Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Phân tích định lượng tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam-slide+word phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.24 KB, 49 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Kinh tế phát
triển nhanh và Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới. Có được những
thành tựu đó là do: Ngay từ ngày đầu của công cuộc Đổi mới Đảng ta đã xác định
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường tất yếu để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ Đổi
mới. Mặt khác, để chủ trương đúng đắn đó đi vào thực tiễn phải kể đến vai trò
trực tiếp của đầu tư phát triển.
Những tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam luôn được
nhắc đến khi đánh giá các thành tựu của thời kỳ Đổi mới. Nhưng những đánh giá
đó chủ yếu là định tính. Những đánh giá này có thể cung cấp cái nhìn tổng thể
nhưng không đi sâu vào các căn cứ thực tế. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu
khoa học cũng như việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cần những đánh giá
định lượng.
Bởi vậy, đề tài này ra đời với mục đích cao nhất là phân tích định lượng tác động
của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam.

ChươngI
1


Những vấn đề lí luận chung
A. Các khái niệm chung về cơ cấu và chuyển dịch cấu kinh tế
1 .Cơ cấu kinh tế:
1.1. Khái niệm và bản chất:
-Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ
với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc vào mục tiêu của
nền kinh tế.
-Về mặt bản chất: CCKT là kết quả của phân công lao động xã hội
-Về mặt biểu hiện: CCKT có 2 đặc tính:
*Biểu hiện hình thức thông qua quan hệ tỉ lệ: tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành


cơ cấu ngành.
*Biểu hiện nội dung thông qua quan hệ giữa các thành phần: các thành phần
tương tác với nhau như thế nào, quan hệ chặt hay lỏng.
1.2. Phân loại CCKT:
3 góc độ chủ yếu để phân tích CCKT
*Cơ cấu ngành kinh tế:
-Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ
hữu cơ và sự tác động qua lại về mặt số lượng và chất lượng giữa các ngành với
nhau.
-Vai trò: Là bộ phận quan trọng nhất trong phân tích CCKT vì nó phản ánh sự
phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
-Dưới góc độ ngành, cơ cấu có thể xem xét dựa trên 3 hình thức:
• Cơ cấu theo nhóm ngành lớn: cơng nghiệp-xây dựng;nơng nghiệp; dịch vụ
• Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên phương thức và cơng nghệ sản xuất:
nhóm ngành nơng nghiệp và phi nơng nghiệp
• Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm
ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành dịch vụ
*Cơ cấu lãnh thổ kinh tế
-Là kết quả của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ
-Góc độ xem xét
• CC lãnh thổ theo vùng kinh
• CC theo thành thị và nơng thơn
• CC giữa lãnh thổ phát triển và lãnh thổ chậm phát triển
CC giữa lãnh thổ động lực và lãnh thổ còn lại
*Cơ cấu thành phần kinh tế:
-Là kết quả tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu kinh tế
-Góc độ xem xét:

2



• Theo 5 thành phần kinh tế:kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
• Theo 2 nhóm:kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước
2. Chuyển dịch CCKT
2.1. Khái niệm:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế do
sự thay đổi các chính sách và các bién động về mặt xã hội gây nên, nó có thể được
thực hiện một cách chủ động, có ý thức hoặc xảy ra trong điều kiện khách quan,
có thể khơng theo hoặc ngược lại dự kiến ban đầu.
 CCKT không thể tự thay đổi nếu khơng có sự tác động từ bên ngồi
 Nếu CCKT chuyển dịch đúng, hợp lí thì đó là yếu tố thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội; ngược lại nó trở thành yếu tố kìm hãm. Vì vậy
CDCCKT là một vấn đề mang tầm quốc gia, đòi hỏi một chương trình
hành động thống nhất trên phạm vi cả nước
2.2. Các nguyên tắc CDCCKT
-CDCCKT phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Tức là phải phù hợp với các quy luật khách quan chứ khơng phải những
mệnh lệnh hành chính chủ quan, duy ý chí. Bởi vậy, CDCC phải đảm bảo hiệu
quả trước mắt và hiệu quả lâu dài, hài hoà giữa hiệu quả cục bộ và hiệu quả toàn
bộ cũng như phải đem lại hiệu quả cho mọi người, cho toàn xã hội.
-CDCCKT phải dựa trên một chương trình hành động thống nhất mang tính quốc
gia. Đối với cơ cấu theo lãnh thổ, CCKT vừa phải phù hợp với lợi thế so sánh của
vùng vừa phải hài hoà với tổng thể xã hội. Đối với cơ cấu ngành, phải xuất phát
từ sự thay đổi các ngành chủ lực làm đầu tàu kéo nền kinh tế từ những thay đổi
về lượng đến những chuyển dịch về chất. Cơ cấu theo thành phần tuy khơng đóng
vai trị chủ đạo nhưng phải tạo ra môi trường kinh tế cởi mở, linh hoạt cho sự
chuyển dịch.
-CDCCKT có thể diễn ra một cách tuần tự, cũng có thể diễn ra một cách nhảy vọt
tuỳ theo điều kiện cụ thể.

2.3. Xu hướng CDCCKT
CDCCKT có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau và còn phù thuộc vào mục
tiêu kinh tế xã hội của từng quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, để có một nền
kinh tế hợp lí và đồng bộ thì CDCCKT tốt nhất nên đi theo một xu hướng chung.
Đặc biệt, đối với CC ngành kinh tế: Tỉ trọng ngành phi nông nghiệp tăng lên, tỉ
trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Mục tiêu để đạt đến một nền kinh tế phát
triển thì: tỉ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 85%tổng lao động xã hội. Khoa
học cơng nghệ đóng góp khoảng 80% năng suất lao động xã hội. Ngành cơng
nghiệp chế tác có cơng nghệ cao chiếm khoảng 30-40% giá trị ngành công
nghiệp. Ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm hơn 80% tổng GDP quốc gia. Nhóm
ngành sản xuất vật chất tăng 1% thì nhóm ngành dịch vụ phải tăng 1,8-2% mới

3


đủ chất bôi trơn cho nền kinh tế phát triển tốt. Trong điều kiện Việt Nam có thể
tăng 1,3-2% là chấp nhận được.
B. Đầu tư - Tác nhân tất yếu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế khơng thể tự chuyển dịch nếu khơng có những tác động từ bên
ngoài (chủ quan và khách quan). Muốn cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo những
định hướng kinh tế xã hội không thể chỉ sử dụng những mệnh lệnh hành chính.
Muốn đẩy mạnh một ngành hay phát triển một vùng, hay nói rộng hơn là thay đổi
cơ cấu của cả nền kinh tế, trước hết phải có vốn, tức phải có đầu tư. Bởi vậy đầu
tư là nhân tố hàng đầu, thiết yếu đối với sự chuyển dịch cơ cấu của mỗi nền kinh
tế. Có thể chứng minh điều đó thơng qua:
1. Những lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1. Mơ hình của Rostow
Rostow đã chia q trình phát triển của một quốc gia tư xã hội truyền thống đến
xã hội phát triển cao thành 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều có một cơ cấu kinh tế
đặc trưng gắn với một yêu cầu riêng về tỉ lệ đầu tư và cơ cấu đầu tư:

 Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống: Nền kinh tế bị thống trị bởi sản xuất
nơng nghiệp. Tích luỹ gần như bằng 0, khơng có đầu tư.
 Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh: Sự ra đời của ngân hàng và các tổ chức
huy động vốn thúc đẩy hoạt động đầu tư. Cơ cấu ngành kinh tế: Nông-công
nghiệp
 Giai đoạn 3: Cất cánh: Yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh: huy động
được nguồn vốn đầu tư cần thiết; tỉ lệ tiết kiệm tăng lên ít nhất chiếm 10%
trong thu nhập quốc dân thuần tuý. Ngoài nguồn vốn đầu tư trong nước cịn
vốn đầu tư nước ngồi. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này là: Công
nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp.
 Giai đoạn 4: Trưởng thành: Cơ cấu kinh tế đặc trưng của giai đoạn này:
Dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Tỷ lệ tiết kiệm chiếm hơn 20% thu
nhập quốc dân thuần túy. Đầu tư chiếm tỷ lệ cao.
 Giai đoạn 5:Tiêu dùng cao
 Có thể thấy trong mỗi giai đoạn đầu tư ln là yếu tố tiên quyết đối với
sự hình thành 1 cơ cấu kinh tế mới,tiến bộ và hợp lý hơn.
1.2. Mơ hình 2 khu vực của Harry Oshima
Dựa trên nghiên cứu của 2 mơ hình 2 khu vực của Athus Lewis và của trường phái
Tân cổ điển và đặc điểm riêng của các nước châu Á gió mùa (nền nơng nghiệp
mang tính chất thời vụ cao nên lao động thất nghiệp cũng có tính chất thời vụ);
Harry Oshima đã quan tâm đến việc đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn:
 Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian
nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Cụ thể là đa
dạng hố sản xuất nơng nghiệp, xen canh, tăng vụ, mở rộng chăn nuôi. Đồng
4


thời để nâng cao năng suất lao động cần đầu tư xây dựng hệ thống kênh
mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hố,
hệ thống giáo dục và điện khí hố nơng thơn.

