Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

An ninh tài chính đối với hoạt động của angân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.33 KB, 50 trang )

1
1





Đ
Đ


T
T


V
V


N
N


Đ
Đ





1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI


Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO một cánh cửa mới
đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam, bắt đầu những nỗ lực lớn hơn và khó khăn nhiều hơn bội phần. Đặc biệt
là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam sẽ bước vào “sân chơi” hoàn toàn mới. Ở sân
chơi quốc tế với “luật chơi” công bằng hơn sẽ làm cho hệ thống NHTM Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức lớn.
An ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, nhất là
an ninh tài chính trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Liệu rằng các NHTM Việt
Nam có giữ vững được an ninh tài chính đối với hoạt động của mình trong giai đoạn hội nhập hay
không ? Một vấn đề đặt ra cho toàn ngành ngân hàng Việt Nam. Mỗi chiến lược đảm bảo an ninh tài
chính phải thực sự là vấn đề sống còn của chính họ. Nó phải chặt chẽ, mang tính đặc thù và phải có tầm
nhìn chiến lược phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có như vậy NHTM Việt Nam mới có thể tự
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc gia và quốc tế. Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước
là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài hiện nay.
Xuất phát từ những phân tích trên, đề tài: “An ninh tài chính đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập” sẽ giúp các NHTM Việt Nam tìm ra giải pháp cho NH
mình trong bối cảnh hội nhập. Chủ yếu là thực trạng huy động vốn và cho vay trước thềm hội nhập kinh tế
đồng thời đề ra các giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Ngoài ra, đề tài còn có một số giải pháp khác để đảm
bảo an ninh tài chính cho hoạt động của NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với ngân hàng thương mại Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề chung cơ bản của ngân hàng thương mại, các quy chế hoạt động
của NHTM để đi vào nghiên cứu những vấn đề có thể tác động đến an ninh tài chính của NHTM trong
tiến trình hội nhập từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với các NHTM hiện nay.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử , phương pháp thống kê, phương pháp quan sát lịch sử .Phương pháp phân tích so sánh tổng hợp đi
từ trừu tượng đến cụ thể và kết hợp với kiến thức các môn học và số liệu từ NHTM , sử dụng kinh nghiệm
của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng , những tài liệu trong và ngoài nước đã giúp cho
đề tài được phong phú , mở rộng và thể hiện tính thiết thực hơn của đề tài.


2
2



PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. KHÁI NIỆM VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI:
1.1.1. An ninh tài chính là gì?
An ninh tài chính là khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh.
Ổn định ở đây hiểu là duy trì hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, thất
thường và sự ổn định trong sự vận động và phát triển .
An toàn là trạng thái không bị tác động nguy hiểm từ mọi phía, từ phía các tác động bên trong và
bên ngoài. Nếu ổn định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận
động của tình trạng tài chính.
Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ được ổn
định và đảm bảo an toàn .
Không có khủng hoảng là trạng thái không rơi vào tình trạng cực kỳ khó khăn không xoay sở được,
là trạng thái bế tắc của một vấn đề. Cũng có thể nói khủng hoảng là hệ quả xấu nhất của ba trạng thái trên và
hậu quả của nó là rất lớn.
Ba nội dung trên đồng thời là 3 nguyên tắc của đảm bảo an ninh tài chính.
Tính hệ thống của an ninh tài chính là an ninh của từng bộ phận gắn liền với an ninh của toàn hệ
thống , có mối quan hệ tương tác và phụ thuộc lẫn nhau về mặt tổ chức và địa lý , an ninh từng quốc gia
không tách rời an ninh khu vực và toàn cầu, đồng thời cả về mặt đối tượng và nội dung của an ninh như an
ninh kinh tế liên quan chặt chẽ với an ninh chính trị , an ninh xã hội , an ninh thông tin , an ninh tài chính…
1.1.2. Phân loại an ninh tài chính
Có nhiều cách thức để phân loại an ninh tài chính. Chúng ta có thể phân lọai an ninh tài chính theo

chức năng tài chính như sau:
 An ninh tài chính trong huy động các nguồn lực tài chính.
 An ninh tài chính trong phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính.
1.1.3. Khái niệm an ninh tài chính đối với hoạt động ngân hàng
An ninh tài chính của ngân hàng là trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có và tài sản ròng) ổn định,
an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng; biểu hiện trạng thái bền vững và phát triển của các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Bảo đảm an ninh tài chính đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM) nói chung và của một ngân hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của
ngân hàng đó luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng. Thiết lập được mạng lưới an
ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu quả đối với các loại hình tội phạm kinh tế
3
3



trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng phát triển với hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, tính chất mức độ
vi phạm ngày càng tinh vi.
An ninh tài chính trong NHTM cũng mang đầy đủ những tính chất chung của an ninh tài chính gồm bốn
yếu tố : ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng. Đồng thời cũng mang những nét riêng đặc
trưng của lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực mà hiện nay được nhận định là nền tảng cho sự phát triển của
nền kinh tế của một quốc gia và của tòan thế giới.
1.2. NỘI DUNG CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
1.2.1 Ồn định hoạt động ngân hàng: thể hiện ở 2 bộ phận :
a. Ổn định huy động vốn (tiền gửi):
Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản nợ của từng ngân hàng thương mại cũng như toàn bộ
hệ thống ngân hàng .Sự ổn định của tiền gửi được biểu hiện ở tốc độ tăng tiền gửi , biến động của cơ cấu
tiền gửi ( tiền gửi kì hạn ,không kì hạn ,tiền gửi tiết kiệm ,tiền gửi bằng nội tệ, tiền gửi bằng ngoại tệ ..)
Tổng tiền gửi cuối năm – Tổng tiền gửi đầu năm
Tốc độ tăng tiền gửi = x 100%

