt xanh (khi chín hạt sẽ chuyển thành màu đen), chính vì vậy loài mai này
còn có tên là Nhị độ mai tức Mai nở hai lần.
Mai vàng nhiều cánh
Là loại mai vàng có nhiều cánh do lai tạo hoặc chọn lọc tự nhiên, những loài
này luôn có hoa nhiều hơn 9 cánh, không giống như mai vàng năm cánh truyền thống
tỉnh thoảng có những bông nhiều hơn 5 cánh.
thuyết minh về danh lam :
chùa Một Cột nằm ở phố chùa Một Cột , thuộc quận Ba Đình , bên phải lăng
Chủ tịch HCM , xây dựng năm 1049.Đây là 1 cụm kiến trúc , gồm ngôi chùa và tòa
đài xây giữa hồ vuông.
Cả cụm có tên là chùa Diên Hựu và đài Liên Hoa , đài này lâu nay quen gọi là
Chùa Một Cột- hình vuông , mỗi bề 3m, mái cong , dựng trên cột đá hình trụ , cột có
đường kính 1.20m , cao 4m ( chưa kể phần chìm dưới đất)đỡ 1 hệ thống ~ thanh gỗ
tạo thành bộ khung sườn kiên cố , đỡ cho ngôi nhà dựng bên trên như 1 đóa sen vươn
thẳng trên khu ao hình vuông có lan can bằng gạch bao quanh. Từ bên ngoài có lối
nhỏ bằng gạch đi qua ao , đến 1 chiếc thang xinh xắn dẫn lên Phật đài. Trên cửa Phật
đài có biển đề:" Liên Hoa Đài"(đài hoa sen) hgi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lí
Thái Tông dẫn tới việc xây chùa. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép:"Lí Thái
tông(1028-1054)chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen , vua cũng đc. dắt
lên toà. Khi tỉnh giấc , vua đem việc ấy hỏi các quan Có ng` khuyên vua làm chùa ,
dựng cột đá ở giữa ao , làm tòa sen của Phật đặt trên cột đá như đã thấy trong mộng ,
để các sư chạy đàn , tụng kinh cầu cho vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (
kéo dài cõi phúc). Chưa rõ qui mô của chùa vào thời điểm đó như thế nào , chứ qui
mô của Liên Hoa Đài thì có 1 tấm bia cổ có ghi lại:' Đào hồ Linh Chiều, giữa hồ vọt
lên 1 cột đá , đỉnh cột nở đóa hoa sen nghìn cánh trên hoa sen dựng tòa điện màu xnah
đặt pho tượng Quan Âm.Vòng quanh hồ là dãy hành lang . LẠi đào ao Bích Trì , mỗi
bên đều có cầu vồng bắc để đi qua. Phía sân cầu đằng trước , 2 bên tả hữu xây tháp
lưu li". Như vậy thì qui mô Liên Hoa ĐÀi thời Lí to hơn bây giờ nhiều , cả ~ bộ phậnn
hợp thành và hình dạng cũng phong phú hơn.
Thực tế , cụm chùa Một Cột đã qua nhiều lần sửa chữa. này 11-9-2954 trước
khi rút, quân đội Pháp còn cho nổ mìn phá hủy Liên hoa Đài. Khi quân đội ta về tiếp
quản thủ đô HN , Chính Phủ đã hco làm lại như cũ và đến tháng 4-1955 thì hoàn
thành. Cạnh chùa còn có 1 cây bồ đề do Tổng thống Ấn độ Pra- xát tặng Chủ tịch
HCM trong dịp Người sang thăm nước này. Chùa Một Cột đã đc. Bộ Văn hÓa xếp
hạng di tích lịch sử , nghệ thuật , kiến trúc ngày 28-4-1962.