Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Đề tài: THỰC TRẠNG TỘI PHẠM LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HỒNG LĨNH - TỈNH HÀ TĨNH, NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.13 KB, 107 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

THỰC TRẠNG TỘI PHẠM LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRÊN
ĐỊA BÀN THỊ XÃ HỒNG LĨNH - TỈNH HÀ TĨNH, NGUYÊN
NHÂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP
(GIAI ĐOẠN 2001 – 2008)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
CÔNG TÁC XÃ HỘI
HUẾ, 5/2009
1
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VTN: Vị thành niên
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
CTXH: Công tác xã hội
UBND: Ủy ban nhân dân
CA: Công an
NVXH: nhân viên xã hội
TNCS: Thanh niên cộng sản
TNTP: Thiếu niên tiền phong
CSĐT: Cảnh sát điều tra
PVS: Phỏng vấn sâu
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thong
2
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng số 1: Thống kê các vụ VTN phạm tội qua các năm từ 2001 đến 2008


Bảng số 2: Thống kê tội phạm VTN từ năm 2001 đến 2008
Bảng số 3: Hoàn cảnh gia đình tội phạm ở lứa tuổi VTN tại thị xã Hồng Lĩnh -
Hà Tĩnh.
Biểu đồ 1: Tình hinh tội phạm VTN ở Hồng Lĩnh từ năm 2001 đến 2008.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ trình độ học vấn của tội phạm VTN trên địa bàn Hồng Lĩnh.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ giới tính của tội phạm VTN.
Biểu đồ 4: Độ tuổi của tội phạm VTN.
Biểu đồ 5: Thành phần xuất thân của tội phạm VTN.
3
Khoá luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
M UỞĐẦ 5
1. Tính c p thi t c a t iấ ế ủ đề à 5
4
Khoá luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nữa thế kỷ giành và giữ độc lập Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đặc
biệt đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, công
tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật được xem là vấn đề căn bản và có
ý nghĩa chiến lược trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của pháp luật xã
hội chủ nghĩa và coi đó là điều kiện cần thiết, nhằm đảm bảo sự phát triển kinh
tế - văn hóa - xã hội… Là điều kiện quan trọng để tiến hành thắng lợi cách
mạng ở nước ta.
Cùng với sự hội nhập và phát triển thì hiện nay đang đặt ra cho nước ta rất
nhiều cơ hội và thách thức đặc biệt là trên lĩnh vực an ninh quốc phòng tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng và có những chuyển biến phức tạp thủ đoạn
ngày càng tinh vi và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Hiện nay bên cạnh

những đối tượng phạm tội là người lớn thì vị thành niên (VTN) ngày càng tham
gia nhiều vào các hoạt động phạm tội với mức độ và tính chất ngày càng nguy
hiểm cho xã hội. Các vụ án do VTN thực hiện không chỉ xảy ra ở thành thị mà
còn ở cả các vùng nông thôn, miền núi vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Nếu như trước đây các loại tội phạm mà trẻ VTN mắc phải thường
là trộm cắp vặt, gây rối, đánh nhau không gây nguy hiểm lớn, thì gần đây mức
độ phạm tội lại nguy hiểm hơn và vượt quá giới hạn của tuổi vị thành niên như
đánh nhau có vũ khí, hình thành băng cướp, trộm cắp tài sản lớn. Thậm chí
hiếp dâm, giết người, cướp của, mua bán, sử dụng chất ma tuý…
Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội của Bộ
Công an: Năm 2006 có 7.000 vụ đối tượng phạm tội ở độ tuổi dưới 14 tuổi,
chiếm 70% tội phạm vị thành niên. Năm 2007, số vụ phạm pháp hình sự do
người chưa thành niên vi phạm có giảm 1% so với năm 2006, nhưng mức độ
5
Khoá luận tốt nghiệp
phạm tội lại nghiêm trọng hơn nhiều. Năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008,
riêng trẻ em dưới 16 tuổi có 7.000 vụ vi phạm, chiếm đến 70% tội phạm VTN
dưới 18 tuổi. Công an các địa phương đã khởi tố điều tra 8.531 vụ với 11.732
đối tượng ở tất cả các tội danh này. Xử lý hành chính lên tới 35.463 vụ với
48.187 đối tượng; trong đó giao cho gia đình giáo dục 21.484 đối tượng, xã
phường quản lý, giáo dục 8.892 đối tượng, lập hồ sơ đưa đi trường giáo dục
5.616 đối tượng, áp dụng các biện pháp khác 11.677 đối tượng.
Riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ, với 9.000 em (tăng 2% số
vụ). Số vụ án do người chưa thành niên gây ra chiếm khoảng 20% tổng số vụ vi
phạm hình sự, là một con số rất lớn. Tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%; cố ý
gây thương tích chiếm 11% và đặc biệt là giết người chiếm 1,4%. Trong đó, lứa
tuổi phạm tội cao nhất từ 16 đến dưới 18 tuổi, chiếm khoảng 60%; từ 14 đến
dưới 16 tuổi là 32% và dưới 14 tuổi là 8%.
Như vậy để thấy được rằng VTN phạm tội là một vấn đề lớn của xã hội vì
VTN là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực lớn cho đất nước, là sức sống hiện

