Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ĐỀ TÀI " QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA TỪ 1991 ĐẾN NAY " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.87 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Liên Bang Nga (LBN) khi còn là một trong 15 nước cộng hòa liên bang
xã hội chủ nghĩa Xôviết, đã luôn luôn có tiếng nói quyết định trong hầu hết các
công việc nội trị và giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Ngày nay với tư
cách là “quốc gia kế thừa” Liên Xô cũ, tuy không còn đối trọng-siêu cường như
Liên Xô trước đây nhưng LBN vẫn là một chủ thể quan trọng trên bàn cờ địa –
chính trị quốc tế nói chung và ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng.
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, các nước lớn
thông qua việc tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại, đang ngày càng thể hiện
vai trò chi phối xu hướng phát triển của đời sống quốc tế. Đó cũng là điều dê
hiểu, bởi những nước này là những quốc gia khổng lồ về diện tích, về dân số
hoặc là cường quốc về kinh tế. Và LBN là một quốc gia như vậy.
Nhờ thực hiện Chính sách Đối ngoại một cách đúng đắn và triệt để đã
mang lại cho nền kinh tế LBN những khởi sắc, từng bước thoát ra khỏi khủng
hoảng. Dần lấy lại được vị thế của một nước lớn của mình, khiến tất cả các quốc
gia khi tiến hành thực hiện chính sách đối ngoại của mình đều phải xem xét tới
LBN. Quan hệ đối ngoại của LBN và nhiều cường quốc khác trên thế giới có
nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Vậy Chính sách Đối ngoại của LBN từ khi 1991 đến nay có gì đặc biệt,
việc tổ chức thực hiện như thế nào mà hiệu quả mang lại lại to lớn như vậy, tiểu
luận sẽ từng bước làm rõ. Đồng thời tiểu luận cũng đúc rút ra những kinh
nghiệm cho Việt Nam, khi mà Việt Nam cũng đang trên con đường phát triển
hội nhập, việc tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại là vô cùng quan trọng và
có yếu tố quyết định trong việc thành bại của một quốc gia dân tộc.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về Chính sách đối ngoại của LBN nhưng
chưa có đề tài nào đi sâu làm rõ quá trình tổ chức thực hiện chính sách đối
ngoại, một số cuốn sách đã đề cập tới vấn đề này như “Chính sách đối ngoại của


một số nước lớn trên thế giới” Chủ biên Phạm Minh Sơn đã viết về Chính sách
đối ngoại của LBN nhưng chưa đi sâu làm rõ theo hướng tổ chức thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Tiểu luận với mục đích nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện chính sách
đối ngoại của LBN, làm sáng rõ từng khâu thực hiện nhằm mang lại cho người
đọc cái nhìn tổng quan toàn diện hơn về chính sách. Rút ra những bài học, kinh
nghiệm thực tế cho Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi
Đối tượng của tiểu luận là quá trình tổ chức thực hiện chính sách của
LBN.
Phạm vi nghiên cứu từ năm 2000 khi Putin chính thức làm tổng thống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu dùng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà hạt
nhân là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn
sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp so sánh, lập luận, phương
pháp diên dịch quy nạp, đối chiếu…
6. Những đóng góp khoa học của tiểu luận
Cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan toàn diện và sâu sắc về vấn
đề tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại của LBN. Tìm ra những điểm chung
điểm khác biệt và cả điểm tiến bộ trong chính sách đó.


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận làm sáng rõ vấn đề lý luận của Chính sách đối ngoại LBN, tìm
ra những nguyên lý tổ chức thực hiện trong đó, đồng thời làm sáng rõ vấn đề về
mặt lý luận. Mang lại cho người đọc những kinh nghiệm thực tiên, những cách
làm có thể áp dụng vào thực tiên khi tổ chức thực hiện một chính sách nào đó.
8. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương, cụ thể là:
Chương 1.Một số vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện và Chính sách đối

ngoại của Liên Bang Nga
Chương 2. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện Chính sách đối ngoại
của Liên Bang Nga.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện Chính
sách đối ngoại của Liên Bang Nga. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA

1.1. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CƠNG.

1.1.1 Khái niệm tở chức thực hiện và vị trí của tổ chức thực hiện trong quy
trình thực hiện Chính sách công.
Khái niệm thực hiện chính sách là giai đoạn biến các ý đồ chính sách
thành những kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ qua
trong bộ máy nhà nước, nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Một chính sách dù được hoạch định tốt đến đâu nhưng nếu không đưa ra
thực hiện, hoặc thực hiện nhưng có kết quả kém thì cũng không có ý nghĩa thực
thi. Đối với nhân dân kết quả thực tế của chính sách là quan trọng hơn ý định
ban đầu của chính sách đó. Đích đến của các chính sách là tạo ra những thay đổi
thực tiên, do đó thực hiện tốt là yêu cầu tất yếu cho thành công của chính sách.
Vì vậy, thực hiện chính sách có ý nghĩa quyết định đối với việc thành công hay
thất bại của một chính sách và luôn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Giai đoạn thực hiện có tầm quan trọng bởi ba lý do sau: Một là, đã là quá
trình thực thi nội dung chính sách dưới tác động của nhiều yếu tố. Hai là, thong
tin nhận được trong quá trình triển khai chính sách sẽ giúp đánh giá lại các mặt
của quyết định chính sách và thay đổi nó sau này. Ba là, sự vận động của chính
sách từ lý thuyết sang giai đoạn triển khai cụ thể dẫn đến sự nhìn nhận lại qua

đánh giá và xây dựng lại chính sách.
Tóm lại, thực hiện chính sách là việc tiếp nối và chịu sự quy định của giai
đoạn hoạch định chính sách, song không phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả công


tác hoạch định mà có vị trí độc lập riêng và ý nghĩa quyết định với toàn bộ quy
trình chính sách.
1.1.2 Các bước tổ chức thực hiện Chính sách công
Thứ nhất, lựa chọn cơ quan thực hiện chính sách. Trong bước này bao
gồm bốn bước nhỏ sau: một là lựa chọn cơ quan chủ chốt thực hiện chính sách,
hai là lựa chọn cơ quan phối hợp chính sách, ba là hình thành mới quan hệ phân
công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách, bốn là xác định đối
tượng chịu tác động của chính sách.
Thứ hai là tuyên truyền giải thích chính sách. Nhận thức của mỗi người là
khác nhau vậy nên thái độ của mỗi người đối với chính sách cũng khác. Vậy các
cơ quan phải tuyên truyền, chuẩn bị dư luận cho thực hiện chính sách để mọi
người hiểu đồng tình và ủng hộ.
Thứ ba là triển khai thực hiện. Để làm tốt bước này cần làm tốt những
điều sau đây: Có kế hoạch thực hiện chu đáo, cần phát huy tính chủ động trong
tổ chức thực hiện, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
tham gia thực hiện chính sách. Hơn nữa cần có sự phối hợp thực hiện các chính
sách, giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình thực hiện chính sách.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA.