 Giai đoạn 2: Hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng
thời cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng. Bên cạnh việc
tiếp tục phát triển nông nghiệp theo quy mô lớn, cần phát triển những ngành
công nghiệp, dịch vụ cần nhiều lao động và các ngành thu hút nhiều lao
động. Nhờ đó vừa giải quyết lao động dư thừa vừa mở rộng thị trường cho
ngành công nghiệp.
 Giai đoạn 3: Sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh
tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động. Đẩy mạnh đầu tư đưa khoa học
công nghệ vào nhằm thay thế lực lượng lao động đang dần trở nên thiếu hụt.
Các ngành sử dụng ít lao động đang dần thay thế các ngành sử dụng nhiều
lao động trong cơ cấu kinh tế
 Mơ hình của Oshima là mơ hình tiến bộ nhất và cũng gần gũi nhất với
điều kiện Việt Nam (một nước châu Á gió mùa). Bởi vậy những kết luận
mơ hình đưa ra rất đáng lưu tâm. Theo đó, cơ cấu đầu tư biểu hiện
những ưu tiên của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Chính nó quyết định
cơ cấu kinh tế. Do đó kiến nghị mà Oshima đưa ra là sử dụng sự thay đổi
từng bước trong cơ cấu đầu tư để mang lại Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.3. Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu (Moise Syrquin)
Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm ba giai
đoạn: (1) sản xuất nơng nghiệp, (2) cơng nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát triển.
 Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là sự thống trị của các hoạt động của khu

vực khai thác, đặc biệt là nông nghiệp. Nếu xét ở mặt cung, thì trong giai
đoạn 1 có những đặc trưng chính là tỷ lệ tích lũy tư bản còn khiêm tốn nên
tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng cao của lực lượng lao động, và tốc độ
tăng trưởng tổng năng suất nhân tố (TFP) rất thấp, và nhân tố sau cùng này
tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung hơn là yếu tố tỷ lệ đầu
tư thấp.
 Giai đoạn 2 hay là giai đoạn cơng nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm


quan trọng trong nền kinh tế đã được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm
quan trọng của khu vực chế biến trong đóng góp và tăng trưởng kinh tế
chung ngày càng tăng lên. Xét ở mặt cung, sự đóng góp vào tăng trưởng
của nhân tố tích lũy tư bản vẫn được giữ ở mức cao trong hầu hết giai đoạn
2 do có sự gia tăng mạnh của tỷ lệ đầu tư.
 Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Sự chuyển tiếp từ

giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 có thể được hiểu theo nhiều cách. Nếu xét về
mặt cầu, tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu nhu cầu nội địa bắt

5


đầu giảm xuống. Khu vực dịch vụ trở thành khu vực quan trọng nhất và
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Ở
mặt cung, sự khác biệt chủ yếu giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 là sự suy
giảm trong đóng góp vào tăng trưởng của cả hai nhân tố sản xuất tư bản và
lao động theo cách tính qui ước. Như vậy, trong giai đoạn này, nhân tố
đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng là nhân tố tổng năng suất nhân tố (Total
Factor Productivity - TFP).
Có thế nói rằng, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin là một bức tranh
tổng thể khá chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
thời kỳ hiện đại. Đặc biệt, lý thuyết này đi sâu hơn các lý thuyết trước trong việc
phân tích tác động của từng nguồn lực trong đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong từng giai đoạn.
1.6. Lý thuyết phát triển cân đối và Lý thuyết phát triển không cân đối hay
“các cực tăng trưởng”



Những nhà kinh tế học ủng hộ lý thuyết phát triển cân đối (như R
Nurkse, Rosenstein - Rodan) cho rằng ngay từ đầu phải đầu tư phát triển
đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng cơng nghiệp
hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Luận cứ mà họ đưa ra là:

- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau, "đầu
ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng đều
và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh hưởng tiêu
cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế
khác, qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ.
- Một nền kinh tế dự trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng vững
chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển.
Những nghiên cứu mà mơ hình đưa ra chỉ phù hợp để định hướng cho một nền
kinh tế đóng. Nó khơng phù hợp với điều kiện tồn cầu hóa hiện nay. Đặc biệt với
các nước đang phát triển nếu đi theo con đường này sẽ bị hạn chế trong việc tiếp
cận với các nguồn lực do khơng tận dụng được các lợi ích mà mơi trường bên
ngoài đem lại. Mặt khác, việc đầu tư cho tất cả các ngành phải đối mặt với vấn đề
nguồn lực khan hiếm. Đặc biệt, với các nước đang phát triển, việc đầu tư vào tất
cả các ngành với nguồn lực nhỏ bé trong nước sẽ dẫn tới đầu tư dàn trải, kém hiệu
quả.


Bởi vậy hiện nay hầu hết các nước đều đi theo con đường phát triển
không cân đối. Những đại diện tiêu biểu của lý thuyết này (A. Hirschman,
F. Perrons) cho rằng không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng trưởng
bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia.
Họ lập luận như sau:

6



- Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích thích đầu tư. Nếu cung bằng cầu
trong tất cả các ngành thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.
Ðể phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành nhất định, tạo ra
một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư trong các ngành khác theo
kiểu lý thuyết số nhân, từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong
nền kinh tế là khơng giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực (vốn
khan hiếm) cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu của q trình cơng nghiệp hóa, các nước đang phát triển rất
thiếu các nguồn lực sản xuất và khơng có khả năng phát triển cùng một lúc đồng
bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, phát triển không cân đối gần như là một sự
lựa chọn bắt buộc.
Rõ ràng, lý thuyết này phù hợp hơn với xu thế hội nhập nói chung và điều kiện
của các nước đang phát triển nói riêng. Hiện nay hầu hết các nước đều định hướng
đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào một số lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, để
phát triển bền vững nên kết hợp linh hoạt 2 lý thuyết này trong định hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đất nước trong từng giai đoạn.
Kết luận chung được rút ra sau khi xem xét tất cả các lý thuyết trên là: Thứ
nhất, để phát triển kinh tế cần xác định một cơ cấu kinh tế phù hợp cho từng giai
đoạn (đây là nhiệm vụ của công tác định hướng, lập kế hoạch). Thứ hai, muốn
nền kinh tế chuyển dịch theo cơ cấu đã định ra, phải hướng đầu tư vào những
lĩnh vực ưu tiên đã được xác định. Vậy, các lý thuyết trên đều chứng minh rằng
đầu tư có vai trị là nhân tố thực hiện trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
2 .Những logic thực tế về vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
2.1. Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử dụng
như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường vật

chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng cơng nghệ qua đó nâng cao năng suất lao động
của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt khác,
đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động,tài
nguyên,vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành. Chính đầu tư chứ khơng
phải các quyết định hành chính là nhân tố trực tiếp nhất có thể huy động tất cả các
yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của ngành. Không những thế việc đầu tư
còn tạo ra điều kiện vật chất cho sự ra đời của những ngành mới. Sự thay đổi tỉ
trọng giữa các ngành và sự ra đời của những ngành mới chính là chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành.
2.2.Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
7


Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp
đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng
tập trung nhiều khu cơng nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một
quốc gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác
cùng phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thốt khỏi
đói nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ
theo góc độ thành thị và nơng thơn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng
của đơ thị hố. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ
sẽ chỉ là hình thức nếu khơng đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hố
khơng thể gọi là thành cơng thậm chí cịn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng
không đáp ứng được các nhu cầu của người dân. Các dịch vụ y tế, giáo dục…
cũng cần được đầu tư cho phù hợp với sự phát triển của một đô thị.
2.3.Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định
thành phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò; nhiệm
vụ của các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trị nhân tố thực

hiện.
Tóm lại, nhìn tư góc độ lý thuyết hay thực tiễn đều thấy được mối quan hệ và
vai trò tất yếu của đầu tư phát triển đối với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia. Đây là cơ cở lý thuyết quan trọng để thực hiện đề tài.
3.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện tồn cầu hố
Tồn cầu hố là xu hướng chung của cả thế giới mà không một quốc gia nào có
thể đứng ngồi xu hướng chung đó. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam, toàn cầu hố ln kèm theo những yếu tố loại trừ rất khắc nghiệt. “Đổi
mới hay tụt hậu?”câu hỏi đó phải được trả lời bằng quyết tâm của cả nền kinh tế.
Vậy nên, trong điều kiện tồn cầu hố vai trị của đầu tư trở nên vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ, trước địi hỏi cao của trình độ khoa học cơng nghệ thế giới, chúng ta
phải không ngừng nâng cao công nghệ của mình. Mà cơng nghệ khơng thể tự sản
sinh nếu khơng có vốn bất kể đó là cơng nghệ nội sinh hay công nghệ ngoại sinh.
Hơn nữa, nền kinh tế trong nước là một bộ phận của kinh tế thế giới. Vì vậy, cơ
cấu kinh tế của chúng ta khơng những phải chuyển dịch mà còn phải chuyển dịch
nhanh hơn để phù hợp nhu cầu của thế giới. Với điều kiện nước ta hiện nay những
bất hợp lý là không thể tránh khỏi. Nhưng chúng ta phải nhanh chóng xố bỏ
những điều đó để hội nhập. Muốn vậy phải đầu tư nhiều hơn nữa.
Mặc dù những thách thức là rất lớn nhưng tồn cầu hố cũng mang lại cho
chúng ta nhiều cơ hội lớn để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó
là đầu tư nước ngồi, chuyển giao công nghệ và thương mại quốc tế. Với việc mở
cửa nền kinh tế, chúng ta đang thu hút những nguồn vốn vô cùng quan trọng cho
sự phát triển tồn diện. Chuyển giao cơng nghệ tuy có những khó khăn, phức tạp
nhưng đó là hướng đi chung của các quốc gia đang phát triển hiện nay để thực

8


hiện cơng nghiệp hố-hiện đại hố đất nước. Thương mại quốc tế là cơ hội rất lớn
để chúng ta mở rộng thị trường đồng thời tạo môi trường cạnh tranh trong nước.

Nhưng để cạnh tranh hiệu quả chúng ta cần biết thị trường thế giới đang cần gì để
xây dựng cơ cấu đầu tư vào những nhóm ngành sản xuất hàng xuất khẩu phù hợp.
Tồn cầu hố đang đưa Việt Nam ra gần hơn với thế giới và đưa thế giới đến gần
hơn với Việt Nam.
4. Những chỉ số đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tác động của
đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4.1.Các chỉ số đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4.1.1. Tỉ trọng các ngành - β (t)


Cơng thức tính tỉ trọng các ngành:
β Ngành =

GDPNgành (t )
GDP(t )

Tỉ trọng của ngành phi nông nghiệp là :
βPNN (t) = βCN (t) + βDV(t)
Tỉ trọng của ngành sản xuất vật chất là :
βSXVC (t) = βNN (t) + βCN (t)

Ý nghĩa hệ số
Cho biết đóng góp về mặt lượng của mỗi ngành vào tổng sản lượng của nền kinh
tế trong mỗi thời kỳ. Nếu xét trong một thời kỳ, chỉ số này thể hiện vai trò của
mỗi ngành trong nền kinh tế. Nếu xét nhiều thời kỳ liên tiếp, chỉ số này biểu hiện
sự thay đổi vai trò của các ngành qua thời gian.
Cơng thức tính tỷ trọng này cũng áp dụng để tính tỷ trọng GDP, tỷ trọng đầu tư
của các vùng, các thành phần kinh tế. Khi đó, nó được dùng để đánh giá chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ và theo thành phần kinh tế.
4.1.2. Độ lệch tỉ trọng ngành – d

 Cơng thức tính

d NN = β NN (t1) − β NN (t )
 Ý nghĩa: Độ lệch tỷ trọng ngành phản ánh sự thay đổi tỷ trọng ngành đó
giữa năm đầu và năm cuối của giai đoạn nghiên cứu. Nhờ đó ta có thể đánh
giá được hướng chuyển dịch của ngành đó cũng như hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế giữa các ngành.
4.1.3. Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành nông nghiệp và phi nơng nghiệp
• Cơng thức tính
Cos θ o =

β NN (t ) × β NN (t1) + β PNN (t ) × β PNN (t1)
( β 2 NN (t ) + β 2 PNN (t )) × ( β 2 NN (t1) + β 2 PNN (t1)

Góc θ o = arccos θ o
Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành NN và phi NN là :
9


K=

θ0
90

• Ý nghĩa của hệ số
Góc θ o bằng 0 o khi khơng có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và 90 0 khi sự dịch
chuyển là lớn nhất. Hệ số k cho biết tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ
đó mà có ta có thể sử dụng hệ số K của mỗi vùng hay mỗi giai đoạn để so sánh và
đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng hoặc của vùng đó
qua các giai đoạn.

• Điều kiện áp dụng: trong cơng thức đưa ra; vai trị của 2 thành phần tỷ trọng
nơng nghiệp và phi nơng nghiệp là hồn tồn bình đẳng. Bởi vậy, việc sử
dụng k để đánh giá tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ áp dụng khi sự
chuyển dịch là đúng hướng (tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm, tỷ trọng khu
vực phi nông nghiệp tăng. Vì vậy, chỉ đánh giá k trong giai đoạn d NN <0)
4.2. Các hệ số đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành (H1)
• Cơng thức
β I (t1) − β I (t )
β I (t )
H1 =
β (t1) − β (t )
β (t )
với β I (t1) là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ nghiên cứu
β I (t ) là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ trước
β (t1) là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ nghiên cứu
β (t ) là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ trước
• Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong
tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì cần phải đầu tư cho ngành tăng thêm
bao nhiêu. Bởi vậy, nó là thước đo đánh giá độ nhạy cảm giữa tỷ trọng GDP
của mỗi ngành và tỷ trọng đầu tư của ngành đó. Qua đó có thể đánh giá mức
độ ảnh hướng của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nếu hệ số
này mang giá giá trị dương tức là khi tỷ trọng đầu tư vào ngành tăng hoặc
giảm thì tỷ trọng GDP cũng tăng giảm tương ứng. Nếu hệ số này âm, tức là
trong giai đoạn đo đầu tư không tác động thuận chiều đến thay đổi tỷ trọng
ngành.
2.Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP (H2)
• Cơng thức tính
H2 =


β I (t1) − β I (t )
β I (t )
g (t1) − g (t )
g (t )

10


Với
g(t1) là tốc độ tăng trưởng kỳ nghiên cứu
g(1) là tốc độ tăng trưởng kỳ trước


Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết để góp phần đưa vào tăng trưởng kinh tế
(GDP) lên 1% thì tỉ trọng đầu tư vào 1 ngành nào đó tăng bao nhiêu. Cũng
giống như hệ số trên, hệ số này là thước đo độ nhạy cảm của tăng trưởng
kinh tế nói chung với thay đổi tỷ trọng đầu tư của mỗi ngành.

Chương II

Thực trạng của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam giai đoạn sau đổi mới kinh tế 1986
Phần A. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
I.Khái quát tình hình thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam sau Đổi mới
Đổi mới kinh tế đánh dấu một bước ngoặt lớn trong hoạt động đầu tư phát triển
ở Việt Nam. Với sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài (1987) và Luật Doanh
nghiệp (2000) tình hình thu hút vốn đầu tư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tổng
vốn đầu tư tăng nhanh. Chỉ xét giai đoạn từ 1995-2007, tổng vốn đầu tư đã tăng
hơn 7 lần. Từ năm 1990 đến nay tổng vốn đầu tư phát triển của Việt Nam tăng

khá nhanh và tỷ lệ đầu tư so với GDP đã tăng lên đến 41% năm 2006, 41,7% năm
2007.
Vốn đầu tư ở Việt Nam
600000

500000

Tỷ đồng

400000

300000

Vốn đầu tư ở Việt Nam

200000

100000

0
1995

1996

1997

1998

1999


2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Sơ bộ
2007

(nguồn: tổng cục thống kê)
11


Mặt khác, về cơ cấu nguồn vốn có sự đa dạng hóa. Nếu trước đổi mới, vốn đầu
tư xã hội chủ yếu là vốn nhà nước. Thì sau đổi mới nguồn vốn đã được mở rộng
với sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Nguồn vốn trong
nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt dự
kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục
tiêu phát triển nông nghiệp và nông thơn, xố đói giảm nghèo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết
cấu hạ tầng; đồng thời có nhiều hình thức huy động khác như cơng trái giáo dục,
trái phiếu chính phủ, trái phiếu đơ thị..., tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.

