Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN. pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.66 KB, 6 trang )

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN
ĐẠI HOÁ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN.

I. TÍNH TẤT YẾU CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ.
1. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
1.1.Khái niệm.

Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ
và tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá.

Tất cả các nước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua thời kỳ quá độ và
tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Có 2 loại quá độ
lên chủ nghĩa xã hội: quá độ tuần tự và quá độ tiến thẳng.
Ở các nước quá độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ từ chủ nghiã tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
nhưng cũng đã có tiền đề vật chất là nền đại công nghiệp cơ khí do chủ nghiã tư bản
để lại. Vì vậy, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, những
nước này chỉ cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, ứng dụng thành tựu của nó vào sản xuất, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghiã về quan hệ sản xuất, phân bố và phát triển sản xuất một cách đồng bộ trong cả
nước. Thực chất của quá trình này là biến những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư
bản để lại thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở trình độ cao hơn.
Ở các nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản như ở nước ta,
sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chât kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là
quá trình biến đổi một nước có nền kinh tế lạc hậu trở thành một nước công nghiệp


hiện đại. Qua các kì đại hội VI,VII,VIII Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá hiện
đại hoá là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đại hội lần thứ IX của đảng Cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác định
mục tiêu cho những năm trước mắt: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tập trung sức xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư
liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kĩ thuật công nghệ tiên tiến cho các
ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu quốc
phòng, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.

2. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
2.1. Khái niệm

Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế –xã hội
nông thôn, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn hàng hoá; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác
mọi tiềm năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất trong
nông nghiệp nông thôn, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế-xã hội nông thôn tiến gần đến
thành thị.Trong đó:
- Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học kĩ
thuật, công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp.

2.2. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.

Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn bao gồm:
- Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông
nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế cho lao động thủ công.

- Áp dụng phương pháp quản lý mới, hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị
vào nông nghiệp nông thôn.
- Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và công
nghệ mới vào nông thôn.

II. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng đặc biệt là lương thực nhưng
chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu kém.

Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân hàng năm là
4,5%. Năm 2000 sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp phát triển toàn diện tăng bình quân
5%. Sản xuất lương thực tăng nhanh, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,3 triệu tấn.
Lương thực bình quân đầu người tăng từ 370 kg (năm 1995) lên 435 kg (năm 2000).
Năng xuất lúa từ 32 tạ/ha (năm 1990) lên 43 tạ/ ha (năm 2000). Sản xuất mầu cũng
ổn định, nhất là ngô. Năm 1995 diện tích cả nước mới đạt 55 vạn ha, năng suất 21 tạ
/ha, sản lượng 1,184 triệu tấn. Đến năm 1999 diện tích ngô 69 1 vạn ha, năng suất
25 tạ/ha, sản lượng 1,75 triệu tấn. Cây công nghiệp, cây ăn quả có bước phát triển
khá bình quân 10 năm1990-1999 so với bình quân 5 năm trước đó: sản lượng lạc
tăng 74% cà phê nhân tăng 2,8 lần, cao su tăng 87%, hồ tiêu tăng 68%, chè tăng
27,3%, bông tăng 2,83 lần. Cây ăn quả cả nước năm 1999 đạt 512,8 nghìn ha.
Chăn nuôi có bước tăng trưởng khá cao và ổn định. Bình quân 10 năm 1990-2000
so với bình quân 5 năm trước đó: đàn lợn tăng 20%, bò tăng 10%, sản lượng trứng
tăng 33%.
Thuỷ hải sản tăng liên tục. Hoạt động khai thác thuỷ sản trên sông, trên biển phát
triển mạnh. Đến năm 2000 cả nước có 229,9 nghìn hộ dân trang bị 7150 tầu đánh cá
cơ giới.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000, trang 6,7,8)

Tuy nhiên do sản xuất các mặt hàng nông sản tăng nhanh so với nhu cầu trong nước

khiến cho sản lượng hàng hoá cần được xuất khẩu tăng lên. Vì vậy giá cả nông sản
phần lớn phụ thuộc vào xuất khẩu. Trong thời gian qua một số mặt hàng nông sản
giá xuống thấp: lúa gạo, cà phê, tiêu, … chủ yếu là do xuất khẩu kém hiệu quả.
Chính vì vậy để phát triển nông nghiệp chúng ta cần chú trọng đến tiêu thụ sản
phẩm, giảm khó khăn cho người nông dân. Muốn giải quyết được vấn đề này cần
phải thay đổi cơ cấu và chất lượng sản giống, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến và
đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá. Bên
cạnh đó để nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng nông sản, chúng ta phải đa
dạng hoá sản phẩm, tập trung phát triển những mặt hàng chiến lược dựa vào lợi thế
so sánh giữa các vùng sản xuất hàng hoá.