tại và tương lai của mỗi quốc gia. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ
là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề chiến lược mà Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã căn
dặn: “ Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm
sóc, giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng , toàn dân. Công tác đó
phải làm kiên trì, bền bỉ… Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người,
mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu cho tốt.”
[28,tr.467-468].
Thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm, chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Cùng với sự phát triển của đất nước,
đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ rệt, từ đó trẻ em nói chung
và người ở tuổi VTN nói riêng cũng được quan tâm giáo dục tốt hơn. Đặc biệt
6
Khoá luận tốt nghiệp
từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vấn đề này càng được coi trọng.
Thế nhưng những biến đổi sâu sắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
đang diễn ra đối với mỗi gia đình, nên đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
trẻ VTN. Nhiều em thất học do gia đình nghèo, nhiều em phải lao động cực
nhọc trong môi trường đầy bất trắc để kiếm sống vì thế có không ít em đã sa
vào con đường phạm tội.
Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh là một trong hai vùng kinh tế trọng điểm của
tỉnh Hà Tĩnh. Những năm gần đây đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đời
sống của nhân dân ngày một tăng cao. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường là những mặt trái của nó đã khiến cho tình hình an ninh trật
tự trên địa bàn ngày càng phức tạp. Đặc biệt do các đặc điểm về tự nhiên cũng
như đời sống xã hội, thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh là nơi tập trung nhiều loại tệ
nạn xã hội khác nhau như : cờ bạc, buôn bán và vận chuyển ma túy, trộm cắp,
hiếp dâm… Mà trong đó lứa tuổi VTN chiếm tỷ lệ ngày càng tăng và nguy cơ
phạm tội ngày càng cao. Vậy nhưng trước tình hình đó công tác ngăn chặn và

phòng ngừa loại tội phạm này lại chưa được chú trọng, việc tuyên truyền pháp
luật sâu rộng trong quần chúng nhân dân không hiệu quả và chưa được quan
tâm đúng mức. Chính vì vậy, hiện tượng tội phạm ở tuổi VTN tại địa bàn thị xã
Hồng Lĩnh là một trong những vấn đề bức xúc cần được quan tâm.
Để ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm ở lứa tuổi VTN tại thị xã Hồng Lĩnh
- Hà Tĩnh, một vấn đề cấp bách được đặt ra là cần phải nghiên cứu, phân tích
sâu sắc tình hình tội phạm ở lứa tuổi VTN, tìm hiểu những nguyên nhân làm
phát sinh tội phạm, trên cơ sở đó khuyến nghị những giải pháp góp phần hạn
chế, ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm nói chung và tội phạm ở lứa tuổi VTN nói
riêng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế tri thức có vị trí,
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, đổi mới đất nước thì việc đào tạo
bồi dưỡng thế hệ trẻ lại cần hơn bao giờ hết. Mặt khác chúng ta biết rằng VTN
7
Khoá luận tốt nghiệp
là giai đoạn phát triển quan trọng để hình thành nhân cách của con người vì vậy
mà VTN tham gia vào các hoạt động phạm tội sẽ là mầm họa của xã hội nếu
không ngăn chặn kịp thời.
Từ thực tế trên tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: Thực trạng tội phạm lứa
tuổi vị thanh niên trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh- Hà Tĩnh, nguyên nhân và các
giải pháp” (Từ năm 2001 đến năm 2008).
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Theo quan điểm của các nhà tội phạm học trên thế giới, việc nghiên cứu
hiện tượng tội phạm có từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người nhưng nghiên
cứu tội phạm với tư cách là một ngành khoa học độc lập thì có từ… 150 năm
trước đây , khi mà chủ nghĩa tư bản đến giai đoạn phát triển và tội phạm trở
thành nổi kinh hoàng của xã hội loài người. Ngay từ khi ra đời, việc nghiên cứu
tội phạm cũng đã hình thành những hướng tiếp cận khác nhau.
Trong xã hội hiện đại, vấn đề tội phạm ở tuổi VTN cũng vốn là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: Tội phạm học, tâm lý học, xã hội
học… Dưới góc độ xã hội học, vấn đề tội phạm (lệch lạc) đã được nhiều nhà xã