Bên cạnh đó, chúng ta ln luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả
ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư
phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát
triển, tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Số dự án FDI được cấp giấy phép đã tăng
nhanh về số lượng. Từ 37 dự án năm 1988 lên 987 dự án năm 2006 và sơ bộ đạt
1544 dự án năm 2007. Nguồn vốn ODA được giải ngân đạt 4.6 tỷ USD trong 3
năm qua. Góp phần vào sự gia tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển là sự phát
triển mạnh của thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chúng khoán trong thời
gian gần đây đã tạo ra một kên huy động vốn mới, hiệu quả.
II. Đánh giá chất lượng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam sau Đổi
mới
Phần này chủ yếu nêu ra các đánh giá định lượng về chất lượng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Việt Nam thông qua hệ thống các chỉ số đã nêu ở chương I.
1.Mức độ chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành
Sự thay đổi vai trò của từng ngành qua các thời kỳ được xem xét thông qua tỷ
trọng của các ngành trong nền kinh tế.
Tỷ trọng ngành kinh tế của VN thời kỳ 1986-2007 được thể hiện qua bảng
sau :
Bảng 1
Năm
NN
CN
DV
NN
CN
DV

1986


1990
1999
2000
2005
2006
2007
Đóng góp GDP của các ngành (tỷ đồng)
228 16252 101723 108356 175984 198797 232188
173 9513 137959 162220 344229 404696 475680
198 16190 160260 171070 319004 370771 436146
Tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế (%)
38.06 38.74
25.43
24.53
20.05
18.74
17.86
28.88 22.67
34.49
36.73
41.00
40.97
41.77
33.06 38.59
40.08
38.73
38.50
40.29
40.37


12


(nguồn:TỔNG CỤC THỐNG KÊ)
Có thể thấy vai trị của các ngành kinh tế không ngừng thay đổi theo thời gian.
Trong đó, ngành nơng nghiệp từ chỗ là ngành quan trọng nhất (chiếm tỷ trọng cao
nhất trong giai đoạn 1986-1990) đã dần nhường chỗ cho các ngành công nghiệp
và dịch vụ. Tỷ trọng của ngành dịch vụ nhìn chung khơng ngừng gia tăng trong
các thời kỳ. Hiện nay, công nghiệp đang là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong
GDP. Đồng nghĩa với việc là ngành kinh tế quan trọng nhất. Tỷ trọng ngành dịch
vụ cũng tăng liên tục qua các năm. Có những thời kỳ dịch vụ đã là ngành kinh tế
lớn nhất (1999-2005). Hiện nay, đó là ngành kinh tế lớn thứ hai sau công nghiệp.
Nếu so sánh với các chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm, cịn có thể thấy:
- Chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000: Cơ cấu ngành kinh tế năm cuối (2000)
Nông-lâm-ngư nghiệp:19-20%; Cơng nghiệp-xây dựng: 34-35%; Dịch vụ:
45-46%. Nếu nhìn vào giá trị đạt được của Việt Nam trong năm 2000 với các số
liệu tương ứng là 24.53%-36.73%-38.73% thì chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp, dịch vụ đã không đạt được chỉ tiêu đề ra. Tuy nhiên, nguyên nhân ở đây là
do chính các chỉ tiêu thời kỳ này là khơng hợp lý khi kỳ vọng quá cao vào sự phát
triển của ngành dịch vụ trong điều kiện bấy giờ của đất nước.
- Chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005: Cơ cấu kinh tế năm 2005: Tỷ trọng các
ngành: Nông nghiệp: 20-21%; Công nghiệp-xây dựng: 38-39%; Dịch vụ 41-42%.
Các chỉ tiêu này rõ ràng đã được điều chỉnh phù hợp hơn. Tuy nhiên, việc đặt mục
tiêu tỷ trọng dịch vụ cao hơn công nghiệp là chưa hợp lý. Trong thực tế năm 2005,
tỷ trọng ngành dịch vụ (38.05%) vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra.
- Chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 là: nông-lâm-ngư nghiệp:
15-16%; công nghiệp-xây dựng: 43-44%; Dịch vụ: 40-41%. Chỉ tiêu đặt ra cho
giai đoạn này đã thực sự định hướng được cho sản xuất và là chỉ tiêu tốt để so
sánh. Và nếu nhìn vào cơ cấu ngành năm 2007, ta hồn tồn có cơ sở để tin tưởng
các chỉ tiêu này sẽ được hoàn thành vao năm 2010.

1. Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
• Số liệu thực tế của Việt Nam
Độ lệch tỷ trọng các ngành các giai đoạn :
Bảng 4
Đơn vị:%
1995-199 2000-200 2005-200
Giai đoạn
1986-1989 1990-1994
9
4
7
Độ lệch tỷ
trọng NN
4.01
-11.31
-1.74
-2.77
-3.04
Độ lệch tỷ
trọng CN
-5.94
6.2
5.72
3.36
0.77
Độ lệch tỷ
trọng DV
1.93
5.11
-3.98

-0.59
2.27
Độ lệch tỷ
trọng PNN
-4.01
11.31
1.74
2.77
3.04

13




Đánh giá số liệu.
Nếu xét theo tương quan giữa 2 khu vực nơng nghiệp và phi nơng nghiệp có thể
thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi đúng hướng. Từ năm 1990, độ lệch tỷ trọng
nông nghiệp luôn mang giá trị âm cho thấy hướng chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp.
Nhưng nếu xét cho từng nhóm ngành thì sự chuyển dịch chưa mạnh mẽ và chưa
thể hiện một xu thế liên tục trong mọi giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn 1986-1989, nền
kinh tế chưa chuyển dịch đúng hướng. Điều này có thể lý giải do những bỡ ngỡ
ban đầu của chúng ta trong q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Trong các giai đoạn tiếp theo, tỷ trọng nông nghiệp đã đi theo xu hướng chung là
luôn giảm. Độ lệch tỷ trọng ngành nơng nghiệp có giá trị tuyệt đối cao nhất vào
giai đoạn 1990-1994 (11.33%). Từ 1995, giá trị này thấp hơn hẳn giai đoạn trước
nhưng luôn tăng đều qua các năm. Tỷ trọng cơng nghiệp tăng nhưng mức tăng có
xu hướng chậm lại. Điều đó là phù hợp nếu cơng nghiệp nhường bước cho dịch vụ
phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực dịch vụ lại không đi theo một xu

hướng như mong muốn. Giai đoạn 1995-2000, độ lệch tỷ trọng nhóm ngành dịch
vụ mang dấu âm trong khi chủ trương chung của chúng ta trong thời kỳ này là
không ngừng gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Điều đó có nghĩa là những chủ
trương của Đảng chưa được thực sự đi vào thực tiễn. Tuy nhên, hiện nay, xu
hướng chung đã được lập lại. Độ lệch tỷ trọng dịch vụ lại mang giá trị dương
trong giai đoạn 2005-2007. Có thể lạc quan rằng kế hoạch 5 năm 2006-2010 đang
được triển khai đúng hướng trong thực tế.
2. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu giữa 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp được
đánh giá thông qua hệ số chuyển dịch k.
• Số liệu thực tế của Việt Nam
Tỷ trọng các khu vực trong nền kinh tế Việt Nam
Bảng 2
Đơn vị: %
Năm
Tỷ trọng NN
Tỷ trọng PNN