hàng năm(%) Tổng tiền gửi đầu năm
Nhân tố quyết định đến ổn định tiền gửi là tỷ lệ tiết kiệm , niềm tin của người gửi và khả năng tiếp
cận dịch vụ ngân hàng và lợi nhuận thu được từ tiền gửi. Bên cạnh đó, tốc độ tăng tiền gửi còn bị chi phối
bởi khả năng lựa chọn của người gửi tiền và tập quán tiết kiệm trong dân cư. Các nước đang phát triển có thị
trường tài chính chậm phát triển, các công cụ tài chính còn ít, độ rủi ro cao, thêm vào đó là tâm lý tiết kiệm
chi tiêu để dành một khoản tiền cho những mua sắm lớn trong điều kiện thu nhập còn thấp nên tiền gửi ngân
hàng thường tăng ở mức độ cao.
b. Ổn định hoạt động cho vay:
Cho vay là một hoạt động cơ bản tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác là một trong những yếu
tố quyết định đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Ổn định hoạt động cho vay biểu hiện ở tốc độ tăng các khoản cho vay .
Tổng cho vay cuối năm – Tổng cho vay đầu năm
Tốc độ tăng cho vay = x 100%
hàng năm(%) Tổng cho vay đầu năm
Tốc độ tăng cho vay chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng càng cao thì nhu cầu vốn càng lớn, đặc biệt các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển có
đặc điểm hoạt động dựa nhiều vào nguồn vốn vay từ ngân hàng. Ngoài ra, sự can thiệp của Chính phủ vào
hoạt động ngân hàng thường xuyên xảy ra ở các nước đang phát triển buộc NHTM phải cho tăng cường cho
4
4



vay theo các điều kiện ưu đãi dưới sự chỉ định hay bảo lãnh của Chính phủ cũng là nhân tố thúc đẩy tín
dụng cho vay tăng nhanh.
c. So sánh tốc độ tăng tiền gửi và tốc độ tăng cho vay:
 Nếu tốc độ tăng tiền gửi nhanh hơn tốc độ tăng cho vay trong một thời gian dài có thể đẩy ngân hàng
vào tình thế tiến thoái lưỡng nan là dư thừa nguồn vốn không cho vay được trong khi vẫn phải trả chi
phí cho những khoản tiền gửi. Hệ quả là ngân hàng buộc phải giảm tốc độ tăng tiền gửi thông qua giảm
lãi suất hay tăng tín dụng thông qua nới lỏng các điều kiện cho vay. Cả hai biện pháp đều có khả năng

làm mất uy tín , niềm tin hay tăng rủi ro của ngân hàng.
 Nếu tốc độ tăng tiền gửi thấp hơn nhiều tốc độ tăng cho vay thì ngân hàng dễ lâm vào tình trạng thiếu
vốn cho vay, buộc phải tăng lãi suất để thu hút tiền gửi song không phải là dễ dàng trong điều kiện tự do
hóa lãi suất như hiện nay và các khoản cho vay dễ bị mất an toàn hơn do có thể các điều kiện cho vay
quá dễ dãi.
 Tốc độ tăng tiền gửi và cho vay đều đặn, không có đột biến và khoảng cách giữa hai tốc độ này không
quá lớn là đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động ngân hàng. Nói cách khác là chênh lệch giữa hai tốc độ
này có thể quyết định động thái tiếp theo của ngân hàng.
1.2.2 An toàn hoạt động ngân hàng
An toàn tiền gửi là khả năng ngân hàng luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi mà
không rơi vào tình trạng nguy hiểm. Để đảm bảo trạng thái sẵn sàng chi trả này ngân hàng cần duy trì dự trữ
bắt buộc và cả dự trữ quá mức. Trong trường hợp dự trữ không đủ ngân hàng buộc phải bán các khoản cho
vay của mình.
An toàn cho vay thể hiện ở việc các khoản cho vay đã, đang và sẽ thường xuyên được hoàn trả đúng hạn
với lãi suất theo đúng hợp đồng tín dụng mà công cụ then chốt là quản lý rủi ro, đa dạng hóa và đảm bảo
tiền vay.
Để đo lường mức độ an toàn cho vay người ta áp dụng các biện pháp quản lý tài sản có trên cơ sở đánh
giá mức độ rủi ro của từng khoản vay, từ đó tổng hợp thành chỉ số rủi ro cho vay chung của ngân hàng hay
cả hệ thống. Việc cho vay luôn gắn liền với rủi ro .






 Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng và những thiệt
hại, mất mát mà NH phải gánh chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không
thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng TD vì bất kể lý do gì.
HỆ THỐNG RỦI RO
Rủi ro

tín
dụng
Rủi ro
về giá
Rủi ro
tính
thanh
khỏan
Rủi ro
hệ
thống
Rủi ro
đạo đức
5
5



Theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phân loại nợ và trích lập dự phòng như sau :
a) Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn; trích lập dự phòng: 0%.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ; trích lập dự phòng: 5%.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn
thất một phần nợ gốc và lãi; trích lập dự phòng : 20%.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất
cao; trích lập dự phòng : 50%.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không

còn khả năng thu hồi, mất vốn; trích lập dự phòng : 100%.
 Rủi ro về giá: nguy cơ bị lỗ do những thay đổi không lường được của giá cả, chẳng hạn thay đổi về lãi
suất hay tỷ giá hối đoái . Rủi ro về lãi suất có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động ngân hàng.
 Rủi ro về tính thanh khoản: nguy cơ không bán được tài sản nhanh chóng, trừ khi chịu chiết khấu lớn.
 Rủi ro hệ thống : nguy cơ một hay một số khách hàng lớn không trả được nợ gây nguy hiểm cho toàn
bộ hệ thống tài chính . Rủi ro thanh toán hay rủi ro hệ thống thường liên quan tới các khoản thanh toán liên
ngân hàng có gía trị lớn và việc mất khả năng thanh toán của một ngân hàng thường lây lan ra toàn bộ hệ
thống theo con đường này.
 Rủi ro đạo đức: là một khía cạnh quan trọng, rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn.
Những hợp đồng vay nợ thường có đặc điểm là mức lãi suất cố định. Vì vậy khi vay được vốn các doanh
nghiệp lại có khuynh hướng sử dụng số vốn vay đầu tư vào những dự án có lãi suất cao hơn nhưng lại có
nhiều rủi ro tiềm năng. Trong khi đó, người cho vay không có đủ khả năng để giám sát những hoạt động của
người đi vay sau khi đã cung cấp vốn để đảm bảo rằng người đi vay không dùng số tiền vay đầu tư vào
những dự án có nhiều rủi ro.
1.2.3 Tính vững mạnh trong hoạt động của ngân hàng
Vững mạnh của ngân hàng một mặt thể hiện ở quy mô vốn của ngân hàng, từ đó quy định quy mô tài
sản có và tài sản nợ của một ngân hàng. Mặt khác phải thể hiện được tính hiệu quả quá trình kinh doanh,
đầu tư của ngân hàng đó thông qua các chỉ tiêu tài chính đặc biệt là các chỉ tiêu về lợi nhuận. .
Quy mô vốn ngân hàng phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế và chiến lược phát triển hệ thống ngân
hàng của mỗi quốc gia. Nhìn chung, ngân hàng ở các nước có quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động trong nước,
hoạt động quốc tế còn hạn chế. Nhiều nước đang phát triển chủ trương phát triển mạnh các ngân hàng nhỏ
và vừa phù hợp với quy mô của nền kinh tế, với trình độ quản lý còn hạn chế đồng thời tránh những đổ vỡ
6
6