hội học quan tâm nghiên cứu và lý giải theo nhiều cách khác nhau, như: Emile
Durkhiem, với tác phẩm Tự tử nổi tiếng, ông cho rằng: Sự lệch lạc là: “Một
trạng thái bị mất sự điều chỉnh bình thường, do người nào đó không hội nhập
được vào xã hội vì các nhu cầu của anh ta không khớp với các khả năng mà xã
hội có thể cung cấp cho anh ta để thỏa mãn các nhu cầu đó” [11, tr.45]. Travis
Hirschi, trong tác phẩm các nguyên nhân của tội phạm thì giải thích rằng: “ Sở
dĩ người ta ít có hành vi sai lệch là do bị “ràng buộc xã hội”. Tức là do người
ta quá tin tưởng vào các giá trị xã hội hiện hành, do đó cố gắng bám theo các
mục tiêu và lao vào các hoạt động được chấp nhận cho nên làm cho họ phải
gắn bó với môi trường xung quanh (cha mẹ, bạn bè, nhà trường…) và chính
môi trường xung quanh đó đã “ràng buộc” họ tránh những hành vi sai lệch”
[25, tr.14].
8
Khoá luận tốt nghiệp
Những năm cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ, các loại hình văn hóa đồi trụy, độc hại cũng phát triển tràn lan, nhiều nhà
xã hội học Mỹ như: P.Sorokin, Taft, Taylor,… “đã cố chứng minh rằng: nạn
ma túy, tự tử và tội phạm là kết quả tất yếu của sự phát triển ngày càng nhanh
của khoa học kỹ thuật. Mức độ công nghiệp hóa, tự do lợi nhuận đã phá vỡ
quan hệ nhân đạo giữa người với người” [15,tr.7],… Nói chung, việc nghiên
cứu hiện tượng lệch chuẩn và tội phạm, là những vấn đề thu hút rất nhiều sự
quan tâm của các nhà khoa học đặc biệt là các nhà xã hội học và tội phạm học.
Ở nước ta, nhằm góp phần hiến kế cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật trong việc phòng chống tội
phạm nói chung và phòng chống tội phạm VTN nói riêng, trong những năm
qua, nhiều nhà khoa học đã có sự quan tâm đặc biệt trong việc nghiên cứu lĩnh
vực này. Nhiều công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học về tội phạm ở
tuổi VTN đã được công bố trên các tạp chí, như: Xã hội học, tâm lý học, tội
phạm học… Nhiều kiến nghị của các nhà khoa học về các chính sách pháp luật
và việc phòng chống tội phạm ở lứa tuổi VTN đã được quan tâm.

Trong những năm qua, nhiều sinh viên các trường đại học, nhiều học viên
cao học và nghiên cứu sinh các trường đại học và viện nghiên cứu cũng đã
chọn đối tượng tội phạm ở tuổi VTN làm đề tài nghiên cứu. Dưới góc độ tội
phạm học, bằng phương pháp phân tích số liệu thống kê tội phạm qua các năm,
đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm VTN đã được công bố như:
Năm 1981, trong luận án phó tiến sĩ luật học với đề tài: Nghiên cứu và
phòng ngừa tội phạm của những người chưa thành niên ở Việt Nam, tác giả
Đào Trí Úc đã đánh giá tình hình tội phạm ở tuổi VTN của Việt Nam, làm rõ
cơ cấu về lứa tuổi, về giới và về địa lý tội phạm,… Phân tích các nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm, nhân thân những người phạm tội và mối liên hệ giữa
các yếu tố môi trường với quá trình hình thành nhân cách và hành vi; Các biện
pháp tổ chức phòng ngừa tội phạm.
9
Khoá luận tốt nghiệp
Sau đó đề tài Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội của tập thể tác
giả Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1987). Năm 1994, Viện khoa học hình sự
nay thuộc Bộ Nội Vụ (nay là Bộ Công an) công bố đề tài: Về luận cứ khoa học
– thực tiển cho việc phòng ngừa tội phạm trong thanh thiếu niên ở nước ta và
Tổng cục cảnh sát nhân dân (thuộc Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an) đã công bố
đề tài KX.04.14 về tội phạm ở Việt Nam – thực trạng – nguyên nhân và giải
pháp. Bằng phương pháp phân tích tài liệu thống kê, đề tài đã mô tả phân tích
thực trạng tội phạm, phân tích nguyên nhân làm nảy sinh các loại tội phạm
trong đó có tội phạm VTN và đề xuất một số biện pháp trong đấu tranh phòng
chống tội phạm trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Trong luận án tiến sĩ luật học năm 2000 với đề tài: Hoạt động của lực
lượng công an nhân dân trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội
trong tình hình hiện nay, tác giả Đỗ Bá Cở cũng dưới góc độ tiếp cận theo
hướng tội phạm học, sử dụng phương pháp thống kê, làm rõ khái niệm người
chưa thành niên phạm tội và người chưa thành niên làm trái pháp luật; Đưa ra
lý luận về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa người chưa thành