2. Hình thành các khu vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tập trung

Việt Nam đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như: lúa,
cao su, cà phê … nhưng nhìn chung vẫn còn phân tán, manh mún, qui mô hộ gia
đình nhỏ bé, trước mắt có thể có hiệu quả nhưng về lâu dài thì sẽ là một cản trở cho
quá trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá.
Trong khi các vùng chuyên canh về cao su, cà phê, chè, tiêu đã khá ổn định thì các
vùng chuyên canh khác còn trong quá trình hình thành, ít về số lượng, qui mô nhỏ,
chưa ổn định. Các vùng chuyên canh cây ăn quả, chăn nuôi gia súc gia cầm chủ yếu
phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động của khoa học
công nghệ. Hiện nay cả nước có tới hàng triệu thửa ruộng nhỏ, manh mún tập trung
chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và miền trung. Những thửa ruộng này chỉ phù hợp
với sản xuất bằng lao động thủ công. Đây chính là một trở ngại lớn của quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.

3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, cơ khí
hoá, điện khí hoá, áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ nhưng cơ sở
hạ tầng còn thấp, lao động thủ công vẫn còn khá phổ biến, trình độ khoa học
công nghệ còn thấp so với thế giới.


Trong những năm qua nhà nước và nhân dân đã thực hiện nhiều công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên
chất lượng các công trình còn thấp cần tiếp tục được tu bổ, nâng cấp, xây dựng mới.
Hiện nay chúng ta đã hình thành một hệ thống các công trình phân bố trên phạm vi
rộng với 743 hồ chứa nước lớn và vừa, 1017 đập dâng, 4716 cống tưới tiêu, 1796
trạm bơm đIện và hơn 2000 trạm biến thế chuyên dùng cho thuỷ lợi. Đã xây dựng
được mạng lưới giao thông nông thôn phát triển theo chiều sâu và rộng. Năm 1994
tỷ lệ xã có đường ô tô về đến trung tâm xã là 86,5%, năm 1999 tăng lên 95%,
khoảng 9777 xã. Tuy nhiên đường giao thông lạc hậu đã gây ách tắc về giao lưu
hàng hoá trên thị trường. ĐIện đã xuống được thôn xóm nhưng chất lượng còn thấp
và giá cả cao so với thu nhập của người dân nông thôn. Năm 1999 có 8 894 143 hộ
ở nông thôn có đIện dùng, đạt 69,3% số hộ nông thôn được dùng đIện lưới quốc gia
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000 trang 7).
Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta ngày một tăng. Mặc dù
các loại hoá chất đã góp một phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông
sản, nhưng cũng đặt ra những vấn đề về môi trường, về sức khoẻ người tiêu dùng,
do vậy cần phải hướng dẫn và quản lý chặt chẽ việc sử dụng các loại hoá chất trong
nông nghiệp.
Nhờ việc ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học trong những năm gần đây, chúng
ta đã tạo ra nhiều giống cây trồng, cây lương thực, cây lâm nghiệp, đặc biệt là các
loại giống lai có khả năng thích nghi với thời tiết tốt và cho năng suất cao. Trong
lĩnh vực chăn nuôi và thuỷ sản, chún ta đã có những giống lợn có tỷ lệ nạc cao, gà
công nghiệp có tốc độ sing trưởng nhanh, tốn ít thức ăn. Tuy nhiên trình độ áp dụng
thành tựu cách mạng sinh học của nước ta còn thấp nên chưa tạo được các bước đột
phá.

4. Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản có bước tiến bộ đáng kể, nhưng còn
nhỏ bé và ở trình độ thấp
4.1. Chế biến nông sản


Công nghiệp chế biến lâm sản ở nước ta bước đầu đã vượt qua những khó khăn của
thời kỳ đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã có những tiến bộ. Hầu hết các
doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng nguyên liệu, đổi mới
thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và nâng cao năng suất, làm cho năng lực chế
biến nông sản tăng nhanh, đặc biệt là công nghiệp chế biến đường. Các doanh
nghiệp đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước, bố trí lại
sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng
của từng thị trường. Hiện nay đã có một số nhà máy xay xát, đánh bóng, phân loại
gạo, chế biến đường, cao su… mới được xây dựng, trang thiết bị hiện đại song số
lượng còn ít.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực chế biến nông sản còn nhiều mặt yếu kém. Nổi bật là:
- Tỷ trọng nông sản được chế biến còn thấp
- Phần lớn các cơ sở chế biến lúa gạo, chè, mía… được xây dựng từ lâu, quy trình
công nghệ lạc hậu
- Chất lượng nông sản chế biến còn thấp, hiệu quả chế biến còn chưa cao nên sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém khiến cho người nông dân gặp nhiều thiệt
thòi.

4. 2. Chế biến lâm sản.

Công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng lưới toàn quốc gồm
hơn 800 doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Mặc dù các doanh nghiệp đã cố gắng
đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị công nghệmới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản
phẩm nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản
xuất chủ yếu ở qui mô nhỏ, phân tán, sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại
từ gỗ nguyên chiếm tới 68,5% trong khi đồ mỹ nghệ là 3%. Tuy nhiên việc kết hợp
sử dụng công nhân với tay nghề cao đã làm hàng lâm sản chế biến ở nước ta có khả
năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường ở một số mặt hàng như thị trường đồ gỗ ngoài
trời ở EU.

×