quá lớn, tạo điều kiện cho các khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn. Tuy nhiên, trước xu thế quốc tế hoá, toàn
cầu hóa, sự xâm nhập của các ngân hàng khổng lồ nước ngoài đang đe dọa khả năng cạnh tranh thậm chí
khả năng tồn tại của các ngân hàng nhỏ bé nội địa, Chính phủ các nước thường quy định mức vốn tối thiểu

của ngân hàng đồng thời khuyến khích các ngân hàng tăng vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu, sáp
nhập hợp nhất các ngân hàng với nhau .
Quy mô vốn tối thiểu = Quy định của Chính phủ
Tóm lại, muốn đảm bảo an ninh tài chính của các ngân hàng cần theo dõi sát sao các chỉ tiêu phản ánh
mức độ an ninh tài chính của từng ngân hàng và toàn bộ hệ thống ngân hàng, có những ứng phó kịp thời đối
với những thay đổi đe dọa làm mất an ninh tài chính nhằm giữ cho trạng thái tài chính của ngân hàng (hệ
thống ngân hàng) luôn luôn ổn định, an toàn và vững mạnh, ngăn ngừa có hiệu quả khủng hoảng tài chính –
tiền tệ.
Khi xây dựng chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính phải đảm bảo các yêu cầu mang tính chất: hệ thống,
toàn diện, điển hình, khả thi, đặc thù, phát triển.

PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ
AN NINH TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1 THỊ TRƯỜNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO:
Từ tháng 7/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
WTO, một sân chơi đầy cơ hội và thách thức đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu
tư gián tiếp từ nước ngoài tràn vào Việt Nam một cách ồ ạt thông qua thị trường chứng khoán, lạm phát tăng
đáng kể trong thời gian gần đây tới mức sấp sĩ hai con số, tỷ số giá tiêu dùng đã tăng đến mức kỷ lục 12.3%,
tỷ giá hối đối tương đối ổn định, chỉ có tỷ giá USD/VND là giảm giá đáng kể trong thời gian gần đây từ cuối
năm 2007 đến thời điểm này, giá vàng, giá xăng dầu tăng đột biến; giá bất động sản biến động liên tục,
chính sách , chỉ thị của Nhà nước liên tục được ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn…Tất cả những điều
đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam có sự bất ổn .
Một năm đã đi qua, từ khi Việt Nam là thành viên WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn
nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Đối với hệ thống
ngân hàng của nước ta, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, đã
trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, nhưng so với thế giới, với đòi hỏi của thời đại và của
sự phát triển kinh tế đất nước thì vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn và bất cập.
 Tình hình chung về sự phát triển của NHTM Việt Nam hậu WTO.

Năm 2007, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành Ngân hàng cũng đã đạt được những
kết quả khả quan và có những đóng góp quan trọng vào phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế. Tất cả các
7
7



khối tổ chức tín dụng đều có sự phát triển bền vững và hiệu quả, kinh doanh có lãi. Trong đó, khối
NHTMCP có tốc độ phát triển nhanh nhất. Vốn điều lệ, tổng tài sản, tổng nguồn vốn huy động, tổng dư nợ
cho vay và đầu tư, lợi nhuận trước thuế, mạng lưới giao dịch,… của khối này có tốc độ tăng bình quân
khoảng 70% so với năm trước, nhiều chỉ tiêu tăng gấp 2 lần. Nhiều NHTMCP mới chuyển từ nông thôn lên
thành thị có tốc độ tăng quy mô kinh doanh từ 200% đến hơn 700%, hay cao hơn nữa.
Khối NHTMNN có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%; riêng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có tốc
độ tăng dư nợ cho vay và đầu tư lên tới trên 39% so với năm trước và lợi nhuận trước thuế đạt khoảng trên
3.000 tỷ đồng, cao nhất trong khối. Tuy nhiên, quy mô kinh doanh lớn nhất vẫn thuộc về NHNo&PTNT
Việt Nam, nguồn vốn huy động đạt 295.000 tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước, dư nợ cho vay đạt 242.000
tỷ đồng, ước tính chiếm khoảng trên 1/4 thị phần cho vay của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam.
Khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài có kết quả kinh doanh cũng ấn tượng. Tính đến hết năm 2007, ở
nước ta có 28 ngân hàng nước ngoài với 39 chi nhánh, 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 4 Công ty
liên doanh cho thuê tài chính và 2 Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài. Tổng tài sản của các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài lên tới trên 215.000 tỷ đồng,
tổng thu nhập trước thuế của khối ngân hàng và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 2.400 tỷ
đồng. Riêng hai chi nhánh của Tập đoàn Ngân hàng HSBC ở Việt Nam thời điểm đầu năm 2007 có 300 cán
bộ và nhân viên thì cuối năm 2007 đã tăng lên con số 800 người.
Khối ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính có tốc độ tăng
trưởng khiêm tốn hơn.
Ngân hàng Chính sách xã hội đa dạng hoá hơn các chương trình, mục tiêu cho vay vốn. Đặc biệt, là triển
khai có hiệu quả, quy mô lớn chương trình cho học sinh, sinh viên vay vốn học tập.
Kết quả nói trên là tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Đó là, môi trường cạnh tranh hoạt động ngân hàng
bình đẳng hơn. Các khối ngân hàng, đặc biệt là khối NHTMCP thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao

năng lực cạnh tranh: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ và
nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới quản trị điều hành, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu và marketing, mở
rộng mạng lưới, đổi mới phong cách giao dịch, năng động và phân quyền tự chủ trong kinh doanh rõ ràng
hơn.
2.2. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ AN NINH TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT
NAM HIỆN NAY :
2.2.1. Mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng :
2.2.1.1 Ổn định về huy động vốn :
Những năm gần đây môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn định, nền kinh tế phát triển một cách
mạnh mẽ nhưng vững chắc và có chuyển hướng theo chiều sâu. Thu nhập người dân Việt Nam ngày một
tăng lên, đời sống có chiều hướng được nâng cao, cộng với sự biến động của thị trường hiện nay quá mạnh
mẽ làm cho nguồn tiền của nhà đầu tư có nhiều rủi ro khi đem đi đầu tư trong khi lãi suất huy động vốn của
8
8