niên phạm tội nói riêng; Làm rõ vai trò nòng cốt của lực lượng công an trong
việc phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội,…
Ở một hướng tiếp cận khác, dưới góc độ tiếp cận xã hội học, trong những
năm qua đã có một số tác giả và công trình nghiên cứu về tội phạm đã được
công bố, như: Năm 2002, trong luận án tiến sĩ xã hội học với đề tài: Nguồn gốc
xã hội của tình trạng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên hiện nay ở
Việt Nam, tác giả Hồ Diệu Thúy đã đi sâu vào nghiên cứu những ảnh hưởng
của xã hội tới những người chưa thành niên, nghiên cứu những hành vi phạm
tội của họ dưới góc độ xã hội học.
Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu khá công phu đã được công
bố như: Tổng quan về những vấn đề xã hội của VTN của Viện nghiên cứu Thanh
niên, Thanh thiếu niên phạm pháp – dự báo năm 2000 của tác giả Châu Diệu Ái (đề
10
Khoá luận tốt nghiệp
tài khoa học KX-04-14); Năm 2004 với đề tài: Tội phạm VTN tại thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa), tác giả Phạm Đình Chi đã đi sâu phân tích thực trạng, nguyên nhân của tình
hình tội phạm VTN tại một địa bàn cụ thể (Thành phố Hồ Chí Minh), tác giả cũng
đã đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế tội phạm VTN trên địa bàn… Những công
trình nghiên cứu đó đã đóng góp không nhỏ, làm cơ sở nền tảng trong việc nghiên
cứu tội phạm VTN ở Việt Nam đồng thời tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế tình
hình tội phạm nói chung và tội phạm VTN nói riêng.
Nói chung tình hình nghiên cứu tội phạm ở tuổi VTN có rất nhiều nhưng đi
sâu nghiên cứu tội phạm ở lứa tuổi VTN tại một địa bàn cụ thể thì chưa được
quan tâm nhiều và hiện nay trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh cũng chưa
có đề tài nào nghiên cứu về đối tượng này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mô tả, phân tích thực trạng tội phạm ở tuổi VTN trên địa bàn thị xã Hồng
Lĩnh - Hà Tĩnh

- Phân tích những nguyên nhân chủ yếu, những yếu tố chính tác động đến
tội phạm ở tuổi VTN ở trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh từ nhiều góc độ
(cá nhân, gia đình, nhà trường, xã hội …)
- Đề xuất một số giải pháp và đề xuất một số khuyến nghị giúp cơ quan
chức năng hạn chế loại tội phạm này.
- Đưa ra vai trò của công tác xã hội (CTXH) đối với tội phạm ở lứa tuổi
VTN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu trên thì khóa luận cần tiến hành một số nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Phân tích cơ cấu, tính chất, đặc điểm… của tình hình tội phạm ở lứa tuổi
VTN trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh.
11
Khoá luận tốt nghiệp
- Trên cơ sở tiếp cận về văn hóa, kinh tế, dịch vụ xã hội làm rõ những
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm ở lứa tuổi VTN.
- Đánh giá tình hình tội phạm VTN trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh và công
tác phòng chống loại tội phạm này.
- Dự báo tình hình tội phạm ở tuổi VTN tại thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh
trong những năm tới, khuyến nghị giải pháp cơ bản và tăng cường vai trò của
CTXH nhằm hạn chế loại tội phạm này.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng tội phạm lứa tuổi vị thanh niên trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh-
Hà Tĩnh, nguyên nhân và các giải pháp” (Từ năm 2001 đến năm 2008).
4.2. Khách thể nghiên cứu
“Những hành vi phạm tội do người ở tuổi vị thành niên thực hiện tại thị xã
Hồng Lĩnh từ năm 2001 đến 2008”, đã bị Tòa án nhân dân (TAND) Hồng Lĩnh
và TAND Tỉnh Hà Tĩnh xét xử bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật và bị
xem là tội phạm.

4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Phạm vi không gian (địa bàn nghiên cứu): Đề tài nghiên cứu những hành
vi phạm tội do người ở tuổi vị thành niên thực hiện từ năm 2001 đến 2008 trên địa
bàn thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh. Những hành vi phạm tội đã được công an thị xã
Hồng Lĩnh và công an tỉnh Hà Tĩnh khởi tố điều tra; Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) thị xã Hồng Lĩnh và VKSND Tỉnh Hà Tĩnh truy tố; Và được TAND thị
xã Hồng Lĩnh và TAND tỉnh Hà Tĩnh đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Theo điều 72 hiến pháp quy định: “không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[21, tr 40], do vậy
khóa luận chỉ nghiên cứu những đối tượng khi phạm tội ở tuổi vị thành niên, đã
được tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh hoặc TAND tỉnh Hà Tĩnh đưa ra xét xử và
tuyên án là có tội. Đối với những người ở tuổi vị thành niên đã và đang cư ngụ tại
12
Khoá luận tốt nghiệp
thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh nhưng thực hiện tội phạm ở các huyện, tỉnh, thành
phố khác thì không thuộc đối tượng nghiên cứu của khóa luận này.
4.3.2. Phạm vi thời gian: Giới hạn thời gian nghiên cứu của khóa luận: Khóa
luận nghiên cứu những người ở tuổi VTN đã thực hiện hành vi phạm tội tại thị
xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh khi chưa quá 18 tuổi và đã bị xét xử theo quy định của
pháp luật từ năm 2001 đến 2008 (Mặc dù khi đưa ra xét xử và thi hành án, có
một số tội phạm ở tuổi vị thành niên này đã là người trưởng thành).
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tội phạm là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội như:
Luật học, tội phạm học, tâm lý học, xã hội học… vì vậy mà để có phương pháp
nghiên cứu khoa học khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà cụ thể là triết học Mác - Lênin bao gồm: Triết học duy vật biện
chứng và triết học duy vật lịch sử, nó là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình
nghiên cứu của khóa luận.
Nghiên cứu đề tài này, khóa luận được xây dựng dựa trên cơ sở cách tiếp cận