1.2.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của Liên Bang Nga.
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
LBN nằm ở miền đông Châu Âu và miền bắc Châu Á, diện tích trên 17
triệu km2, rộng nhất thế giới, có đường biên giới chung với 14 nước, tổng chiều
dài đường biên giới gần 40 nghìn km.
Trên lãnh thổ LBN có các miền địa hình khác nhau. Khu vực giữa dãy

Uran và Ban tích là đồng bằng Bắc Âu, phía nam là đồng bằng rộng lớn, màu


mỡ; phía đông dãy Uran là vùng Sibiri, vùng viên đông mênh mông, giữa biển
Đen và biển Caxpi là dãy núi Cápcadơ… nhìn chung, lãnh thổ thấp về phía tây,
cao dần về phía đông. Hệ thống sông ngòi khá phát triển.
LBN có nguồn tài nguyên giàu có và rất phong phú: có trữ lượng lớn về
dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại đen (sắt, mangan), kim loại màu, vàng,
kim cương, quặng phóng xạ… Miền đồng bằng đất đen Đông Âu có độ phì
nhiêu cao, đồng bằng tây Sibiri kém màu mỡ hơn nhưng rộng bao la, thuận lợi
cho canh tác nông nghiệp. Tài nguyên rừng rất lớn, che phủ một nửa diện tích
đất nước, đặc biệt là các dải rừng taiga ở miền đông bắc.
Khí hậu LBN khá đa dạng, thay đổi từ bắc xuống nam, có từ băng giá, ôn
đới đến cận nhiệt đới, đại dương. Nhiệt độ trung bình tháng giêng từ -1 đến -50,
tháng 7 từ 1 đến 25 độ C. Lượng mưa trung bình hằng năm 100 – 1000mm.
Về dân cư, đến tháng 6-2000, Nga có khoảng 145,5 triệu người đứng thứ
6 thế giới. Ngoài ra có gần 25 triệu người Nga sống ở các nước thuộc Liên Xô
cũ và gần 2 triệu người Nga sống ở các nước khác. Mật độ dân cư thuộc loại
thấp nhất thế giới – 22 người/km2 nhưng phân bố không đồng đều, trên 80%
sống trên lãnh thổ Châu Âu. Tỷ lệ dân thành thị khá cao, trên 76%.
Tôn giáo chính ở Liên Bang Nga chủ yếu là đạo Chính thống, ngoài ra
còn có Thiên chúa giáo, Do thái, đạo Hồi…
1.2.1.2 Điều kiện kinh tế – xã hội
Nước Nga là một nước có sản lượng công nghiệp, nông nghiệp lớn trên
thế giới, là một trong những nước đứng hàng đầu trong sản xuất than, thép, dầu
lửa, xi măng. Cải tổ kinh tế từ năm 1985 đến 1991 do M.Goocbachốp tiến hành
đã chuyển nền kinh tế quản lý tập trung sang phi tập trung. Từ năm 1991, cải tổ
được đẩy mạnh thông qua việc áp dụng chính sách tư nhân hóa, thị trường tự do
và khuyến khích kinh tế đối với lực lượng lao động, điều này ảnh hưởng tới tất



cả các thành phần kinh tế. Thời gian đầu, nhiều hàng hóa cơ bản bị thiều do lưu
thông kém, lạm phát tràn lan và đồng rúp mất giá nhanh. Sau đó nền kinh tế thị
trường dần ổn định, cộng với việc dầu mỏ tăng giá mạnh, Nga hội nhập vào
kinh tế thế giới…nên sản xuất của Nga dần được khôi phục và phát triển.
Sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn do trước đây được tổ chức theo hình
thức nông trường quốc doanh hay nông trang tập thể. Quyền sở hữu và canh tác
đất đai tư nhân đã được áp dụng. Tuy đã thực hiện cơ khí hóa và được hỗ trợ
bởi nghành công nghiệp sản xuất phân bón lớn nhất thế giới, nông nghiệp của
nước Nga vẫn chưa sản xuất đủ lương thực cho nhu cầu trong nước do năng suất
thấp, ít kho bãi và các phương tiện vận tải. Các cây trồng chính của Nga là lúa
mạch, lúa mì, yến mạch, khoai tây, củ cải đường và cây ăn quả. LBN có trữ
lượng than lớn nhất thế giới, chiếm 1/3 khí đốt và 1/3 diện tích rừng thế giới.
LBN có các mỏ mangan, niken, chì, kẽm, vàng, bô xít, đồng… Tiềm năng thủy
điện cũng rất phong phú.
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế LBN đã phục hồi nhanh chóng. Nước
Nga bước ra khỏi khủng hoảng và bắt đầu phát triển tương đối ổn định. GDP
mỗi năm tăng trung bình 6%, đến năm 2006 GDP cua LBN đạt gần 1.000 tỷ
USD. Thị trường tài chính, tiền tệ ổn định, dự trữ vàng, ngoại tệ tăng nhanh.
Tính đến tháng 7- 2007 dự trữ ngoại tệ đạt trên 413 tỷ USD. LBN cũng thanh
toán trước thời hạn các khoản nợ từ thời Liên Xô cho câu lạc bộ Paris. Hiện nay
LBN được xếp vào danh sách 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
1.2.2 Bối cảnh lịch sư
LBN hình thành do sự phân rã của Liên Xô – một trong hai siêu cường
thế giới nửa cuối thế kỷ XX. Liên Xô sụp đổ, mô hình chính trị Liên Xô sụp đổ
khiến cho vị thế của nước Nga suy yếu nghiêm trọng, mô hình chính trị – văn
hóa – xã hội Nga gần như không có ảnh hưởng và lôi cuốn bất cứ một nước nào
trên thế giới.