hệ thống Ngân hàng đang tăng cao ( có nơi lên đến 18.7%/ năm) kích thích tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng gia
tăng. Đặc biệt quan trọng là thói quen của người dân tích trữ tài sản dưới dạng tiền mặt, vàng , ngoại tệ …
đã có những thay đổi lớn. Thay vào đó mọi người đã gửi tiền vào ngân hàng khi niềm tin vào hệ thống ngân
hàng đã được củng cố . Nhìn chung trong những năm qua tốc độ huy động vốn của các NHTM gia tăng
đáng kể , đáp ứng phần lớn nhu cầu của nền kinh tế.
Khi đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong 7 năm ( từ năm 2001-2007),
trước tiên phải kể đến những thành công trong hoạt động huy động vốn : vốn huy động có xu hướng gia
tăng mạnh của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam
Tính đến cuối năm 2007, tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống đạt 39.6% so với năm 2006 là
34.6%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 27.5% của năm 2005.Trong năm 2006 huy động vốn bằng VNĐ
tăng 40,99%, cao hơn so với mức 36,17% của năm 2005; huy động bằng ngoại tệ tăng 25,31%, cao hơn so
với mức 22,81% của 2005. Năm 2007 và đầu 2008, kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng
quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân

vãng lai thâm hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt là giá cổ phiếu
đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007. Những năm gần đây, tỉ giá VND/USD không tăng hoặc chỉ tăng
dưới 1%/năm đã làm nản lòng nhiều người giữ USD và gần đây tỉ giá VND/USD lại sụt giảm nghiêm trọng
và kéo dài đã đẩy người nắm giữ USD vào chỗ hòa vốn hoặc thua lỗ . Các tổ chức tín dụng đã có nhiều giải
pháp tăng cường huy động vốn như là đa dạng hóa các hình thức huy động, khuyến mãi hấp dẫn… Và huy
động vốn đã trở nên cấp thiết đối với một số ngân hàng trong quý I năm 2008. Hệ thống ngân hàng vẫn là
kênh chính thu hút một lượng lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư .
Tốc độ huy động vốn cho nền kinh tế:
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ HĐV 23,5 24,5 24,7 20,9 27,5 34,6 39,6

Thực tế trong năm 2007, nền kinh tế có nhu cầu về vốn rất lớn cho phát triển, nhưng với tốc độ tăng huy
động vốn cao như nêu ở trên là quá cao, làm cho cầu về vốn tăng mạnh, gây ra áp lực tăng lãi suất tiền gửi
làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế. Việc tăng lãi suất quá cao có thể
góp phần kiềm chế được lạm phát, nhưng có thể gây ra giảm đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế lại bị tổn hại
trong tương lai và nền kinh tế theo vòng xoáy lại có thể gặp khó khăn ở sự trì trệ và chậm tốc độ phát triển.
Biểu đồ dưới đây cho thấy thị phần về hoạt động huy động vốn của từng loại hình tổ chức tín dụng trong
năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007.
9
9




Thị phần huy động vốn năm 2006 Thị phần huy động vốn 6 tháng đầu năm 2007
Như vậy, khối NHTM nhà nước vẫn chiếm thị phần lớn trên thị trường huy động và cho vay vốn, cho dù
tỷ trọng của khối này đã giảm xuống đáng kể (66,1% năm 2006 xuống 61,6% 6 tháng năm 2007) nhưng về
số tuyệt đối vẫn tăng lên ( 6 tháng đầu năm đạt 94.472 tỷ đồng). Trong khi đó, thị phần của khối NHTMCP
đã dần tăng lên từ 21,3% vào cuối năm 2006 lên 24,2% vào giữa năm 2007. Đây có thể coi là một thành
công rất đáng ghi nhận của khối NHTMCP vào thời điểm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp thông

qua thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng nói chung và khối
NHTM cổ phần nói riêng. Chịu tác động chung của thị trường vốn là khối các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, vốn huy động và đi vay của khối có sự sụt giảm về thị phần của toàn hệ thống.
Diễn biến lãi suất huy động vốn (% năm)
Lãi suất VND 2005 2006 2007 Quý I -2008 Quý II - 2008
_Kỳ hạn 3 tháng 7,56-8,52% 8.25% 11%-12%
_Ký hạn 6 tháng 7,8% 7,8-8,88% 8.25% 11%-12%
_Kỳ hạn 12 tháng 8,4% 8,4-9,36% 8.25% 11%-12%
Lãi suất ngoại tệ
_Kỳ hạn 3 tháng 3-3,8% 3,9-4,4% 5.2%-6% 6%-6.9%
_Kỳ hạn 6 tháng 3,3-4% 4,1-4,5% 5.2%-6% 6%-6.9%
_Kỳ hạn 9 tháng 3,8-4,5% 4,7-5% 5.2%-6% 6%-6.9%
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo thường niên năm 2005,2006 của NHNN VN.
Trong sáu tháng đầu năm 2008 lãi suất huy động vốn có sự biến động lớn, xuất hiện hình thức huy động
vốn kỳ hạn tuần, hai tháng, bốn tháng…lĩnh lãi đầu kỳ với mức lãi suất hấp dẫn nhằm đáp ứng tình hình
khủng hoảng thanh khoản xảy ra trong cùng thời kỳ. Nguyên nhân là nhằm đối phó với chính sách thắt chặt
tiền tệ của ngân hàng nhà nước mục đích kiềm chế lạm phát tăng phi mã.
Với tình trạng lạm phát tăng cao 12.6% trong năm 2007 và tính đến quý II-2008 là 22% thì lãi suất thực
tế đối với các nguồn vốn huy động trong ngân hàng liệu rằng không còn thực sự dương. Và điều này cũng
một phần lý giải cho lãi suất huy động vốn đặc biệt tăng cao vào quý I và quý II năm 2008.
1
1
0
0



Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tạo ra môi trường mới và
những kênh huy động quan trọng cho phát triển kinh tế. Trong giai đoạn từ năm 2001-2007, NHNN đã chỉ
đạo các TCTD tăng cường các hình thức huy động vốn với nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mở rộng mạng lưới

huy động vốn và sử dụng nhiều hình thức đa dạng như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng .
Những lý do sau đây khiến lượng tiền gửi tăng lên :
+ Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định đã tạo tâm lý tốt cho người dân khi gửi tiền vào ngân hàng.
+ Hệ thống ngân hàng đã ngày càng phát triển về quy mô, xây dựng được mạng lưới rộng lớn, tạo thuận
lợi cho việc huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế.
+ Những cải cách trong hoạt động ngân hàng và chính sách tiền tệ đã tạo dựng được lòng tin của dân
chúng vào hệ thống ngân hàng .
+ Các NHTM với phương châm “ đi vay để cho vay” đã ngày càng chú trọng đến việc đa dạng hóa các
hình thức huy động vốn, từ không kỳ hạn đến có kỳ hạn với nhiều thời hạn khác nhau .
+ Ngoài ra những quy định về ngoại hối cũng được nới lỏng, chính sách kiều hối thông thoáng hơn cũng
giúp thu hút đáng kể lượng ngoại tệ nhàn rỗi trong lưu thông vào hệ thống ngân hàng. Hình thức mở tài
khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân là một kênh huy động nguồn vốn mới với giá rẻ cũng chưa được phát
huy rộng rãi, hiệu quả thấp, do chưa phù hợp với tâm lý và thói quen của người Việt Nam và các NHTM
chưa thấy được quyền lợi của họ trong đó.
2.2.1.2 Ổn định về hoạt động cho vay
Cho vay hay cấp tín dụng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ khác. Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguốn vốn huy
động để cấp tín dụng. Tốc độ tăng cho vay của ngân hàng trong những năm vừa qua như sau :
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng tín dụng 22,8% 27,6% 30,9% 26.2% 19% 22,8% 37,8%

Tín dụng càng tăng là do tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Trong những năm vừa qua, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta có xu hướng tăng qua các năm và thuộc hàng những nước có tốc độ tăng
trưởng cao. Đặc biệt năm 2007, với xu thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế nước ta trên đà khởi sắc, tốc độ
tăng trưởng kinh tế đạt 8,48% - cao nhất trong vòng 10 năm qua .Tất cả điều này chứng tỏ một nền kinh tế
phát triển. Và theo dự báo của Ngân hàng thế giới World Bank trong năm 2008 và 2009 tốc độ tăng trưởng
kinh tế lần lượt là 8.2% và 8.3%. Sự tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến tăng tín dụng cho vay và sự phát
triển của hệ thống ngân hàng và của toàn nền kinh tế. Tạo nên một chu kỳ phát triển mang tính tuần hoàn.
Tuy nhiên với những biến động hiện nay của thị trường liệu rằng nước ta có giữ vững được tốc độ tăng

trưởng kinh tế như dự báo hay không vẫn còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
1
1
1
1



Cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đặc biệt khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam cần
hấp thụ một lượng vốn lớn để trang bị sức mạnh trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong thời gian
sắp tới. Ngày càng có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh nên ngay từ bây giờ các doanh nghiệp trong nước cần
đầu tư phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng sản phầm dịch vụ. Mặt khác, ngày càng có thêm nhiều
doanh nghiệp mới được thành lập nên cần nhiều vốn để phát triển. Cơ cấu cho vay cũng phát triển, ngoài
các lĩnh vực truyền thống còn cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản, cho vay tiêu dùng,
cho vay phục vụ học tập nên làm cho tốc độ tín dụng tăng mạnh trong 2007. Nguồn vốn vay cũng dồi dào,
các tổ chức tín dụng tăng mạnh vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới chi nhánh .
Diễn biến lãi suất cho vay (% năm)
Lãi suất VND: 2005 2006 2007 Quý I/2008 Quý II/2008
+ Ngắn hạn 9,6-11,4% 9,6-13,8% 12.5-18.42 14.4-24%
+ Dài hạn 10,8-13,8% 11,4-16,2% 13.5-21.85% 18-24%
Lãi suất ngoại tệ:
+ Ngắn hạn 5,25-6,2% 5,8-6,7% 8.5% 9.5%
+ Dài hạn 5,5-7,5% 6-8% 8.5% 10.6%
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo thường niên năm 2005,2006 của NHNN VN
Trong năm 2007 và ba tháng đầu năm 2008 lãi suất cho vay tăng đột biến do tình trạng khang hiếm
dòng vốn cho vay xảy ra trên diện rộng. Do các nhà đầu tư trong thời gian qua đã đầu tư quá nhiều vào thị
trường bất động sản và chứng khoán. Vì vậy nhu cầu vay để kinh doanh chứng khoán và bất động sản là rất
lớn. Bên cạnh đó, vào đầu năm 2008 lạm phát tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ, dòng vốn
huy động từ các NHTM là không tăng và cuộc khủng hoảng về thanh khoản tại các NHTM Việt Nam thiếu
nguồn vốn cho vay cũng là yếu tố đẩy lãi suất cho vay tăng lên đáng kể, xuất hiện mức lãi suất cao nhất từ

trước đến nay 2%/tháng tương đương với 24%/năm. Nhưng thực tế vẫn thiếu vốn cho vay.
Dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh, tăng 37,8%, cao
đột biến so với nhiều năm trước đây. Đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền
kinh tế. Nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội của nền kinh tế năm 2007 là trên 452 ngàn tỷ đồng, trong đó, vốn
huy động qua hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 50%, tức là cần khoảng 226 ngàn tỷ đồng, trong khi thực tế
nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng cho vay ra nền kinh tế tăng khoảng 262 ngàn tỷ đồng so với năm 2006,
như vậy cao hơn so với nhu cầu cần thiết khoảng 36 ngàn tỷ đồng. Nhưng vấn đề cần bàn chính là chỗ vòng
quay đồng tiền năm 2007 có cao hơn các năm do các nhu cầu vốn cho kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
bất động sản và vay vốn cho tiêu dùng. Hoạt động sôi động và phát triển mạnh của lĩnh vực chứng khoán,
bất động sản và tiêu dùng đã tác động ngược vào hệ thống ngân hàng làm cho nó cũng sôi động theo. Hơn
nữa, có lẽ vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ
1
1
2
2



cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng
được nhu cầu.
2.2.2. Mức độ an tòan vốn của ngân hàng:
2.2.2.1 Tình hình an toàn vốn
a. Đo lường tỷ lệ an toàn vốn:
Về tỷ lệ an toàn vốn, theo yêu cầu của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và chuẩn mực an toàn hoạt
động ngân hàng của Ủy ban Basel, tỷ lệ an toàn vốn được đánh giá qua hệ số đủ vốn CAR (Capital
Adequacy Ratio). Một ngân hàng được xem là đủ vốn khi tỷ lệ vốn cấp I chia cho tài sản có đã điều chỉnh
rủi ro tối thiểu bằng 4% và tổng vốn cấp I và II chia cho tài sản có đã điều chỉnh rủi ro tối thiểu bằng 8%.
Tổng vốn (I+II)
Tỷ lệ an toàn vốn =
Tổng tài sản