hệ thống nhìn nhận đối tượng nghiên cứu như một chỉnh thể, một thể thống nhất
của mối quan hệ tương tác với môi trường xung quanh, chúng ta biết rằng tội phạm
là một hiện tượng xã hội có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong được tạo nên
bởi nhiều yếu tố do vậy khi nghiên cứu nó phải xem xét từ nhiều khía cạnh vì một
kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Tội phạm nói chung và tội phạm ở lứa
tuổi vị thành niên nói riêng có tính chất lịch sử cụ thể, có nguồn gốc phát sinh từ xã
hội, có mối quan hệ phổ biến và sự phát triển, nó là kết quả từ những nguyên nhân
kinh tế - văn hóa - xã hội trong một xã hội cụ thể, tại một thời gian xã hội nhất
định… Chính vì vậy mà khi nghiên cứu tội phạm nói chung và tội phạm ở lứa tuổi
vị thành niên nói riêng phải đặt nó trong bối cảnh xã hội nhất định.
13
Khoá luận tốt nghiệp
5.2. Phương pháp hệ
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
phương pháp có thể tiến hành nghiên cứu này là: Phân tích tài liệu sẳn có,
phỏng vấn sâu cá nhân, quan sát, điều tra … Tuy nhiên do tính đặc thù của đề
tài, ở đây tôi chỉ sử dụng hai phương chủ yếu dưới đây để làm sáng tỏ mục đích
nghiên cứu của khóa luận.
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích những tài liệu sẵn có gồm: Số liệu xét xử tội phạm nói chung và
tội phạm ở tuổi vị thành niên nói riêng được TAND thị xã Hồng Lĩnh và
TAND tỉnh Hà Tĩnh xét xử qua các năm (từ 2001 đến 2008). Các báo cáo tổng
kết hàng năm của ngành tòa án, ngành kiểm sát, ngành công an ở thị xã Hồng
Lĩnh - Hà Tĩnh (từ 20001 đến 2008); Các báo cáo chuyên đề về phòng chống
tội phạm; Các bản tài liệu và pháp luật liên quan; Các cáo trạng truy tố các đối
tượng là người ở tuổi vị thành niên phạm tội ra tòa bị xét xử theo quy định của
pháp luật (2001 đến 2008) và các bài báo đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Tiến hành phỏng vấn sâu tổng cộng là 30 đối tượng, bao gồm:

- Thực hiện 10 cuộc phỏng vấn sâu đối với 10 đối tượng tội phạm vị thành
niên tại thị xã Hồng Lĩnh đang bị giam giữ, cải tạo tại trại giam Cầu Đông (do
công an tỉnh Hà Tĩnh quản lý và giáo dục).
- Phỏng vấn 5 người là cha mẹ của các phạm nhân là người trực tiếp chăm
sóc các đối tượng tội phạm vị thành niên trước khi các em phạm tội.
- Phỏng vấn 3 thầy cô giáo làm công tác quản lý và giảng dạy (Gồm: 01 hiệu
trưởng trường cấp III; 01 hiệu trưởng trường cấp II; 01 thầy cô giáo trường cấp III)
- Phỏng vấn chánh văn phòng UBND thị xã, Phỏng vấn bí thư thị Đoàn
Hồng Lĩnh, Viện trưởng VKSND, 01 thẩm phán, 01 giám thị trại giam và
trưởng công an thị, 06 công an các phường, xã.
14
Khoá luận tốt nghiệp
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Tình hình VTN vi phạm pháp luật đặc biệt là VTN phạm tội ngày càng
tăng trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh với tính chất và mức độ ngày
càng nguy hiểm cho xã hội.
- Công tác phòng chống và xử lý loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn
từ phía gia đình, nhà trường, xã hội.
- Mối quan hệ giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục VTN
đang còn nhiều bất cập và thiếu sót.
- VTN đang có nhưng hiểu biết hạn chế về pháp luật và chưa nhìn nhận
đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội.
- Vai trò của các tổ chức xã hội nói chung và công tác xã hội nói riêng trên
địa bàn Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh còn thiếu hoặc chưa thể hiện được hết vai trò của
mình.
7. Khung lý thuyết
15
TỘI PHẠM VỊ THÀNH NIÊN
Gia đình, nhà trường,
nhóm bạn bè,…