Không gian chính sách địa chính trị của nước Nga bị thu hẹp. Buộc Nga
phải điều chỉnh các chiến lược chính trị – quân sự ở hai đại dương (rút khỏi căn
cứ quân sự ở Cuba và Việt Nam), phải từ bỏ ảnh hưởng ở các nước Đông Âu và
vùng bán đảo Bancăng, đã và đang bị Mỹ và các nước Tây Âu gạt bỏ ảnh hưởng
của Nga khỏi các nước thuộc Liên Xô.
Tiềm lực kinh tế – khoa học của Nga bị suy giảm lớn, tổng sản phẩm
quốc dân (GDP) không nằm trong mười quốc gia hàng đầu thế giới, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các nhóm ly khai sắc tộc, đặc biệt nhóm ly khai
người Trexnhia đã gây tổn thất nặng nề cho LBN về người và của trong thời
gian dài, để lại hậu quả to lớn đến sự bền vững thống nhất của Nga.
Mặt khác LBN kế thừa hầu hết các di sản mà Liên Xô để lại: tiềm lực
kinh tế, tiềm lực quân sự, tiềm năng và văn hóa, địa vị pháp lý quốc tế… Mặc
dù LBN mất đi vị thế siêu cường nhưng vẫn còn vị thế của một cường quốc lớn.
LBN vẫn là một trong năm ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc.
Nga kế thừa gần như nguyên vẹn kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của Liên
Xô, nhiều thành tựu về khoa học quân sự hạt nhân và công nghệ vũ trụ còn cao
hơn Mỹ. Nga duy trì hầu hết các mối quan hệ hữu nghị mà Liên Xô trước đây
đã xây dựng với các nước trên thế giới.
Lãnh thổ LBN rộng từ Châu Âu sang Châu Á, khả năng khống chế địa
bàn chính sách xung yếu của thế giới còn cao. Trên lãnh thổ rộng lớn đó, với
nguồn năng lượng than đá, dầu mỏ, thủy điện dồi dào, Nga có khả năng làm
khuynh đảo thị trường năng lượng thế giới.
Vì vậy Nga xây dựng chính sách đối ngoại của mình trong bối cảnh kế
thừa Liên Xô, mặt khác mất vị thế siêu cường khiến Nga phải có những điều
chỉnh lớn để xây dựng một chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình mới.


Quá trình phát triển chính sách đối ngoại hiện đại của Nga trải qua hai
giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn khủng hoảng và hình thành: từ tháng 12
năm 1991 đến tháng 5/2000, còn gọi là “giai đoạn Enxin”.
Tháng 12-1991 Gioocbachốp từ chức, Liên Xô tan rã, LBN thành một
chủ thể độc lập kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô trên trường quốc tế, Enxan
lên làm tổng thống Nga trong bối cảnh hết sức khó khăn, phức tạp cả về kinh tế,
chính trị xã hội cũng như đối nội và đối ngoại.
Suốt 9 năm làm tổng thống Nga, B.Enxin đã chuyển xã hội Nga từ mô
hình kinh tế – xã hội tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế – xã hội tự do.
Enxin đã phải đối đầu với nhiều khủng hoảng, chấn động hỗn loạn cả về kinh tế
lẫn xã hội.
Đây cũng là quá trình nước Nga chịu nhiều thử thách để hình thành 1
chính sách đối ngoại mới: phải từ bỏ chính sách siêu cường của Liên Xô để hình
thành chính sách đối ngoại phù hợp với thực lực hiện tại của Nga. Chính sách
mới này cố gắng giữ cho Nga có uy thế toàn cầu, tranh thủ được nguồn lực hợp
và sự hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế Nga, giữ cho vùng ngoại biên láng
giềng Nga không đối đầu với Nga, không lệ thuộc vào Mỹ.
Giai đoạn thứ 2 là giai đoạn hình thành và ổn định: Từ tháng 5-2000 đến
nay, còn gọi là “giai đoạn Putin”.
Ngày 7-5-2000, V.Putin lên làm Tổng thống Nga. Về đối nội. V.Putin
củng cố quyền lực thống nhất vào chính quyền trung ương và tổng thớng. Ơng
đã thành cơng trong việc điều hành 89 chủ thể của LBN, luật pháp hóa các hoạt
động của các đảng phái chính trị Nga, trấn áp giới tài phiệt âm mưu lũng đoạn
sự điều hành của nhà nước. V.Putin đã có nhiều biện pháp chấn chỉnh nền kinh


tế thị trường tự do của nước Nga, làm cho kinh tế Nga liên tục tăng trưởng và
ổn định.
Trên cơ sở đó, V.Putin đã hình thành và ổn định chính sách đối ngoại của
Nga, ngày càng phù hợp với tình hình mới, nhằm đảm bảo tăng cường vị thế
của Nga trên thế giới và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát

triển kinh tế xã hội của Nga.
1.2.3 Một số nội dung cơ bản của Chính sách đối ngoại.
1.2.3.1 Cơ quan tổ chức thực hiện chính sách
Tổng thống LBN giao cho Chính phủ LBN soạn thảo và đệ trình chính
sách, sau đó chuyển cho các Ban nghành có liên quan xem xét và cho ý kiến cụ
thể. Khi quá trình hoàn tất, chính sách được Tổng thống ký và được Chính phủ
ban hành. Chính phủ và Bộ ngoại giao là đơn vị trực tiếp thực hiện chính sách
đối ngoại trên mọi phương diện.
Vì Tổng thống LBN có nhiều thực quyền lớn như: bổ nhiệm thủ tướng
chính phủ dưới sự đồng ý của Đuma quốc gia. Các Phó thủ tướng và các bộ
trưởng do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Một số bộ chủ
chốt như Ngoại giao, Quốc phòng, Nội vụ… hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Tổng thống.
Bộ Ngoại giao sẽ có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại,
nhưng khi chính sách khi ban hành đều phải được sự phê chuẩn của Tổng thống.
1.2.3.2 Vấn đề chính sách, mục đích, đối tượng, phạm vi chính sách hướng
tới.
Hiện nay, LBN đang thi hành chính sách đối ngoại thực dụng và linh
hoạt, đa dạng hóa quan hệ trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, an ninh


quốc phòng, đồng thời tranh thủ hợp tác kinh tế với các đối tác khác nhau, tạo
môi trường hòa bình ổn định cho đất nước phát triển.
Tư tưởng chủ đạo của trong chính sách đối ngoại của LBN là bảo vệ kiên
quyết và triệt để lợi ích quốc gia dựa trên lập trường thực tiên và thực dụng
trong bối cảnh phức tạp chứa đựng nguy cơ mới và sự bất ổn định đang gia
tăng.
Mốc định hướng chính của toàn bộ hoạt động đối ngoại của LBN là tạo ra
những điều kiện thuận lợi tối đa nhằm bảo đảm an ninh và phát triển đất nước,
củng cố chủ quyền Nhà nước Nga, tăng phúc lợi cho nhân dân, phát triển nền

dân chủ và xã hội công dân cũng như vì sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
LBN cũng hướng tới việc khôi phục và tăng cường vị thế nước lớn của
mình, cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh vì nền dân chủ, công bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc và thực thi công pháp quốc tế.
Chính sách đối ngoại đó đã được thực hiện một cách nhất quán trong các
công việc cụ thể và những sáng kiến đối ngoại của LBN.
Trên các hoạt động đối ngoại đa phương: Ngay trong những năm 2000,
quan điểm thuộc về chủ trương của LBN đã được thể hiện đầy đủ trong các văn
kiện Hội nghị Thượng đỉnh thiên lien kỷ của Liên hợp quốc, trong đó có sự
tham dự của tổng thống Nga. Tại Liên hợp quốc từ năm 2000-2004, những sáng
kiến do Nga đề xuất đã khẳng định phần nào LBN trở thành một quốc gia chủ
đạo trong việc bảo vệ Công pháp quốc tế dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc
cũng như ưu thế trong những hoạt động tập thể nhằm vô hiệu hóa những nguy
cơ và thách thức của thế kỷ XXI.
Trước hết LBN góp phần quan trọng vào việc tìm kiếm lời đáp trả những
thách thức mới của an ninh quốc tế. Cùng với Tổ chức An ninh và Hợp tác
Châu Âu, EU, NATO và với các nước trong quan hệ hợp tác song phương, LBN