1986
38.06
61.94

1989
42.07
57.93

1990
38.74
61.26


1994
27.43
72.57

1995
27.18
72.82

1999
25.44
74.56

2000
24.53
75.47

2004
21.76
78.24

2005
20.9
79.1

2007
17.86
82.14

Chuyển dịch cơ cấu ngành NN và phi NN
Bảng 3

Giai đoạn
cos θ
Góc θ
Hệ số k

1986-1989
0.99703
4.419
0.049

1990-1994
0.97956
11.603
0.129

1995-1999
0.99960
1.628
0.018

2000-2004
0.99908
2.463
0.027

2005-2007
0.99902
2.534
0.028


14




Đánh giá số liệu
Như đã trình bày ở trên, ta chỉ đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu giai đoạn
từ sau 1990 (giai đoạn 1986-1989 khơng xét vì cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng khu vực nông nghiệp và giảm tỷ trọng phi nông nghiệp).
Qua số liệu đã trên ta thấy sự chuyển đổi cơ cấu diễn ra mạnh nhất vào giai đoạn
1990-1994, k=0.129 . Đây là giai đoạn có nhiều sự cố gắng và đã đạt được những
thành tựu đáng kể : tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% (mục
tiêu là 5-6,5%), trong đó nơng nghiệp tăng 4,3%, cơng nghiệp và xây dựng tăng
12,9% và dịch vụ tăng 9,1%. Tuy nhiên, hệ số k<1/2 cho thấy trong giai đoạn này
chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm. Mặc dù không có sự đảo lộn lớn do chuyển dịch
cơ cấu quá nhanh nhưng việc chuyển dịch chậm tiềm ẩn yếu tố khơng bền vững
trong tăng trưởng địi hỏi chi phí điều chỉnh lớn. Cần phải có những biện pháp để
thúc đẩy tưởng trường kinh tế theo chiều sâu và ổn định.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã trải qua
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong
những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ
quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, khơng đem
lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào cơng cuộc đổi mới quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực.Từ các chỉ số đã
phân tích ở trên có thể thấy nền kinh tế đã chuyển dịch đúng hướng, tuy nhiên tốc
độ chuyển dịch cơ cấu còn chậm và hàm chứa những yếu tố bất hợp lý và không
bền vững.
III. Đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.Đánh giá thông qua hệ số co giãn

1.1Đánh giá tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng ngành
Bảng:Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế
của ngành (H1)

Tổng vốn ĐT ngành NN
Tỷ trọng ĐT ngành NN
(%)
tỷ trọng GDP ngành NN
(%)
H1(NN)
Tổng vốn ĐT ngành CN

2000
15938

2002
12945

2003
14130

2004
14706

2005
15962

2006
18412


Sơ bộ
2007
20472

13.846

8.747

8.471

7.768

7.461

7.567

6.688

24.53
_
45155

23.03
6.022
62805

22.54
1.483
69325


21.76
2.398
80388

20.05
0.503
90516

18.74
-0.217
104575

17.86
2.474
135641

15


Tỷ trọng ĐT ngành CN(%)
Tỷ trọng GDP ngành
CN(%)
H1(CN)
Tổng vốn ĐT ngành DV
Tỷ trọng ĐT ngành DV(%)
Tỷ trọng GDP ngành
DV(%)
H1(DV)

39.228


42.438

41.558

42.462

42.311

42.981

44.313

36.73
_
54018
46.926

38.49
1.708
72242
48.815

39.47
-0.814
83359
49.971

40.09
1.385

94225
49.77

41
-0.157
107452
50.228

40.97
-21.641
120319
49.452

41.77
1.587
149987
48.999

38.74
_

38.48
-5.998

37.99
-1.86

38.15
-0.955


38.95
0.43884

40.29
-0.449

40.37
-4.613

Các hệ số co giãn của ngành nơng nghiệp nhìn chung đều mang giá trị dương,
Điều đó có nghĩa là việc giảm tỷ trọng đầu tư đã tác động thuận chiều đến giảm tỷ
trọng nơng nghiệp. Trong đó năm 2005, hệ số co jãn có giá trị nhỏ nhất 0.503.
Điều đó có nghĩa là để tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm 1% phải giảm tỷ trọng đầu
tư nông nghiệp 0.503%. Hay ngược lại chỉ cần giảm tỷ trọng nông nghiệp 0.503%
đã làm tỷ trọng nông nghiệp 1%. Tức là năm mối quan hệ giữa tỷ trọng đầu tư và
tỷ trọng GDP là rất chặt chẽ, đầu tư có tác động mạnh đến CDCC nông nghiệp.
Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, để thích ứng với vấn đề độ trễ của đầu tư
(do đặc trưng của 2 ngành này là các công trình đẩu tư thường lớn hơn và có thời
gian kéo dài hơn đầu tư cho nông nghiệp) xét hệ số co giãn theo giai đoạn. Khi đó,
đối với ngành cơng nghiệp, giai đoạn 2000-2004, H1=0.909, Giai đoạn
2005-2007, H1=2,519. H1(CN) >0. Kết luận đầu tư các tác động đến thay đổi tỷ
trọng công nghiệp và giai đoạn mức độ tac động giảm trong 2 giai đoạn. Đối với
ngành dịch vụ, H1(2000-2004)= -3.979; H1(2005-2007) = -0.691. H1<0 tức là
mặc dù tỷ trọng đầu tư cho ngành dịch vụ không ngừng gia tăng, tỷ trọng GDP
của ngành lại giảm. Điều đó có nghĩa là việc đầu tư cho khu vực dịch vụ không
mang lại hiệu quả cho việc nâng cao tỷ trọng ngành.
1.2Đánh giá hiệu quả của việc tăng tỷ trọng đầu tư của ngành tăng trưởng kinh tế
Bảng: Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế

2000

Tỷ trọng ĐT ngành
NN (%)
Tỷ trọng ĐT ngành
CN(%)
Tỷ trọng ĐT ngành
DV(%)
Tốc độ tăng GDP
H2(NN)

2002

2003

2004

2005

2006

2007

13.846

8.747

8.471

7.768

7.461


7.567

6.688

39.228

42.438

41.558

42.462

42.311

42.981

44.313

46.926
6.79
_

48.815
7.08
-8.62249

49.971
7.34
-0.85923


49.77
7.79
-1.35364

50.228
8.44
-0.47365

49.452
8.23
-0.57099

48.999
8.48
-3.82406

16


H2(CN)
H2(DV)

_
_

1.915934
0.942519

-0.56466

0.644859

0.354811
-0.06561

-0.04262
0.110286

-0.63642
0.620925

1.020205
-0.30156

Theo bảng số liệu trên có thể thấy việc phân bổ đầu tư vào hai khu vực nông
nghiệp và phi nơng nghiệp tn thủ theo đúng địi hỏi của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Cụ thể, H2(NN)<0. Điều đó có nghĩa là để đẩy nhanh tốc độ của tăng trưởng
kinh tế, tỷ trọng đầu tư vào khu vực nông nghiệp giảm qua các năm. Trong đó
năm 2002, để góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 1%, tỷ trọng đầu tư của
khu vực nông nghiệp đã giảm 8.6%. Đây là mức giảm mạnh nhất trong cả thời kỳ.
Xét theo cơ cấu 3 ngành kinh tế, tương tự phần trên, tính hệ số của cơng nghiệp
và nơng nghiệp theo giai đoạn. Đối với ngành công nghiệp, H2(2000-2004)=0.56.
H2(2005-2007) = 9.984. H2>0 cho thấy sự gia tăng tỷ trọng của đầu tư đã đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế. Đối với ngành dịch vụ, H2(2000-2004) = 0.412.
H2(2005-2007) = - 5.162 <0. Giữa đầu tư vào ngành dịch vụ và tăng trưởng kinh
tế chưa có mối quan hệ thuận chiều mạnh mẽ. Nói cách khác đầu tư vào khu vực
dịch vụ chưa thu được những hiệu quả tương xứng với phần bỏ ra.
2. Đánh giá chung
Trong chủ trương phát triển đất nước ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã luôn coi
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là giải pháp để tăng trưởng và phát triển đất