Kinh tế, văn hóa, xã hội,
truyền thông,…
Các giải pháp và CTXH
đối với tội phạm VTN trên
địa bàn thị xã Hồng Lĩnh –
Hà Tĩnh
Khoá luận tốt nghiệp
8. Ý nghĩa của đề tài
8.1. Ý nghĩa lý luận
Cùng với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội thì tội phạm xuất
hiện ngày càng nhiều. Hiện nay tội phạm nói chung và tội phạm VTN nói riêng
đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, việc nghiên cứu về
đối tượng này đã có từ rất sớm nhưng nhìn nhận nó dưới góc độ xã hội học và
CTXH thì chỉ mới xuất hiện gần đây và đang còn rất mới mẽ, đặc biệt là với
CTXH đây là một ngành khoa học mới hình thành ở Việt Nam. Chính vì vậy
mà khi nghiên cứu đề tài “ Thực trạng tội phạm lứa tuổi VTN trên địa bàn thị
xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh, nguyên nhân, các giải pháp” khóa luận sẽ góp phần bổ
sung lý luận, củng cố và phát triển thêm một số hiểu biết về xã hội học, CTXH
về vấn đề tội phạm ở lứa tuổi VTN.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận đã đi sâu nghiên cứu phân tích, mô tả thực trạng tội phạm và
những đối tượng phạm tội ở lứa tuổi VTN tại địa bàn thị xã Hồng Lĩnh - Hà
Tĩnh. Qua đó góp phần tìm hiểu các điều kiện và nguyên nhân phát sinh tội
phạm để từ đó có những đánh giá chính xác đồng thời đề xuất những khuyến
nghị và giải pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm VTN nói riêng.
Góp phần giúp cho các cấp ủy, chính quyền, cơ quan bảo vệ pháp luật và
các đoàn thể trong hệ thống chính trị có cách nhìn toàn diện về thực trạng công
tác đấu tranh phòng chống VTN phạm tội ở thị xã Hồng Lĩnh, từ đó có những
giải pháp đồng bộ trong công tác phòng chống VTN phạm tội và giúp VTN
phạm tội hòa nhập cộng đồng, góp phần tích cực vào việc giáo dục và đào tạo

thế hệ trẻ, giữ vững trật tự ổn định an toàn xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng quê hương,
đất nước.
Không những vậy còn góp phần quan trọng trong việc tạo mối quan hệ gắn
kết giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục con cái đặc biệt là
16
Khoá luận tốt nghiệp
giáo dục trẻ VTN những chủ nhân tương lai của Đất nước, làm cho thị xã Hồng
Lĩnh ngày càng phát triển và ổn định về mọi mặt.
9. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được trình bày 92 trang.
Bố cục khóa luận gồm: Phần mở đầu, phần nội dung với 3 chương.
phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần mở đầu gồm: 13 trang.
Phần nội dung: 72 trang.
Chương 1: 21 trang.
Chương 2: 39 trang.
Chương 3: 12 trang.
Phần kết luận: 8 trang.

17
Khoá luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU TỘI PHẠM Ở TUỔI
VỊ THÀNH NIÊN
Tội phạm vốn là một hiện tượng xã hội rất phức tạp, do vậy để nghiên cứu
hiện tượng tội phạm ở tuổi VTN hiện nay, điều cần thiết là phải dựa trên các
khái niệm khoa học, lựa chọn các lý thuyết tiếp cận phù hợp với thực tiễn tình
hình tại thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh. Trên cở sở đó thì tội phạm ở lứa tuổi VTN

trên địa bàn Hồng Lĩnh mới được phân tích, đánh giá một cách khoa học, đầy
đủ và chính xác.
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tội phạm
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin có công lao khám phá ra quy luật khách
quan của tiến trình phát triển xã hội. Đó là cơ sở khoa học cho nhận thức quá
trình phát triển của các hiện tượng xã hội trong đó có hiện tượng tội phạm.
Ngay trong tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ
quy luật phát sinh, phát triển chủ yếu của tội phạm trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội phạm và nguyên nhân của nó
được giải thích một cách khoa học như là hiện tượng vốn có trong xã hội có
giai cấp đối kháng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề ra tư tưởng cho rằng phương
hướng cơ bản của cuộc đấu tranh tội phạm là phòng ngừa tội phạm, và “Nhà
làm luật thông thái bao giờ cũng làm tất cả để phòng ngừa tội phạm chứ không
để tội phạm xảy ra rồi mới trừng phạt’’ [26,tr.75]. Những quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về tội phạm và nguyên nhân của chúng trong xã hội xã
hội chủ nghĩa đã được V.I.Lênin phát triển một cách toàn diện. Lênin chỉ ra
khâu quyết định của việc phòng ngừa tội phạm là phải xác định được các
nguyên nhân và đề ra các biện pháp xóa bỏ các nguyên nhân đó. Trong tác
18
Khoá luận tốt nghiệp
phẩm “Nhà nước và cách mạng’’, Lênin chỉ rõ: “Nguyên nhân xã hội sâu xa
của những hành động quá lạm vào quy tắc của cuộc sống chung là sự bóc lột
quần chúng, sự nghèo đói và sự bần cùng của chúng. Một khi gạt bỏ được
nguyên nhân chủ yếu ấy thì những hành động quá lạm tất nhiên sẽ bắt đầu tiêu
vong’’ [26,tr.76]. Lênin đã đưa ra quan điểm tổng hợp và đặc biệt chú ý xây
dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội phạm. Theo Lênin,
việc phát hiện tội phạm và áp dụng hình phạt kịp thời cũng là biện pháp,
phương hướng để phòng ngừa tội phạm.
Tóm lại, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đều