đã tham gia chấn chỉnh cuộc đấu tranh có hệ thống chống khủng bố quốc tế, tội
phạm có tổ chức, buôn bán vũ khí, buôn ma túy và buôn người bất hợp pháp.
Nhất là trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế, LBN đã tỏ rõ vai trò tiên tiến
của mình, bởi vì bản than Nga cũng là đối tượng bị các phần tử hồi giáo cực
đoan Trexnia lien tục khủng bố ở Matxcơva, Bexlan…
Nga đã không hề giảm bớt nỗ lực theo hướng giải trừ vũ khí, tập trung
chú ý vào các vấn đề không cho phép quân sự hóa khoảng không vũ trụ, không
cho phép phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và không để chúng lọt vào tay bọn
khủng bố, góp phần làm giảm căng thẳng xung quanh tính minh bạch của các
chương trình hạt nhân của Iran và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nga
triệt để ủng hộ vai trò trung tâm của Liên hợp quốc, coi đó là một trong những

nguyên tắc cơ bản của hệ thống quan hệ quốc tế tương lai đang hình thành. Vì
thế, việc củng cố vị thế Liên hợp quốc, tăng cường sức mạnh, uy tín và vai trò
thực tế của tổ chức này trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế vẫn là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của LBN.
Nga đã thực hiện nhiều chính sách nhằm củng cố các mối quan hệ quốc tế
không phải dựa trên quyền của kẻ mạnh với sự thống trị những quan điểm sức
mạnh đơn phương, mà là quyền lực tối thượng của Công pháp quốc tế và việc
giải quyết các vấn đề thế giới then chốt phải dựa trên cơ sở hợp tác đa phương.
Nhờ sự bảo vệ kiên quyết và nhất quán của những nguyên tắc được đa số
các nước dân chủ ủng hộ, đồng thời nhờ đường lối không đối đầu, Nga tránh
được sự gia tăng khủng hoảng quốc tế ở một số khu vực thế giới. Chính sách
cân bằng của Nga đã được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Chính được sự hỗ
trợ của Nga mà nhiều nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các vấn
đề quốc tế phức tạp đã được thông qua, nhất là ở Trung đông, Trung Á, Đông
bắc Á.


Tiến hành đường lối khẳng định những nguyên tắc đa phương trong chính
sách thế giới một cách nhất quán, Nga đã tích cực phát triển hợp tác với các thể
chế quốc tế khác nhau. Những thể chế có thể trở thành những thành phần của
một hệ thống quan hệ quốc tế mới đang hình thành trong thế kỷ XXI, trong đó
có nhóm G8, thường đưa ra những sáng kiến cơ bản.
Đối với các nước láng giềng thuộc Liên Xô cũ. Giữa LBN và các nước
này có mối quan hệ lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa. Một trong những ưu tiên
trọng tâm đối ngoại của LBN là việc hình thành không gian hợp tác và đối tác
láng giềng than thiện dọc theo chiều dài biên giới của mình. Trong bối cảnh đó,
việc chuyển sang sự lãnh đạo ở các cấp khác nhau và với tốc độ khác nhau diên
ra trong những năm gần đây trong không gian SNG có ý nghĩa nguyên tắc. SNG
đã chứng tỏ nó là một cơ chế phối hợp hợp hoạt động đa phương có ích trong
không gian hậu Liên Xô. Hoạt động của nó đã trở lên cụ thể hơn, tập trung vào

những hướng mà ở đó có khả năng cho hiệu suất cao nhất.
Năm 2000, Hiệp ước Nga – Bêlarút về thành lập nhà nước Liên bang có
hiệu lực. Tháng 9-2003, hiệp định về thành lập không gian kinh tế chung giữa
Nga, Ucraina, Belarut và Cadắctan đã được ký. Trong những năm đó, sự lien
kết chính trị - quân sự đã được củng cố giữa các thành viên Hiệp ước an ninh
tập thể, trên cơ sở đó đến năm 2003 đã thành lập một số tổ chức quốc tế khu
vực – Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể.
Tháng 6 – 2001, SCO với sự tham gia của hai cường quốc hạt nhân, ủy
viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là Nga và Trung Quốc cũng
như các nước chủ chốt của Trung Á đã được thành lập. Hiện nay, tổ chức này là
một cơ cấu khu vực phát triển, có khả năng giải quyết các vấn đề quan trọng
trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, kinh tế, đối phó với những nguy cơ thách
thức chung.


Tuy nhiên, Mỹ và các cường quốc Tây Âu muốn ảnh hưởng và lợi ích của
họ ở các địa bàn chính sách sát biên giới Nga. Ba nước Bantich đã kiên quyết
gia nhập EU và NATO, xu hướng chính trị gắn chặt với Tây Âu, xa rời Nga đã
lan mạnh từ các nước vùng ngoại Capcadơ, LBN đang hình thành một chính
sách đối ngoại mềm mỏng và tổng hợp để chặn đứng xu hướng này.
Đối với Châu Âu, trong khi ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng
giềng, LBN không quên rằng, phạm vi lợi ích chủ yếu về kinh tế, chính trị, quân
sự của Nga về mặt lịch sử tập trung ở Châu Âu. Do đó quan hệ Nga - EU và
Nga – NATO trong những năm qua có ý nghĩa nguyên tắc.
Mối quan hệ với EU – đối tác chính sách của Nga hiện nay bao trùm toàn
bộ lĩnh vực – từ kinh tế, năng lượng, khoa học và kỹ thuật, cho đến việc đối phó
với những nguy cơ thách thức mới. Hội nghị thượng đỉnh Nga – EU được tiến
hành mỗi năm hai lần có nội dung phong phú và đạt nhiều kết quả. Các biện
pháp tích cực được thực thi nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của việc
mở rộng EU đối với kinh tế Nga. Ngăn chặn việc tạo thành một khoảng trống