nước. Phục vụ thiết thực cho chủ trương đó, trong thời gian qua cơ cấu vốn đầu tư
đã thay đổi theo hướng đầu tư có tọng tâm, trọng điểm. Trong đó tỷ trọng đầu tư
cho ngành dịch vụ là cao nhất và tỷ trọng đầu tư cho ngành nơng nghiệp là thấp
nhất. Điều đó đã mang lại một diện mạo mới cho nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế nhìn
chung có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp liên tục
giảm qua các năm. Tương đương với đó là sự tăng lên không ngừng của khu vực
phi nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo ra các hiệu ứng tích cực
cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì cao qua các năm. Nếu như tốc
độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta trước đổi mới, thời kỳ 1977-1980 chỉ có gần
0,2%, thì từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế ln có mức tăng trưởng cao. Cụ thể:
Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1986-1990 đạt xấp xỉ 4,5%; thời kỳ 1991-1995 đạt
8,2%, thời kỳ 1996-2000 đạt 7%, thời kỳ 2001-2005 là 7,5%. Giải quyết tốt hơn
vấn đề công ăn việc làm. Nâng cao thu nhập. Cải thiện đời sống nhân dân. Tạo
điều kiện cho các chủ thể trong nền kinh tế phát huy các tiềm năng vốn có. Có thể
thấy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã và đang từng bước hiện thực hóa các
mục tiêu mà Đảng đề ra. Tuy nhiên, chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế không
cao. Cụ thể: Thứ nhất, tốc độ chuyển dịch chậm. Điều này tuy không tạo ra những
thay đột ngột cho nền kinh tế. Nhưng trong điều kiện tồn cầu hóa như hiện nay
chuyển dịch chậm kéo theo nguy cơ tụt hậu. Thứ hai, trong khu vực phi nông
nghiệp, tỷ trọng ngành dịch vụ liên tục giảm trong một thời gian dài trong khi tỷ
trọng đầu tư cho khu vực nay luôn tăng và chiếm mức cao nhất. Điều đó cho thấy
đầu tư vào ngành này chưa hiệu quả. Có thể kết luận thực trạng phát triển đói với
mỗi ngành là: Trong ngành dịch vụ, các loại dịch vụ cao cấp có giá trị gia tăng lớn
17


chưa phát triển mạnh. Trong nông nghiệp, sản xuất chưa gắn kết có hiệu quả với
thị trường; việc đưa khoa học, cơng nghệ vào sản xuất cịn chậm; cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và nơng thơn cịn lúng túng. Trong cơng nghiệp, ít
sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ và chất xám cao; công nghiệp công nghệ cao

phát triển chậm; một số sản phẩm cơng nghiệp có sản lượng lớn cịn mang tính gia
cơng, lắp ráp, giá trị nội địa tăng chậm; công nghiệp bổ trợ kém phát triển; tốc độ
đổi mới cơng nghệ cịn chậm.
Phần B: Thực trạng tác động của đầu tư tới dịch cơ cấu vùng,lãnh thổ
I.Vài nét khái quát về cơ cấu vùng lãnh thổ Việt Nam
Vào những năm đầu thế kỷ XXI lãnh thổ Việt Nam được các cơ quan chức năng
chia thành 6 vùng kinh tế -xã hội: Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông
Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,
Đồng bằng sơng Cửu Long.
Ở mỗi miền,có một vùng kinh tế trọng điểm đóng vai trị là hạt nhân thúc đẩy
các vùng xung quanh cùng phát triển .Nước ta có 3 vùng kinh tế trọng điểm:
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Phân tích cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế người ta thường xem xét cơ cấu lãnh thổ cả
nước,cơ cấu lãnh thổ vùng lớn, cơ cấu lãnh thổ của tiểu vùng trong vùng lớn,cơ
cấu lãnh thổ của tỉnh và của huyện.Trong giới hạn nghiên cứu,xin phép được
trọng tâm vào 6 vùng kinh tế lớn mà trong đó hạt nhân là các vùng kinh tế trọng
điểm của đất nước.
1.Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm các tỉnh,thành phố: Hà Nội – Hưng
Yên - Hải Dương – Hải Phòng - Quảng Ninh – Vĩnh Phúc –Hà Tây - Bắc Ninh
Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền
Bắc và của cả nước Việt Nam. Ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực
có đào tạo tốt, có điểm thi vào các trường đại học cao đẳng cao nhất nước và tỷ lệ
sinh viên trên đầu người cao nhất nước.
2.Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (VKTTĐMT) bao gồm các tỉnh: Huế, Đà
Nẵng (hạt nhân), Quảng Ngãi,Quảng Nam,Bình Định,Phú n và Khánh Hịa.
Đây là vùng kinh tế lớn thứ 3 tại Việt Nam. Đặc trưng của vùng này là các khu

kinh tế cảng biển tổng hợp. Các khu kinh tế gồm có: khu kinh tế mở Chu Lai, khu
kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây, khu kinh tế Nhơn Hội và khu vực Cam
Ranh - Vân Phong. So với hai vùng kinh tế trọng điểm còn lại, vùng kinh tế này
yếu kém hơn về mặt hạ tầng và nhân lực nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển
trung chuyển lớn và phát triển du lịch nghỉ dưỡng (chiếm phần lớn các dự án khu
nghỉ mát biển của cả nước) và di sản thế giới (khu vực Trung Bộ chiếm 6/7 di sản

18


thế giới tại Việt Nam). Khu vực này cũng có tiềm năng về phát triển cơng nghiệp
đóng tàu và dịch vụ hàng hải.
3.Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
VKTTĐPN nằm ở vị trí độc đáo.Bao gồm các tỉnh : Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và
Tiền Giang (Tiền Giang thuộc miền Tây Nam Bộ).
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vai trị rất quan trọng, đóng góp lớn nhất
cho kinh tế Việt Nam, chiếm gần 60% thu ngân sách, trên 70% kim ngạch xuất
khẩu và là khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hàng đầu cả nước, tỷ lệ
dân số đô thị gần 50% (so với mức bình quân 25% của cả nước). Đây là một vùng
kinh tế năng động, tập trung nhiều nguồn lực phát triển.
II.Thực trạng đầu tư phát triển tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng,lãnh thổ
1. Cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế
Cơ cấu đầu tư theo địa phương và vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo khơng
gian, phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc phát huy lợi thế
cạnh tranh của từng vùng. Một cơ cấu đầu tư theo địa phương hay vùng lãnh thổ
được xem là hợp lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ , tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển thống

nhất và những cân đối lớn trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành.
Ta có bảng số liệu cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế trong giai đoạn 1996-2004 như
sau:
Bảng 6: Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế
1996-2000

2001-2004

Đơn vị %
1996-2004

Trung du và miền núi phía Bắc

7,0

7,1

7,05

Đồng bằng Bắc Bộ

28,3

27,7

28

Bắc Trung Bộ và
duyên hải miền Trung


16,4

17,4

16,9

Tây Nguyên

4,1

4

4,05

Đông Nam Bộ

31,3

30,6

30,95

Đồng bằng sông Cửu Long

12,9

13,2

13,05


Loại Vùng

Phân theo lãnh thổ phát triển và kém phát triển:
Bảng 7: Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ phát triển và kém phát triển
Đơn vị %
Loại vùng
1996-2000
2001-2004
1996-2004
19


Vùng phát triển
Các vùng còn lại

62,7
37,3

61,6
38,4

62,1
37,9

Chung cả nước
100
100
100
Theo bảng 6,trong giai đoạn 1996-2000 đầu tư tập trung cho những vùng phát
triển như Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung, và Đông

Nam Bộ.Các vùng miền núi chỉ được đầu tư với nguồn vốn hạn hẹp.Đặc biệt Tây
Nguyên chỉ chiếm 4% trên tổng lượng vốn đầu tư.Năm 2001-2004 vốn đầu tư có
xu hướng giảm ở những vùng phát triển và tăng lên cho những vùng kém phát
triển song lượng tăng giảm là không đáng kể.Tuy vậy một vài năm trở lại đây các
vùng miền núi đã được trú trọng phát triển hơn.
Bảng 7 cho ta thấy,đầu tư tập trung chủ yếu vào vùng lãnh thổ có tính chất động
lực đó là 3 vùng kinh tế trọng điểm với lượng vốn lên tới hơn 60%.Trong khi đó
các vùng kém phát triển trải rộng trên phạm vi khoảng hơn 2700 xã,chủ yếu thuộc
các vùng miền núi,dân số khoảng 15 triệu người với tỷ lệ vốn đầu tư lại chỉ chiếm
hơn 1/3 lượng vốn đầu tư cả nước.
Đối với các vùng lãnh thổ, chúng ta đã thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư bằng
nguồn vốn ngân sách đối với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở
hạ tầng giao thơng thuỷ lợi, điện nước, cịn yếu kém...nhằm tạo điều kiện tốt hơn
cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư.
Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển kinh tế trọng điểm (84%
tổng vốn đầu tư), tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng
khác ngoài vùng phát triển. Nếu trong những năm đầu khi có Luật Đầu tư nước
ngồi, ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% vốn đầu tư, thì đến
hết năm 1998 các tỉnh phía Bắc đã thu hút được trên 30% số dự án trên 35% vốn
đầu tư. Đến nay tất cả các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có dự án
đầu tư nước ngồi.
Bên cạnh đó, chúng ta ln ln coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài,
cả ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu
tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư
phát triển, tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Vốn FDI đã lan đến tất cả các tỉnh và thành phố, kể cả những địa phương
nghèo, còn chậm phát triển như Điện Biên, Lai Châu, Đắc Nơng,…Vốn FDI đã
đóng góp 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra hơn 1,2 triệu việc làm trực tiếp,
góp phàn chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công