đã chứng minh nguồn gốc và bản chất của tội phạm gắn liền với sự xuất hiện
của chế độ tư hữu, gắn liền với sự phân chia xã hội thành những giai cấp đối
kháng, gắn liền với sự xuất hiện của quyền lực nhà nước. Những luận điểm, tư
tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về tội phạm, về nguyên
nhân của tội phạm và các biện pháp phòng ngừa tội phạm là cơ sở nền tảng cơ
bản cho xã hội học Mác – xít ra đời và phát triển.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn
đề tội phạm
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm
Sau khi thành lập nước (xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân), bàn
về pháp luật chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Luật pháp của chúng ta là ý
chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng Pháp luật của ta hiện nay bảo
vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động Pháp luật của ta là pháp luật thật
sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động.
Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do riêng
của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng
quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm
pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do
của nhân dân’’ [20,tr. 154].
19
Khoá luận tốt nghiệp
Sau cách mạng tháng tám thành công, ngày 13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký liền 3 sắc lệnh số 33A, 33B, 33C để thiết lập trật tự cách mạng của
chế độ mới. Với những sắc lệnh đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh “đã thực
hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật. Việc thiết lập trật tự mới; việc xét
xử các người phạm tội đã được tiến hành bằng pháp luật. Pháp luật đó được
xây dựng trên quan điểm vì lợi ích của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ cộng
hòa, bảo vệ các quyền của nhân dân, dựa vào nhân dân [20,tr.158-159]. Những
sắc lệnh này cũng thể hiện rất rõ quyền tự do thân thể của con người, và quy
định những thủ tục rất chặt chẽ của việc bắt người, khi xét thấy người đó là

nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa. Căn cứ vào tình hình tội phạm lúc ấy,
ngày 28/2/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 27 “Quy định các tòa
án quân sự có quyền xử các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát. Những kẻ phạm tội
này bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử. Đối với các tội hình sự
thường sẽ do các tòa án thường xét xử’’ [20,tr.158].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kẻ phạm tội là phải trừng trị theo pháp luật.
Đó là điều tất yếu để giữ gìn kỷ cương phép nước và giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Song, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng và
quan tâm đến yếu tố giáo dục và coi đó là yếu tố chính của việc phòng ngừa tội
phạm.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tội phạm
Học tập và làm theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta cho rằng: “Quốc
gia có luật thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải sống theo luật. Muốn đất
nước có kỹ cương thì phải giữ nghiêm phép nước. Có giữ nghiêm phép nước
thì thế nước mới vững chãi. Cuộc sống hạnh phúc của nhân dân đòi hỏi lực
lượng công an nhân dân chủ động sự bảo vệ bình yên, giữ vững ổn định chính
trị và an toàn xã hội. Ngành tư pháp được nhân dân giao cho trọng trách cầm
cân nảy mực, phải chính trực công minh, xử đúng luật, không được để lọt kẻ có
tội, không xử oan lương dân, ’’ [14,tr.31]. Để cụ thể hóa quan điểm này và giữ
20
Khoá luận tốt nghiệp
vững nền an ninh trật tự của Tổ quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh,
quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội Thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm
mưu và hành động xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và an ninh quốc gia; ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm và các
tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt an toàn xã hội’’ [6,tr.40-41].
Về tình hình tội phạm hiện nay, Đảng ta nhận định: “Tình hình tội phạm
xuất hiện nhiều hơn, cả những hình thức tội phạm mới, như tội phạm có tổ