pháp lý trong mối quan hệ với các đối tác lâu đời trong số các thành viên mới
của EU.
Quan hệ với NATO đã có bước đột phá về chất lượng – Hội đồng Nga –
NATO được thành lập. Cơ quan này đã đảm bảo cho sự tham gia bình đẳng của
Nga vào việc giải quyết các vấn đề an ninh cơ bản trong không gian Châu Âu –
Đại Tây Dương. Tuy nhiên, Nga vẫn giữ quan điểm nhất quán: Nga không xếp
hàng để gia nhập NATO, mà còn phải xem NATO biến đổi theo chiều hướng
nào: “theo hướng cơ cấu chính trị hay lien minh quân sự”.
Quan hệ với Hoa Kỳ, đây là mối quan hệ có ý nghĩa to lớn và là hướng
ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga, bởi hai nước đều có trách nhiệm
chung đối với việc duy trì sự ổn định chính sách trên thế giới. Các cuộc gặp gỡ
giữa Tổng thống hai nước đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc đối thoại mới


dựa trên lợi ích lâu dài trùng hợp nhau. Ưu thế vượt trội của lợi ích đó đối với
những bất đồng về chính sách đã cho phép tránh khỏi khủng hoảng trong quan
hệ giữa hai nước do quyết định của Mỹ hồi tháng 12-2001 rút khỏi Hiệp ước tên
lửa đạn đạo (ABM) ký năm 1972 gây ra. Hai bên đã không để xảy ra việc phá
vỡ sự ổn định chính sách và đã ký một hiệp ước mới vào năm 2002, trù định
việc căt giảm tiềm lực hạt nhân.
Khuôn khổ mối quan hệ chính sách giữa Hoa kỳ và Nga được xây dựng
khác với trước kia. Điều quan trọng là Nga đã duy trì được khả năng tiếp tục
bảo vệ anh ninh chính sách của mình ở mức thích đáng, tự xác định cơ cấu và
thành phần các lực lượng hạt nhân của mình. Mối quan hệ với Hoa kỳ đang trở
nên ổn định và dự đoán được. Cơ sở nền móng của nó đủ mạnh để thảo luận
một cách xây dựng và cởi mở những bất đồng hiện có, trong đó có các vấn đề
nguyên tắc và khắc phục những vấn đề mới đặt ra hiện nay.
Tuy nhiên trong mối quan hệ với Hoa kỳ, Nga vẫn giữ vững nguyên tắc
độc lập của mình. Nga duy trì quan hệ ổn định với Mỹ để hội nhập kinh tế quốc
tế, nhằm tránh sự tụt hậu suy giảm sức mạnh so với các cường quốc khác. Hoa

Kỳ cũng rất cần quan hệ bình ổn với LBN bởi vì trong điều kiện hòa bình, Hoa
Kỳ có thể chủ động thu hẹp không gian chính sách của LBN. Ngược lại, nếu
LBN trở lại tư duy chiến tranh lạnh sẽ bất lợi lớn với Hoa Kỳ.
LBN cho rằng vấn đề Trexnia, cải cách chính quyền… là công việc nội
bộ của Nga, Hoa Kỳ không có quyền can thiệp. Đồng thời LBN cũng công khai
chỉ trích chính sách hai mặt của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố.
Một mặt, LBN cố gắng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ. Mặt khác, Nga cho
rằng, trên thế giới hiện nay vẫn còn có những người ủng hộ quan điểm thời
chiến tranh lạnh trong quan hệ với LBN, những thế lực không muốn từ bỏ quan
điểm này và vẫn coi Nga không phải là đối tác chính trị. Nga không cần tới sự
giúp đỡ của Phương Tây trong việc giải quyết những vấn đề xây dựng nền dân


chủ đất nước. LBN phải tìm kiếm đồng minh, cần phải phá tan tảng băng không
tin tưởng lẫn nhau hình thành từ những năm 1980, khi Liên Xô đối đầu với thế
giới còn lại. Mục đích chính của LBN là biến LBN trở thành thành viên đầy đủ
của cộng đồng thế giới.
Đối với các nước Châu Á, LBN đã phát triển mối quan hệ tích cực với
các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, không gây tổn thất cho bất kỳ
quốc gia nào, dựa trên tinh thần vì lợi ích an ninh và sự phồn vinh chung. Tại
khu vực này quan hệ giữa LBN với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, với hai
miền Nam – Bắc Triều Tiên, với ASEAN, APEC đều có những tiến triển.
Quan hệ LBN – Trung Quốc trải qua đoạn đường dài khúc khuỷu, bước
vào thế kỷ XXI hai nước đã thiết lập mối quan hệ đối tác toàn diện, hợp tác
chính sách. Năm 2001, hai nước ký Hiệp định hợp tác, hữu nghị song phương;
biên giới LBN – Trung Quốc đã trở thành biên giới hòa bình, than thiện; trao
đổi thương mại năm 2004 đạt 20 tỷ USD; giao lưu hữu nghị nhân dân tăng
cường. Hai nước có quan điểm giống nhau, có sự phối hợp với nhau trên nhiều
vấn đề quốc tế quan trọng như vấn đề chống khủng bố, vai trò Liên Hợp Quốc,
chống chủ nghĩa đơn phương, Trung Đông, Trung Á, hạt nhân trên bán đảo

Triều Tiên…
Ở các vùng phức tạp của thế giới, vai trò của LBN như một cường quốc
có ảnh hưởng và uy tín lớn ở Trung – Cận Đông đã được duy trì và tăng cường.
Bằng chứng cho thấy đó là sự tham gia của Nga trong “bộ tứ” quốc tế (gồm
Liên hợp quốc, Hoa Kỳ, EU, LBN) nhằm giải quyết khủng hoảng ở Trung
Đông. Thành tích ngoại giao của LBN là việc thông qua nghị quyết của Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc nhất trí ủng hộ “lộ trình hòa bình” do “bộ tứ” đề
xuất để giải quyết dứt điểm cuộc xung đột dai dẳng nhất trong lịch sử hiện đại,
nhằm đem lại hòa bình và ổn định cho khu vực này.