nghệ...
Cùng với việc giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, giảm chi phí đầu tư,
giải quyết những vướng mắc cụ thể cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài
nước, trong những năm gần đây đã ban hành hàng loạt các cơ chế chính sách
mang tính khuyến khích cao..., từng bước hạn chế và xoá bỏ các rào cản; đã tạo
ra nhiều khả năng huy động tốt hơn nguồn vốn từ khu vực dân cư, từ doanh
nghiệp nhà nước, từ tín dụng nhà nước và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
20


2.Những kết quả chuyển dịch
Các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa
phương,các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm
ở 3 miền được hình thành nhờ đầu tư phát triển. Nhịp độ tăng trưởng của các
vùng phát triển đều đạt trên mức trung bình cả nước, đóng vai trị tích cực thu
hút và kích thích các vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm đã
phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Hiện nay 3 vùng kinh tế trọng
điểm sản xuất khoảng trên 60% GDP, trên 2/3 sản lượng công nghiệp, thu ngân
sách và xuất khẩu. Các vùng kinh tế trọng điểm này cũng đảm bảo khối lượng
vận chuyển và ln chuyển trên 50% tồn quốc, có tốc độ tăng trưởng vận tải đạt
tốc độ cao.
Với những lợi thế phát triển của từng vùng, và sự hỗ trợ của Nhà nước đối với
những vùng khó khăn, mức độ đóng góp vào GDP của cả nước trong các vùng
như sau:
Bảng 8: Mức độ đóng góp vào GDP của từng vùng
Đơn vị: %

1999

Chuyển dịch cơ

cấu vùng 10
năm 1991-2000

Chuyển dịch cơ
cấu vùng 5 năm
1991-1995

Chuyển dịch
cơ cấu vùng 5
năm
1996-2000

1,5%

1,2%

-0,8

-0,5

-0,3

10,2%

7,4%

6,3%

-3,9


-2,8

-1,1

18,6%

20,5%

20,3%

+1,7

+1,9

-0,2

Bắc Trung Bộ
DH miền
trung

9,1%

9,1%

7,8%

-1,3

0,0


-1,3

8,4%

8,0%

8,2%

-0,2

-0,4

+0,2

Tây nguyên

3,2%

2,8%

3,6%

+0,4

-0,4

+0,8

Đông nam bộ
ĐBS Cửu

Long

24,6%

31,5%

32,3%

+7,7

+6,9

+0,8

23,8%

19,2%

20,2%

-3,6

-4,6

+1,0

Cơ cấu vùng
lãnh thổ GDP
(%)


1990

1995

Tây Bắc Bộ

2,0%

Đông Bắc Bộ
ĐB Sơng
Hồng

Vùng cịn khó khăn cũng có những tiến bộ đáng khích lệ, mức sống của bộ phận
đáng kể nhân dân được nâng lên. Các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ
đã có tác động tích cực, theo con số tổng hợp sơ bộ, từ năm 1992 đến 1998 tổng
vốn Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền Núi ước vào
21


khoảng 3000 - 3200 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư cho các chương trình quốc gia
khoảng trên 2000 tỷ đồng và đầu tư cho định canh định cư khoảng trên 500 tỷ
đồng (cả thời kỳ 1986-1997 khoảng trên 800 tỷ đồng). Nhiều mặt kinh tế - xã hội
của miền Núi đã có sự chuyển biến tốt. Dân trí của một bộ phận nhân dân được
nâng lên, khai hoang được khoảng 200 nghìn ha, trong đó đưa vào sử dụng để
trồng cây lâu năm khoảng 70 - 80%, diện tích rừng được khoanh nuôi khoảng 3
triệu ha, trồng mới được khoảng 65-70 vạn ha, hình thành nhiều điểm dân cư mới.
Hầu hết các xã miền núi đã có cơ sở y tế và trường học (tuy nhiên nhà tạm còn
nhiều).
Các vùng chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh.Kinh tế vùng ngày
càng thể hiện một vai trò rất lớn trong nền kinh tế.Đóng góp vào tăng trưởng mỗi

vùng đã có nhiều cải thiện.Ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được tiềm
năng lợi thế của mình nhờ đó tăng trưởng khá nhanh.Được sự hỗ trợ của nhà nước
với nguồn vốn đầu tư phát triển các vùng kinh tế cịn khó khăn đang từng bước
vươn lên,tiếp tục có những bước phát triển khá,đời sống kinh tế xã hội được cải
thiện đáng kể.Sau đây là những con số đáng được kể đến:
Vùng

1999-2000

2001-2003

2005

Tỷ trọng %
Vùng núi và trung du Bắc Bộ
Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng Đông Nam Bộ
Vùng đồng bằng sông Cửu Long

100
7,5
20,3
16
3,6
32,3
20,2

100

6,23
23,32
14,65
4,04
32,7
19,06

100
5,54
23,45
13,75
3,57
35,06
18,65

Bảng 10: Tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng
III. Đánh giá chung những tác động của hoạt động đầu tư đến các vùng
kinh tế
1.Những tác động tích cực
1.1 Bước đầu phát huy lợi thế so sánh của từng vùng,hình thành các vùng
sản xuất hàng hóa:
Trong những năm qua Nhà nước ta đã có chính sách phân bổ cơ cấu đầu tư
tương đối hợp lý. Hàng loạt các cơng trình trọng điểm quốc gia được xây dựng lên
với nguồn vốn đầu tư rất lớn. Các cơng trình này đều được xây dựng phù hợp với
điều kiện tự nhiên xã hội của vùng và còn phát huy đươc lợi thế so sánh. Các cơng
trình như Thủy điện Sơn La, Khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất tập
trung phát triển cơng nghiệp lọc dầu,hóa dầu,hóa chất…phát huy được lợi thế của
vùng và đóng góp lớn cho kinh tế đất nước. Ngồi ra các vùng có tiềm lực khác
nhau lại được đầu tư để phát triển những ngành nghề sản phẩm khác nhau. Như
22



trung du và miền núi phía Bắc dễ dàng chuyên mơn hóa về cây trồng và chế biến
cây cơng nghiệp,Tây Nguyên ,Đông Nam Bộ phát triển các vùng Công nghiệp sản
xuất hàng hóa bởi thế mạnh là vùng thích hợp với nhiều loại cây công
nghiệp.Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long thì chun mơn hóa về lương
thực, thực phẩm,là 2 vựa lúa lớn nhất cả nước nên chú trọng đầu tư vào đã đem lại
giá trị xuất khẩu cao.
Trong nơng nghiệp đã đã hình thành nhiều vùng sản xuất nơng, lâm, thuỷ sản
hàng hố quy mơ lớn cả ở khu vực đồng bằng và trung du, miền núi như các vùng
sản xuất lương thực tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông
Hồng, các vùng nuôi trồng thuỷ sản ở ven biển, các trung tâm dịch vụ nghề cá ở
vùng đồng bằng ven biển; các vùng cây cơng nghiệp hàng hố xuất khẩu cà phê,
cao su, điều, dâu tằm ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và chè, quế, hồi... ở Trung Du
miền núi Bắc Bộ. Vùng cây ăn quả trước đây mới hình thành ở đồng bằng Bắc Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long nay đã phát triển cả ở Trung Du miền núi; đóng góp
tích cực trong việc phát triển và ổn định đời sống các tầng lớp dân cư..
Gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước
và ngồi nước. Các làng nghề ở nơng thơn được khơi phục và phát triển mạnh.
Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được triển khai xây
dựng và đi vào vận hành theo quy hoạch. Điều này có tác động tích cực đến sự
nghiệp phát triển cơng nghiệp nói chung và của vùng nói riêng. Hiện tại số khu
công nghiệp, khu chế xuất được cấp giấy phép và đang triển khai ngày càng cao.
Nhìn chung các khu cơng nghiệp triển khai theo đúng định hướng và qui hoạch và
đã phát huy tác dụng, nổi bật là 16/17 khu công nghiệp được ưu tiên sớm tại vùng
kinh tế trọng điểm phía nam, một số khu được triển khai ở vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc và miền Trung có chậm hơn. Các khu cơng nghiệp của các tỉnh cịn
lại nói chung đều dành cho cả cơng nghiệp trong nước và nước ngồi, hình thành
ban đầu như những điểm tập trung công nghiệp. Xu thế phân bố công nghiệp đang
được quy hoạch theo hướng mở rộng quy mô và địa bàn, tăng năng lực và nâng