Vốn cấp I chính là vốn nòng cốt (bao gồm: vốn điều lệ , quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng
tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận không chia _core capital – tier 1); vốn cấp II (vốn bổ
sung bao gồm 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo quy định của pháp luật,
40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá
lại theo quy định của pháp luật, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành;
các công cụ nợ và dự phòng chung _ supplementary capital – tier 2); tổng vốn cấp II không được quá 100%
vốn cấp I.
Quyết định 457/2005/ QĐ –NHNN ngày 19 / 4 / 2005 thì tỷ lệ vốn an toàn đối với mỗi khách hàng vay
vốn của ngân hàng dựa trên cơ sở là số lượng cho vay khách hàng đó không được vượt quá 15% số vốn điều
lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Do quy mô vốn nhỏ giới hạn của tỷ lệ an toàn nên những dự án lớn
phải vay vốn dưới hình thức đồng tài trợ hay hợp vốn cho vay (mặc dù một ngân hàng cũng đủ khả năng).
Theo Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 và quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày
19/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định TCTD góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín
dụng trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác nếu vượt quá tỷ lệ quy định
11% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng và tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng
trong tất cả các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác nếu vượt quá 40% vốn điều
lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng thì phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn bản với
điều kiện khoản góp vốn, mua cổ phần đó là hợp lý và tổ chức tín dụng đã chấp hành các tỷ lệ khác về an
toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở xuống.
b. Thực trạng và đánh giá:
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia NH, một trong những điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng Việt
Nam hiện thời là vốn nhỏ và tỷ lệ an toàn vốn thấp. Hầu hết các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đều đạt tỉ lệ
an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo quyết định của ngân hàng nhà nước và phù hợp với tiêu chuẩn BASLE
1
1
3
3




(CAR tối thiểu là 8% và theo kiến nghị có thể tăng lên 12% trong những năm sắp tới) . Tỉ lệ an toàn vốn ở
các ngân hàng có xu hướng tăng dần qua các năm:
Tên ngân hàng 2005 2006 2007
Ngân hàng BIDV 6.86% 9.4% 9.59%
Ngân hàng VCB 11.8% 11.8% 11.8%
Ngân hàng ACB 12% 10.9% 16.19%

Tình hình an toàn vốn của các NHTM Việt Nam có sự đảm bảo hơn khi so sánh qua các năm, năm sau
cao hơn năm trước. So với tiêu chuẩn an toàn vốn theo thông lệ quốc tế ( 8%) thì các NHTM Việt Nam là
đảm bảo. Tuy nhiên do vấn đề về minh bạch các tỷ số tài chính tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa
minh bạch rõ ràng nên khi xét đến các hệ số này chúng ta cần phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác để có
cách nhìn nhận hợp lý.
2.2.2.2 Vấn đề nợ quá hạn
a.Nợ quá hạn
Nợ quá hạn được hiểu một cách tổng quát là một khoản nợ mà người đi vay (doanh nghiệp) đến hạn phải
trả cho người cho vay (ngân hàng thương mại) cả vốn và lãi theo cam kết, nhưng lại không trả được đúng
hạn. Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Khi nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ
lớn trong tổng dư nợ cho vay, nó sẽ có tác động ngược đối với lợi ích của mỗi tổ chức tín dụng trong nền
kinh tế. Có nhiều nguyên nhân khách quan bà chủ quan dẫn đến nợ quá hạn trong nền kinh tế.
Mặt khác, tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các NHTM quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào
tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến
động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện
thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến số dư nợ cho vay tăng lên và cuối cùng là số dư nợ
xấu tăng lên.
b. Đo lường nợ quá hạn
Các chỉ số đánh giá nợ quá hạn
 Tỷ lệ nợ quá hạn = số dư nợ quá hạn /tổng dư nợ
 Tỷ lệ khách hàng có nợ QH = số KH có nợ QH/Tổng số KH có dư nợ
Để đề phòng rủi ro mất vốn của các khoản nợ khó đòi , NHTM phải trích lập các khỏan dự phòng .
Các chỉ số đánh giá rủi ro mất vốn:

 Tỷ lệ dự phòng RRTD = Dự phòng RRTD được trích lập/ Dư nợ cho kỳ báo cáo
 Tỷ lệ mất vốn = Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo/Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo.
c. Thực trạng và đánh giá nợ quá hạn
Từ nhiều năm nay, nợ xấu của các ngân hàng luôn là câu hỏi không có trả lời chính xác. Trong khi
các công ty kiểm toán, các định chế tài chính quốc tế nhận định số nợ khó đòi của các ngân hàng VN rất
1
1
4
4



cao, thì tỷ lệ nợ trên tổng dư nợ do Ngân hàng Nhà nước và bản thân các tổ chức tín dụng công bố luôn ở
mức thấp.



Nguồn:Tổng cục thống
kê năm 2007



Theo công bố của NHNN, nợ xấu năm 2007 chỉ chiếm 2% tổng dư nợ cho vay, giảm so với cùng kỳ
năm trước là 2,65%, năm 2005 là 2,85% nhưng khi những thị trường nhạy cảm nói trên đột ngột đảo chiều,
nhiều khoản vay đáo hạn thì không chắc con số 2% còn đảm bảo. So với tiêu chuẩn 5% thì nợ xấu trong các
NHTM VN là tương đối đảm bảo. Song một số chuyên gia của một số tổ chức tiền tệ quốc tế và chuyên gia
ngân hàng thương mại trong nước cho rằng, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại thực tế luôn luôn
cao gấp khoảng 2 lần số liệu do Ngân hàng Nhà nước công bố, riêng các NHTM nhà nước tỷ lệ này cao hơn
so với các NHTMCP.Tỷ lệ nợ xấu tại NHTM CP Á Châu năm 2005 là 0.29% và năm 2006 là 0.18%. Tại
NHNN & PTNT năm 2007 tỷ lệ nợ xấu là 1.9%.

Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN về phân loại nợ của NHNN cho
phép các tổ chức tín dụng sau khi dùng dự phòng rủi ro để xử lý nợ, được hạch toán nợ ra ngoại bảng để
bảng cân đối tài sản của ngân hàng “sạch sẽ”. Trên thực tế, dù “chạy” từ nội bảng ra ngoại bảng, thì khoản
nợ vẫn còn đó và nó phải được tiếp tục thu hồi. Thế nhưng, với không ít ngân hàng, nợ đã ra ngoại bảng là
coi như xong. Công bố nợ chỉ là nợ xấu hạch toán nội bảng, một tỷ lệ thấp so với nợ hạch toán ngoại bảng.
Bức tranh nợ, vì thế bị che bớt một phần đáng kể.
Tỉ lệ nợ quá hạn (số dư nợ quá hạn /tổng dư nợ) trong thời gian qua ổn định và có xu hướng giảm là
biểu hiện tốt. Tuy phần trăm nợ quá hạn có xu hướng giảm, song tính số tuyệt đối thì đây là khoản nợ quá
hạn rất lớn của nền kinh tế. Nếu số nợ này trở thành nợ khó đòi, nợ xấu thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn trong
nền kinh tế. Thực tế hiện nay một số ngân hàng thương mại nhìn cục bộ, có phần trăm nợ quá hạn cao, được
biết là số nợ tồn đọng kéo dài chưa hoặc không giải quyết được.
Tuy những con số tỉ lệ nợ xấu đã được báo cáo chính thức trong báo cáo thường niên của ngân hàng nhà
nước Việt Nam, nhưng nó vẫn không được giới tài chính tin tưởng hoàn toàn, bởi vì nó thấp hơn cả mức
thông lệ cho phép là 5%. Cũng theo đánh giá của các theo đánh giá của IMF và WB tại Việt Nam , Vụ
trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng cũng như các chuyên gia nghiên cứu độc lập thì tỷ lệ nợ xấu của
các ngân hàng Việt Nam phải từ hai con số trở lên, cao hơn vốn điều lệ của các ngân hàng rất nhiều.
1
1
5
5



Mặc dù chính phủ đã ban hành chỉ thị 03 hạn chế cho vay kinh doanh chứng khoán dưới mức 3% tổng
dư nợ nhưng xem ra chỉ thị này được ban hành hơi muộn, để các ngân hàng thương mại đã cho vay kinh
doanh chứng khoán nhiều, có thời điểm đã lên khoảng 20.000 tỷ đồng. Theo Ngân hàng nhà nước, con số
này chiếm khoảng 2,6% tổng dư nợ và 7,5% tổng giá trị thị trường của 22/52 các công ty được niêm yết trên
các sở giao dịch chứng khoán. Một số tổ chức tín dụng đã có dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán trên
40% tổng dư nợ. Các tổ chức tín dụng có thể phải chịu tổn thất nặng nề nếu các thị trường này diễn biến bất

lợi. Các khoản cho vay đầu tư và chứng khoán có thể trở thành những khoản nợ khó đòi và nếu như vậy tỉ lệ
nợ khó đòi /tổng dư nợ khó có thể dừng lại ở mức 2% mà có thể còn cao hơn nữa trong năm 2008.
2.2.2.3 Tính thanh khoản:
a. Vấn đề về thanh khỏan
Tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) được hiểu là việc chứng khoán hay các khoản nợ, khoản
phải thu...có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu, là khả năng
ngân hàng đáp ứng các yêu cầu về vốn khả dụng của mình.
Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không có được đủ vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng
thời điểm mà ngân hàng cần để đáp ứng cầu thanh khoản.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản:
 Sự không cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ của NHTM
 Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi của lãi suất
 Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khỏan một cách hoàn hảo
b. Phương pháp đo lường tính thanh khỏan:
 PP tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn: Được sử dụng để đo lường cung cầu thanh khoản, trong đó
phần chủ yếu của cung cầu thanh khoản là tiền gửi và cho vay nên phương pháp này tập trung vào đo lường
những thay đổi dự tính trong tiền gửi và cho vay của ngân hàng.
 Bước 1: Dự báo nhu cầu vay vốn và tiền gửi kỳ hạn của khách hàng
o Xây dựng mô hình dự báo:
 f (Loan) = f(Growth, Coporate Earnings,Money supply,Spread, Inflation…)
 f (Deposits) = f(Personal Income, Retail Sales, Money supply,Yield, Inflation….)
o Xây dựng đường xu hướng bao gồm: Phần xu hướng, mùa vụ, chu kỳ.
 Bước 2: Tính sự thay đổi dự tính về cho vay và tiền gửi kỳ hạn của khách hàng.
 Bước 3: Xác định khe hở thanh khoản
Khe hở thanh khoản = Tổng cung thanh khỏan ( Tăng tiền gửi, giảm cho vay) – Tổng cầu thanh
khoản ( Tăng cho vay, giảm tiền gửi)
Khe hở TK >0: Thặng dư Thanh khoản  NH sẽ đầu tư vào các tài sản sinh lời
Khe hở TK <0: Thâm hụt Thanh khoản  NH sẽ phải bổ sung thiếu hụt thanh khoản
1
1

6
6



 PP tiếp cận cấu trúc quỹ
:
:




l
l
à
à

phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn và chỉ quan tâm đến cầu thanh khoản.
Phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản dựa vào việc phân chia cơ cấu nguồn vốn huy động theo khả năng
nguồn vốn này bị rút ra khỏi ngân hàng để xác định yêu cầu thanh khoản của ngân hàng .
 Bước 1: Nguồn vốn được phân chia thành các nhóm
Theo xác xuất bị rút vốn:
o Nguồn vốn nóng: vốn vay và tiền gửi nhạy cảm với lãi suất hoặc được dự tính sẽ bị rút khỏi
NH trong kỳ kế hoạch.
o Nguồn vốn kém ổn định: các khoản tiền gửi của khách hàng trong đó một phần đáng kể (25-
30%) sẽ có thể bị rút khỏi NH tại một thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch.
o Nguồn vốn ổn định: khoản mục vốn mà nhà quản trị ngân hàng tin tưởng chắc chắn rằng ít có
khả năng bị rút khỏi ngân hàng (trừ một bộ phận rất nhỏ trong tổng số).
 Bước 2: Xác định yêu cầu dự trữ thanh khoản cho nguồn vốn trên:
Thông thường tỷ lệ dự trữ thanh khoản được lựa chọn như sau:

o Tỷ lệ dự trữ thanh khoản lớn nhất cho nguồn vốn nóng, thường là 95%
o Tỷ lệ dự trữ thanh khoản cho nguồn vốn kém ổn định, thường là 30%
o Tỷ lệ dự trữ thanh khoản thấp nhất cho nguồn vốn ổn định: <= 15%.
Dự trữ thanh khoản vốn = 0.95* (Nguồn vốn nóng – DTBB)
+ 0.30* (Nguồn vốn kém ổn định – DTBB)
+ 0.15* (Nguồn vốn ổn định – DTBB)
 Bước 3: Xác định yêu cầu cho các khoản vay có chất lượng: Thường là 100% phần chênh lệch giữa
tổng cho vay tối đa tiềm năng và dư nợ thực tế.
 Bước 4: Xác định tổng yêu cầu thanh khoản của ngân hàng