Kết quả hoạt động quốc tế những năm gần đây chứng tỏ một cách thuyết
phục rằng, Liên Bang Nga đã trở thành một nhà nước dân chủ với chính sách
đối ngoại độc lập và có thể dự đoán được cũng như với phạm vi đối tác chính
sách rộng lớn.
1.2.3.3 Ý nghĩa việc tổ chức thực hiện trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội Liên Bang Nga.
Với việc đề ra chính sách đối ngoại như vậy đã tác động mạnh mẽ trong
chiến lược phát t riển kinh tế xã hội của LBN cụ thể là:
Trong sáu tháng đầu năm 2012, GDP của Nga đã tăng 4,4% so với cùng
kỳ năm ngoái, thu nhập thực tế của dân chúng tăng 2,2% và mức lương trung
bình của người lao động đạt hơn 27.000 rúp/tháng (khoảng 900 USD/tháng),
theo thông báo ngày 20/8 của Ủy ban Thống kê Nhà nước Nga.
Kim ngạch bán lẻ tăng 6,8%, đạt 11.534 tỷ rúp (gần 385 tỷ USD), đầu tư
vào vốn cố định tăng 10,2%, đạt 896 tỷ rúp (gần 30 tỷ USD), tổng dân số đã
tăng thêm 85.600 người, đạt 143,1 triệu người.
Trong khi đó, số người thất nghiệp ở Nga tính đến đầu tháng Bảy qua đã
giảm 20.000 người và nước Nga hiện còn 4,124 triệu người không có việc làm,
chiếm 5,4% tổng số người có khả năng lao động, còn lạm phát duy trì ở mức 67%/năm.
Nga hôm nay có một nền kinh tế đa dạng, nhưng khu vực quan trọng nhất

là việc bán nguyên liệu thô và hàng hóa cơ bản như dầu, gỗ, và vàng. Nga đang
hợp tốt với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu. Nga có các nhà
sản xuất hàng đầu thế giới của dầu mỏ và khí đốt, đồng, mangan, bauxite, than
chì, uranium, titan, vàng, bạc, và bạch kim. Liên Xô trước đây là một nhà sản
xuất các mặt hàng chế biến như hóa chất, vũ khí và thiết bị quân sự và hàng
không vũ trụ quốc tế hàng đầu. Nhiều cơ sở công nghiệp của các khu vực sản
xuất nằm trong phạm vi của Cộng hoà Nga chính nó. Tuy nhiên, sự tan rã của
Liên Xô dẫn đến gián đoạn đáng kể trong các mối quan hệ thương mại.


Trong suốt 73 năm tồn tại, Liên Xô đã tăng lên là một siêu cường quân sự
tuyệt vời. Đo về sản lượng dầu thô, Liên Xô đã tạo ra nền tảng cho khả năng sản
xuất lớn. Liên bang Xô viết đã trở thành một trong những nhà sản xuất lớn nhất
thế giới rất nhiều nguyên liệu chế biến và các mặt hàng sản xuất khác nhau, từ
thực phẩm đến các đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, hiệu quả của sản xuất mà là tỷ
lệ đầu vào đến đầu ra cho bất kỳ sản phẩm không phải là một mục tiêu chính
của hệ thống kinh tế của Liên Xô Nhấn mạnh rất lớn đã được đưa vào kết quả
đầu ra. Theo đó, Liên Xô đã phát triển một hệ thống kinh tế đã được hầu như
chỉ tập trung vào việc đạt được các mục tiêu sản xuất. Hệ thống được chứng
minh là vô cùng quan liêu và có độ bền cao với sự thay đổi công nghệ. Các hệ
thống kinh tế Liên Xô là không có khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường
quốc tế năng động của thế kỷ 21. Ngay cả trước khi Liên Xô tan rã, chính phủ
Nga đã bắt đầu khởi xướng cải cách để di chuyển nền kinh tế từ một trực thuộc
Trung ương lập kế hoạch sang nền kinh tế dựa trên thị trường tự do. Quá trình
thay đổi này đã được biết đến như là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường.
Chẳng bao lâu sau khi độc lập, chính phủ Nga đã công bố một chương
trình đầy tham vọng về cải cách chính trị và kinh tế hơn nhiều. Chương trình
bao gồm một chuyển đổi của nền kinh tế từ các nguyên tắc của kế hoạch nhà
nước và chỉ đạo hành chính kinh tế dựa trên thị trường đã được dỡ bỏ kiểm soát

giá. Chính phủ trợ cấp đã bị loại bỏ hoặc giảm. Ngân sách của chính phủ đã
được tổ chức dọc theo các đường mới để nó có thể được cân bằng thông qua
việc mang lại thu nhập từ thuế vào phù hợp với chi tiêu của chính
phủ. Một chính sách hạn chế tiền tệ đã được thông qua. Thương mại nước ngoài
được tự do hóa thông qua việc dỡ bỏ kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu.Các loại
tiền tệ của Nga, đồng rúp được phép phải phá giá để đưa nó vào phù hợp với lãi
suất thị trường. Tư nhân hóa và tái cơ cấu các lĩnh vực độc quyền nhà nước đã
được thực hiện. Những nỗ lực đã bắt đầu thiết lập cấu trúc pháp lý và quy định


cho một môi trường thị trường. Luật mới đã được thông qua để thiết lập luật
pháp và thủ tục cho ngành ngân hàng, thị trường vốn, pháp luật và hợp đồng
dân sự, xét xử các tranh chấp thương mại và phát triển của một mạng lưới an
toàn xã hội để đệm tác động xã hội của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, những năm đầu tiên của quá trình chuyển đổi tỏ ra rất khó cho
Nga. Trong thập niên đầu của nó như là một nền kinh tế định hướng thị trường,
nền kinh tế Nga bị co lại của gần 60% so với mức độ độc lập trước khi được đo
bằng GDP. Giảm mạnh sản xuất trong các ngành công nghiệp và xuất khẩu then
chốt dẫn đến một nền kinh tế liên tục ký kết hợp đồng giữa năm 1990 và 1997
như sản xuất công nghiệp đã đi vào một "rơi tự do, giảm hơn 50% trong thập kỷ
của những năm 1990. Phức hợp công nghiệp quân sự của Liên Xô, các nhà cung
cấp hàng hóa cho khu vực nhà nước và công nghiệp nhẹ là bị ảnh hưởng nặng
nề nhất do điều chỉnh cơ cấu sang nền kinh tế theo định hướng thị trường và thu
hồi từ trạng thái siêu cường.
Năm 1997, nền kinh tế bắt đầu để hiển thị các dấu hiệu đầu tiên của phục
hồi sau quá trình chuyển đổi, đăng một tốc độ tăng trưởng chút ít hơn 1%. Mặc
dù "liệu pháp sốc" của một quá trình chuyển đổi nhanh chóng và sự suy giảm
trong sản xuất công nghiệp, gia tăng nghèo đói và thất nghiệp, và sự suy yếu
của các cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội, Nga đã bắt đầu cho thấy dấu hiệu của một
thay đổi hoàn toàn kinh tế. Lạm phát, tăng vọt vào năm 1993 và năm 1994, cuối

cùng đã được kiểm soát. Đồng rúp đã được ổn định. Một chương trình tư nhân
đầy tham vọng đã chuyển hàng ngàn doanh nghiệp sở hữu tư nhân. Định hướng
thị trường quan trọng pháp luật cũng đã được thông qua, trong đó có một mã
thương mại trong quan hệ kinh doanh và thành lập một tòa án trọng tài để giải
quyết tranh chấp kinh tế.
Tuy nhiên, trong mùa hè năm 1998, một làn sóng mạnh mẽ của sự bất ổn
tài chính bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tràn qua