cao hiệu quả trên các vùng: cả vùng phát triển và một số nơi ở vùng chậm phát
triển, ở cả đô thị và một số vùng nơng thơn. Ngồi các xí nghiệp quy mơ nhỏ gắn
với cơ sở nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp, vật liệu xây dựng và khai khống ở
địa phương, cơng nghiệp được tập trung hơn vào các ngành then chốt, hướng tới
sự phân bố trải rộng và liên kết theo quy mơ tồn quốc và khu vực, rõ nhất là các
ngành điện, xi măng và vật liệu xây dựng, sắt thép, dầu khí, sản xuất một số hàng
tiêu dùng. Khống sản được chú trọng nhiều ở những địa phương nào có thế mạnh
về nó.Như than ở quảng Ninh thì ở đó được đầu tư xây dựng các hầm mỏ,nhà máy
để khai thác chế biến.Gang thép ở Thái Nguyên ,….và rất nhiều những lợi thế về
tài nguyên ở mỗi vùng mang lại lợi ích kinh tế lớn.Đầu tư phát triển giúp mỗi
vùng có thể phát triển kinh tế bền vững,liên kết với các vùng miền địa phương
khác tạo thành một chỉnh thể đồng nhất cùng phát triển.
1.2 Các vùng kinh tế trọng điểm ngày càng phát huy vai trò là các “cực tăng
trưởng” của nền kinh tế

23


Trong thời gian qua,ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được tiềm năng lợi
thế của mình nhờ đó tăng trưởng khá nhanh.Hiện nay các vùng kinh tế trọng điểm
đóng góp khoảng 50% GDP của cả nước thời kỳ 1996-2000 và tăng lên 63,16%
vào năm 2005.đóng góp khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 73% về thu
ngân sách nhà nước,75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị gia
tăng khu vực dịch vụ.
Ta có thể thấy rõ sự phát triển của 3 vùng kinh tế trọng điểm qua bảng sau:
Đơn vị : %
Các vùng

2003-2006


2010(dự tính)

Vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung
Vùng kinh tế trọng điểm miền
Nam

21

23-24

2020(dự
tính)
28-29

5

5,5

6,5

36

40-41

43-44

Bảng : Tỷ trọng đóng góp vào GDP của 3 vùng kinh tế trọng điểm

1.3 Tạo điều kiện phát triển các vùng khó khăn:
Đầu tư trong những năm qua đã góp phần giải quyết phần nào sự mất cân đối
trong phát triển giữa các vùng miền.Một điều rất rõ ràng đồng bằng có lợi thế phát
triển kinh tế xã hội hơn nên thu hút được lượng vốn đầu tư lớn.Phát triển kinh tế
rất nhanh. Các vùng miền núi với địa hình phức tạp,điều kiện tự nhiên khơng ưu
đãi rất khó khăn trong phát triển kinh tế do đó việc cung cấp vốn hay thu hút đầu
tư là tương đối khó.Song hoạt động đầu tư trong những năm qua đã đến với từng
vùng miền,từng địa phương trong cả nước.Ở mỗi nơi dù với lượng vốn ít hay
nhiều cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của vùng và phát triển kinh tế.Bằng
việc xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu,những con đường như những cầu nối huyết
mạch giúp giao lưu kinh tế giữa các địa phương.Các vùng miền núi,hải đảo là
những vùng với vị trí địa lý phức tạp do đó phát triển những ngành thế
mạnh,những ngành với nguồn lực tự nhiên sẵn có.Kết hợp với một chiến lược
phát triển đúng đắn sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi đầu tư.Các dự án đầu tư đến
lượt nó sẽ giải quyết được phần nào vấn đề việc làm cho những lao động trong
vùng,sẽ tạo nên những cơ sở vật chất kỹ thuật mới cho nền kinh tế,từng bước đưa
địa phương phát triển.
Theo số liệu thống kê từ năm 1991 đến 2005 lượng vốn đầu tư cho những tỉnh
miền núi tăng và đóng góp vào GDP của các tỉnh này cũng tăng đáng kể.Cơ cấu
kinh tế vùng đã có sự chuyển dich đáng kể,những vùng miền núi khơng cịn là
gánh nặng của đất nước mà đã có đóng góp đáng kể vào Tổng sản phẩm quốc gia.
2.Những tác động tiêu cực
2.1 Làm gia tăng khoảng cách giữa các vùng

24


Tuy những năm gần đây vốn đầu tư đã được chú trọng hơn cho các vùng miền
núi,những vùng kém phát triển song thực tế còn chưa cao.Vốn tập trung quá nhiều
cho những vùng có điều kiện tự nhiên ưu đãi đôi khi trở thành theo phong trào và

dần dần sẽ không thu được hiệu quả kinh tế cao.Nguồn lực ở mỗi địa phương là
có hạn,vì thế phải biết mở rộng ra những vùng khác tận dụng thế mạnh của từng
vùng.
Mặc dù những năm qua đã cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng,
nhưng tỷ lệ đầu tư của các vùng miền Núi phía Bắc, Duyên hải Miền Trung, vùng
Tây Nguyên vẫn còn ở mức khiêm tốn (chỉ ở mức từ 8 đến 12% tổng mức đầu tư
toàn xã hội), vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng Đồng bằng sông Hồng
(khoảng 24%) và vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%). Đầu tư cho các cơng trình
liên vùng, liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương.
Địa phương
GDP bình qn
Khoảng cách so với
(nghìn đồng, giá hiện tỉnh Hà Giang (lần)
hành)
Năm tỉnh, thành phố giàu
nhất
50.710,3
29,46
Bà Rịa – Vũng Tàu
14.516,0
8,43
Thành phố Hồ Chí Minh
11.504,4
6,68
Hà Nội
8.224,2
4,78
Bình Dương
7.031,8
4,09

Đà Nẵng
Năm tỉnh nghèo nhất
2.334,2
1,36
Lào Cai
2.028,3
1,18
Sơn La
1.992,9
1,16
Lai Châu
1.753,3
1,02
Bắc Cạn
1.721,2
1,00
Hà Giang
Bảng : GDP bình quân đầu người các địa phương
Bảng trên thể hiện sự thiếu cân đối trong phát triển kinh tế ở nhiều địa phương
trong cả nước.
Trong những năm vừa qua,q trình đơ thị hóa diễn ra khá nhanh chóng,những
khu đơ thị mọc lên cùng với nó là những sức ép đè nặng.Dân số tập trung quá
đông ở những vùng kinh tế phát triển,ngược lại,lại quá thưa thớt ở những vùng
nơng thơn hay miền núi.Đơ thị hóa là một sự chuyển dịch rất tốt song nếu đơ thị
hóa tập trung q nhiều ở một khu vực thì chính nó lại tạo ra quá nhiều sức
ép,những vấn đề xã hội nổi cộm và chắc chắn lại hao tốn sức lực và tiền của.ở
những vùng có địa hình tự nhiên khơng ưu đãi ,thưa thớt về nguồn vốn đầu
tư,thưa thớt về dân số,thưa thớt nhà máy,cơng trình…trong khi đó tài ngun lại
sẵn có và khơng được khai thác sử dụng hợp lý.Mà thực chất rằng phát triển đơ thị
nên tìm cách đưa người nghèo vào những cộng đồng bao quanh các khu đơ thị

mới hơn là sự phân hố.Sự gần gũi của các tầng lớp nghèo, thu nhập trung bình
với khu vực dân cư giàu có hơn sẽ đem lại lợi ích cho cả hai phía: Người giàu
25


×