chức, tội phạm xuyên quốc gia, băng đảng kiểu xã hội đen’’ [1,tr.247].
“Tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp. Cơ cấu thành phần tội phạm có những thay đổi, đối tượng phạm
tội là người lao động chiếm 70%, trong đó 30% không có việc làm, số thanh
thiếu niên phạm tội ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Đặc biệt là tình trạng phạm tội
có tổ chức như: Tham nhũng, buôn lậu, buôn bán phụ nữ, xâm hại trẻ em,
phạm tội có sử dụng bạo lực, cướp của, giết người, chống người thi hành công
vụ, đâm thuê, chém mướn, bảo kê nhà hàng và các hành vi phạm tội khác có
tích chất côn đồ hung hãn; gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng gây lo
lắng cho toàn xã hội.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do những tác động
của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng với những yếu kém trong việc quản lý
kinh tế, văn hóa, xã hội của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, chúng ta chưa đánh giá đúng tính chất phức tạp nghiêm trọng sự phát triển
tội phạm trong thời kỳ mới, để đề ra những chủ trương, biện pháp đấu tranh
phù hợp. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thi hành pháp luật lại chưa
nghiêm sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu chặt
chẽ, nhiều ngành, nhiều cấp chưa coi trọng đúng mức công tác tham gia phòng
chống tội phạm. Một bộ phận cán bộ, kể cả cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp
21
Khoá luận tốt nghiệp
luật bị tha hóa, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân; công tác
phòng ngừa tội phạm trong gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư chưa được
quan tâm đúng mức’’ [18,tr.157-158].
Từ những phân tích thực trạng tình hình tội phạm và những nguyên nhân,
điều kiện làm phát sinh tội phạm như trên, cho thấy tội phạm là một hiện tượng
xã hội tiêu cực, cần phải phòng chống. Do vậy, trong chính sách hình sự, Đảng
ta chủ trương : “thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh chống tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải
tạo người phạm tội trở thành người lương thiện qua đó bồi dưỡng cho mọi

công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động
tham gia phòng ngừa và phòng chống tội phạm’’ [23,tr.14]. Theo đường lối xét
xử hình sự của Đảng ta, “hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội
mà còn giáo dục họ trở thành những người có ích cho xã hội, có ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ
phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm’’ [23,tr.27-28].
Đối với tội phạm ở tuổi VTN, xuất phát từ bản chất ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách đặc
biệt khoan hồng. Bộ luật hình sự cũng đã dành hẳn chương X quy định riêng
đường lối xử lý đối với tội phạm ở lứa tuổi này.
Điều 69 của bộ luật hình sự quy định Nguyên tắc xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội nêu rõ:
1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho
xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người
chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng
22
Khoá luận tốt nghiệp
nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự,
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải
căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân cách và
yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với

người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư
pháp được quy định tại điều 70 của Bộ luật này.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên
phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội
được hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội từ độ
tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi,
thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm [23,tr.52-54].
Khi bị xét xử, người ở tuổi VTN cũng được hưởng những chính sách hình
sự đặc biệt của Nhà nước. Điều 74 của Bộ luật hình sự quy định:
“Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định
sau đây:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt mà điều luật quy định.
23
Khoá luận tốt nghiệp
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá 12 năm tù nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy
định’’ [23, tr.56].
Trong quá trình chấp hành hình phạt tù, tội phạm ở tuổi VTN cũng được
quan tâm, xem xét giảm mức hình phạt đã tuyên với những chính sách đặc biệt,
cụ thể như:
1. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu
có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn thì được Tòa xét

xử giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể được giảm bốn năm nhưng
phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
2. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu
lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được
miễn chấp hành hình phạt còn lại.
3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra
hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng viện kiếm sát, Tòa án có
thể quyết định giảm hoặc miễn chấp hành phần phạt tiền còn lại [23,tr. 57].
Để phòng chống tội phạm có hiệu quả, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phòng chống tội phạm.
Tại điều 4 của Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm nêu rõ:
1. Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ
quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức,
công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giáo dục và giám sát người
phạm tội tại cộng đồng.
24
Khoá luận tốt nghiệp
2. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền
quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; Kịp thời có biện
pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức
của mình.
3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm’’ [23,tr.16-17].
Để giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Đảng ta kêu
gọi: “Phát huy dân chủ đi đôi với với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng pháp
chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật’’ [6,tr.135].
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vấn đề tội
phạm được thể hiện khá rõ: Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, do nhiều
yếu tố, nhiều nguyên nhân tạo ra. Do vậy, để phòng chống phải áp dụng nhiều
biện pháp đồng bộ, trong đó đặc biệt chú trọng đến các biện pháp phòng ngừa
tội phạm. Coi biện pháp phòng ngừa tội phạm là biện pháp phòng chống tội
phạm hiệu quả nhất.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta trong nghiên
cứu tội phạm ở tuổi VTN trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh, đề tài đã
gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, giải thích một cách đúng đắn hiện tượng tội
phạm ở tuổi VTN, lý giải những nguyên nhân phát sinh tội phạm. Trên cở sở
đó khuyến nghị các giải pháp phòng ngừa tội phạm thích hợp. Đề tài cũng đã
đưa ra những vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể xã hội trên địa bàn
cũng như hoạt động của công tác xã hội trong việc phòng chống và ngăn ngừa
tình trạng tội phạm vị thành niên trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh.
25

×