các cộng đồng tài chính Nga. Nền kinh tế Nga đã trải qua sự căng thẳng rất lớn
vì nó đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang một hệ thống thị trường
tự do. Những khó khăn trong thực hiện cải cách tài chính nhằm nâng cao thu
ngân sách Nhà nước và sự phụ thuộc vào vay ngắn hạn để tài trợ cho thâm hụt
ngân sách của chính phủ đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm
trọng vào năm 1998. Giá thấp hơn cho người có thu nhập xuất khẩu chính của
Nga (dầu mỏ và khoáng sản) và mất lòng tin của các nhà đầu tư do cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á làm trầm trọng thêm vấn đề tài chính. Kết quả là một sự
suy giảm nhanh chóng trong giá trị của đồng rúp, chuyến bay của đầu tư nước
ngoài, các khoản thanh toán bị trì hoãn về chính phủ và các khoản nợ tư nhân,
một sự cố của các giao dịch thương mại thông qua hệ thống ngân hàng, và mối
đe dọa của lạm phát. Trong tháng 8 năm 1998, chính phủ Nga cho phép đồng
rúp giảm precipitously và hoãn thanh toán trên 40 tỷ USD trái phiếu kho
bạc. Trong sự trỗi dậy của cuộc khủng hoảng tài chính, hàng tỷ đô la đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã bị cuốn trôi ra khỏi đất nước, niềm tin nhà đầu tư giảm, và
Nga di chuyển vào một thu hẹp kinh tế sắc nét.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 sản xuất giảm mạnh và đột ngột
thu nhập cá nhân, như GDP bình quân đầu người ở Nga đã giảm từ 3.056 USD
vào năm 1997 lên 1.867 USD vào năm 1998. Giảm mạnh trong thu nhập bình
quân đầu người và co lại của các thị trường tài chính cũng đã có một số hiệu
ứng lành tính, tuy nhiên. Trong một số lĩnh vực kinh tế, hiệu quả kinh tế Nga

được cải thiện khi giá thế giới cao hơn cho giá dầu nhiên liệu thế giới tăng gần
gấp ba vào năm 1999 và một số kim loại tạo điều kiện cải thiện trong lĩnh vực
xuất khẩu. Đồng rúp Nga mất giá trong mối liên hệ với cuộc khủng hoảng tài
chính. Đồng rúp mất giá trả lại sản phẩm do Nga chế tạo tương đối rẻ hơn so
với nhập khẩu. Điều này góp phần để mua tăng hàng hóa và dịch vụ sản xuất
trong nước cũng như xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi.


Năm 1999 sản lượng tăng thời gian chỉ thứ hai kể từ năm 1991,% 3.2
chính thức ước tính, lấy lại đất đai bị mất trong quá trình giảm 4,6% năm
1998. Sự gia tăng năm 1999 đã đạt được bất chấp một năm hỗn loạn tiềm năng
bao gồm lật đổ của 3 thủ tướng và lên đến đỉnh điểm trong từ chức đêm giao
thừa năm mới của Tổng thống Boris Yeltsin. Giúp đỡ rất nhiều gấp ba lần giá
dầu quốc tế trong nửa thứ hai của năm 1999, nâng cao thặng dư xuất khẩu 29 tỷ
USD. Về mặt tiêu cực, lạm phát đã tăng lên trung bình 86% vào năm 1999, so
với mức trung bình 28% vào năm 1998. Công dân trung bình tìm thấy tiền
lương thực tế của họ giảm khoảng 30% và lương hưu của họ bằng 45%. Chính
phủ Nga mới, dưới sự lãnh đạo của Vladimir Putin, dành ưu tiên cao để bổ sung
thu nhập thấp bằng cách trả lại tờ giấy vay tiền lương và lương hưu. Tuy nhiên,
nhiều nhà đầu tư, cả trong nước và quốc tế, vẫn bên lề, sợ hãi bởi các vấn đề lâu
dài của Nga với chuyến bay vốn, tham nhũng tràn lan, và các bài báo về tội
phạm có tổ chức và mafia Nga. Báo chí quốc tế đã cho bảo hiểm sensational
điều tra âm mưu rửa tiền được thiết kế để di chuyển lợi bất thành nơi trú ẩn an
toàn ra khỏi Nga.
Sự hồi phục tiếp tục vào năm 2000 như nền kinh tế Nga đã tăng trưởng
nhanh nhẹn trong suốt cả năm, vượt xa mong đợi. Phấn chấn bởi sự mất giá của
đồng rúp và sự tăng giá xuất khẩu dầu trung bình so với năm 1999 cấp độ, GDP
thực tế đã vượt qua mức trước-1998 cuộc khủng hoảng, tăng trưởng hơn 8%
trong năm 2000. Tăng trưởng sản lượng công nghiệp, đạt 8% vào năm 1999,
tiếp tục tăng trong năm 2000. Sự gia tăng trong sản xuất công nghiệp đã dẫn đến

việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, với ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống hơn 10%
vào cuối năm 2000.


Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
2.1 CƠ QUAN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH.

Các chính sách là phương tiện quản lý của nhà nước, do đó việc thực hiện
các chính sách trước hết thuộc về cơ quan nhà nước. Mỗi chính sách cũng đề
cập đếm nhiều khía cạnh nên có nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình
tổ chức thực hiện. Để phát huy có hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ
chức sẽ có một cơ quan được nhà nước ủy quyền chịu trách nhiệm chung, thống
nhất điều phối các hoạt động chung về thực hiện chính sách.
Và cơ quan tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga
chính là chính phủ. Chính phủ LBN là cơ quan chịu trách nhiệm chung bởi cơ
quan này có vị thế cao hơn các cơ quan khác.
Bên cạnh cơ quan chủ chốt là Chính phủ Liên Bang Nga, còn có cơ quan
phối hợp thực hiện chính sách. Đây là cơ quan có chức năng lien đới thực hiện
mà hoạt động của cơ quan này sẽ góp phần thúc đẩy trong thực thi chính sách.
Cơ quan phối hợp là Bộ Ngoại giao Liên bang Nga và các cơ quan quyền lực
hành pháp khác của Liên bang Nga thực hiện chính sách.
Giữa các cơ quan này phải hình thành mối quan hệ phân công và phối
hợp thực hiện chính sách. Phân công để giữa các cơ quan không có sự trùng lặp
chức năng, nhiệm vụ; nhưng khi thực hiện chức năng nhiệm vụ đó lại cần có sự
phối hợp nhằm đảm bảo tính tập trung, tạo nên sự lien kết nhịp nhàng, ăn khớp
và đồng bộ trong hoạt động của cả hệ thống để đạt được mục tiêu chung. Phối
hợp quản lý thể hiện ở tất cả các mặt: giữa yếu tố con người, công việc và tổ
chức; cần phối hợp chặt chẽ với các yếu tố không gian và thời gian; phối hợp



quá khứ, hiện tại và tương lai; phối hợp các cấp các vùng cho đến từng cá nhân
với nhau.
2.2 TUYÊN TRUYỀN, GIẢI THÍCH

Yêu cầu cao nhất của triển khai chính sách là huy động sự ủng hộ chính
trị về mọi mặt để mọi người chấp nhận nó với nhiệt tình cao. Do đó, tuyên
truyền giải thích nhằm làm cho tầng lớp nhân dân hiểu được nội dung, ý nghĩa,
mục đích, cách thức triển khai cùng những hiệu quả và lợi ích của chính sách để
họ nhận thức được rằng những thay đổi sắp diên ra là vì quyền lợi của họ. Và
trong quá trình tổ chức thực hiện, Chính phủ Liên Bang Nga đã tuyên truyền
giải thích cặn kẽ chính sách, nhằm hướng cho nhân dân hiểu được. Việc tuyên
truyền giải thích này thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau như đài truyền
hình, các báo và tạp chí khác nhau, thậm trí còn có các sắc lệnh được công bố
rộng rãi như ngày 7-5-2012, ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống
Nga V.Putin đã ký sắc lệnh "Về các biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga".
2.3 CÁC BƯỚC TRIỂN KHAI

Mục tiêu cao nhất của giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách là biến ý đồ
chủ quan về chính sách thành thực tế khác quan; biến chủ trương đường lối,
pháp luật của nhà nước thành hành động tự giác của quần chúng. Để làm tốt
chính sách đối ngoại này thì Nhà nước Liên Bang Nga đã làm tốt những yêu cầu
sau đây:
Có kế hoạch thực hiện chu đáo: để thực hiện chính sách đối ngoại một
cách có hiệu quả, Nhà nước Liên Bang Nga đã đã xây dựng được các bước triển
khai, trong đó thời gian biểu cho việc huy động người, thiết bị và tiền đã được
vạch ra một cách tỉ mỉ. Kế hoạch thực hiện được phân công tới từng người.
Nguồn lực vật chất và tài chính phải được đảm bảo.



Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần phát huy tính chủ động trong tổ
chức thực hiện. Quá trình triển khai chính sách luôn bắt gặp những yếu tố mới
nảy sinh.
Hơn nữa trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan tổ chức thực hiện
chính sách đã phát huy toàn bộ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
tham gia thực hiện chính sách: Bộ tài chính Liên Bang Nga cung cấp vật chất
mà ở đây là tiền, Bộ Ngoại giao trực tiếp nhận trách nhiệm thực hiện, Thủ
tướng, Tổng thống đều tham gia thực hiện trong quá trình này.
Nội dung công tác tổ chức thực hiện chính sách cụ thể như sau:
Cơ quan thông qua chính sách đối ngoại là Tổng thống Liên Bang Nga
xác định những tổ chức chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện chính sách (trong đó
tổ chức quản lý chung toàn bộ quá trình thực hiện là Bộ Ngoại Giao Liên Bang
Nga). Xác định nhiệm vụ của từng tổ chức và giao trách nhiệm trực tiếp cho thủ
trưởng các cơ quan này, như về cơ quan chính phủ giao cho Thủ tướng.
Các tổ chức thực hiện dựa trên cơ sở những nhiệm vụ trên giao, xây dựng
phương hướng kế hoạch và các biện pháp thực hiện của tổ chức mình, trình cấp
trên thông qua. Đồng thời tiến hành công tác tổ chức nội bộ và chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để thực hiện chính sách.
Toàn bộ các tổ chức trong cơ cấu thực hiện chính sách triển khai các hoạt
động của mình, ra quyết định thuộc thẩm quyền, thực hiện những nhiệm vụ và
những biện pháp cụ thể để điều hành quá trình chính sách phù hợp với thực tế,
duy trì mối quan hệ quản lý và phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang. Trong
quá trình này các nhà lãnh đạo cấp cao ra quyết định quản lý cho cấp dưới, các
cấp này ra quyết định quản lý xuống cấp dưới thấp hơn, cho đến từng thành viên
của bộ máy. Ví dụ như cơ quan Hành Pháp LBN sẽ ra những quyết định cho cấp
dưới thấp hơn của mình về việc thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện chính sách.



Các tổ chức thực hiện duy trì chế độ báo cáo lên trên những thông tin về
quá trình thực hiện, những vấn đề nảy sinh ở cấp cao hơn có những biện pháp
thích hợp. Hoạt động truyền thông của cả hệ thống bao gồm sự truyền đạt thông
tin (các quyết định, các chuẩn mực, nhiệm vụ, các hướng dẫn…) của lãnh đạo
và thủ lĩnh đến toàn bộ hệ thống, được diên ra theo cả chiều dọc và chiều ngang.
Các cơ quan đều có trách nhiệm báo cáo trước cơ quan cấp trên, rồi chịu trách
nhiệm trước chính phủ, chính phủ chịu trách nhiệm trước Tổng thống về quá
trình thực hiện chính sách của mình, riêng Bộ ngoại giao LBN chịu trách nhiệm
trước Tổng thống bởi đây là cơ quan trực tḥc Tởng thớng.
2.4 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TỞ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA LIÊN BANG NGA.

Trước hết đánh giá về các khâu tổ chức thực hiện chính sách: về khâu
chuẩn bị và vạch ra kế hoạch, kế hoạch thực hiện đã được phổ biến và phân
công phối hợp tới từng người trong cơ quan thực hiện. Xây dựng một cách hợp
lý kế hoạch triển khai, thời gian biểu cho việc huy động người, thiết bị và tiền
đã được vạch ra một cách tỉ mỉ trong kế hoạch tổ chức thực hiện Chính sách Đối
ngoại của LBN.
Trong quá trình triển khai Chính sách Đối ngoại, cơ quan thực hiện luôn
bắt gặp những yếu tố mới nảy sinh dù đã chuẩn bị công phu. Các nhà lãnh đạo
đã dự tính những khả năng và tình huống có thể phát sinh để có thể chủ động
giải quyết.
Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị Liên Bang Nga đã thực sự
vào cuộc, đây là một thành công lớn trong quá trình tổ chức thực hiện vì chỉ khi
các tổ chức chính trị thực sự vào cuộc mới mang lại sức mạnh tổng hợp mạnh
mẽ, các khâu tổ chức thực hiện sẽ được thực hiện triệt để hơn.
Tổng thống LBN đã lựa chọn thích hợp cơ quan chủ chốt thực hiện chính
sách. Cơ quan chủ chốt đã làm tốt được vai trò cũng như trách nhiệm của mình.



×