Tổng dự trữ Dự trữ thanh + Dự trữ thanh
Thanh khoản = khoản vốn khoản cho vay
= 0.95* (Nguồn vốn nóng – DTBB)
+ 0.30* (Nguồn vốn kém ổn định – DTBB)
+ 0.15* (Nguồn vốn ổn định – DTBB)
+ 1.00* (Quy mô CV tối đa – Tổng DN hiện tại)
 Bước 5: Xác định yêu cầu theo các kịch bản
Yêu cầu thanh khoản dự tính = Σ Pr(x
i
)*NLPx
i

+ X
i
: Các kịch bản được xây dựng
+ Pr(x
i
): Xắc suất kịch bản i xảy ra
+ NLPx
i

: Yêu cầu thanh khoản X
i

1
1
7
7



 PP Tiếp cận chỉ số tài chính
Trạng thái Cách tính Đánh giá
Tiền mặt (Tiền mặt + Tiền gửi tại các
TCTD)/Tổng TS
Đánh giá tỷ trọng TS có tính thanh khoản cao
nhất trong tổng tài sản của NH
Chứng khoán
thanh khoản
Chứng khoán chính phủ/ tổng TS Chỉ số chứng khoán thanh khoản càng cao,
trạng thái thanh khoản của NH càng tốt
Hệ số về năng
lực
(Dư nợ cho vay + cho thuê)/ Tổng
tài sản
Phần tài sản được phân bổ vào tài khoản kém
tính thanh khoản nhất
Hệ số tiền nóng TS trên thị trường Tiền tệ ( giấy tờ
có giá ngắn hạn) /Nợ trên thị
trường tiền tệ (Tiền gửi vốn vay
ngắn hạn)

Hệ số này càng cao thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng càng cao
Tỷ số đầu tư
ngắn hạn trên
vốn nhạy cảm
Đầu tư ngắn hạn / Vốn nhạy cảm Hệ số này càng cao thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng càng cao
Cấu trúc tiền
gửi
Tiền gửi giao dịch / Tiền gửi kỳ
hạn
Tỷ lệ này giảm thể hiện tính ổn định cao hơn
của vốn tiền gửi và do đó thanh khoản sẽ giảm

 PP Tiếp cận chỉ số thanh khoản
Chỉ số này đo lường khoản thất thoát tiềm tàng khi ngân hàng phải bán ngay các tài sản của mình để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản với giá trị thị trường hợp lý của tài sản ngân hàng có thể bán trong điều kiện bình
thường. Nếu giá bán ngay càng khác biệt so với giá thị trường hợp lý của tài sản thì danh mục tài sản đó
của ngân hàng càng kém thanh khoản
I = Σ W
i
* (P
i
/P
*
i
)
I: Chỉ số thanh khoản giao động từ 0-1;
W
i

: Tỷ trọng tài sản loại i;
P
i
Là giá bán ngay,
P
*
i
Là giá thị trường hợp lý của tài sản.
Chỉ số này càng thấp thể hiện tính thất thoát tiềm tàng về tài sản của ngân hàng càng lớn khi ngân hàng
phải bán ngay các tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu thanh khoản .
 PP thang đáo hạn
1
1
8
8



Phương pháp này xây dựng thang đáo hạn để so sánh các dòng tiền ra và dòng tiền vào trong mỗi ngày
hoặc trong một thời kỳ nhất định, qua đó để xác định được các trạng thái thanh khoản ròng và trạng thái
thanh khoản tích luỹ.
 Các dòng tiền ra có thể được được xếp thứ tự theo ngày mà các tài sản Nợ đáo hạn, ngày sớm nhất
mà người gửi tiền tiết kiệm thực hiện quyển được rút tiền gửi trước hạn, hoặc ngày sớm nhất mà các
nhu cầu về vốn phát sinh một cách đột xuất.
 Các dòng tiền vào có thể được xếp thứ tự theo ngày mà các tài sản Có đáo hạn hoặc căn cứ vào ước
tính của ngân hàng về dòng tiền
Tiếp theo nên dự báo các dòng tiền trong các kịch bản khác nhau thông qua việc xem xét trong các điều
kiện bình thường, điều kiện ngân hàng gặp khó khăn và điều kiện của thị trường gặp khó khăn.
c. Thực trạng và đánh giá
Đặc biệt trong hai tháng qua, các ngân hàng thương mại của Việt Nam lâm vào tình trạng thiếu thanh

khoản chưa từng có. Chính sách thắt chặt tín dụng để giảm lạm phát thì lại thổi bùng lạm phát trong ngắn
hạn.
Khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng xảy ra khi các ngân hàng thương mại không còn tiền
mặt để cho vay và trả nợ đến hạn, mà không vay được trên thị trường liên ngân hàng. Khủng hoảng thanh
khoản thường là hệ quả đi kèm của một khủng hoảng nợ xảy ra trước đó, nhưng đôi khi là hậu quả của việc
thắt chặt tiền tệ quá đột ngột.
Điều này đã gây ra hàng loạt tác dụng ngược.
Một là, hệ quả tức thời của việc này là các ngân hàng do không huy động kịp vốn nên phải vay nóng
trên thị trường liên ngân hàng để tránh mất thanh khoản, đẩy lãi suất VNIBOR lên rất cao đã và đang gây
thiệt hại cho các ngân hàng.
Hai là, mặc dù tiền mặt trong dân vẫn nhiều, nhưng khi hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt thì tín dụng
cấp cho nền kinh tế cũng bị cạn kiệt nhanh chóng.
Ba là, biện pháp nhằm giảm lạm phát trong trung hạn này lại đẻ ra lạm phát dữ dội trong ngắn hạn.
Muốn giữ cho hệ thống ngân hàng không lâm vào tình trạng mất thanh khoản, NHNN lại phải bơm tiền ra
liên tục, ngược hẳn với ý định thu tiền về ban đầu. Chỉ trong một tuần, NHNN đã phải bơm 33.000 tỉ đồng
vay ngắn hạn vào hệ thống liên ngân hàng, gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc.
Bốn là, việc bơm tiền dồn dập vừa qua đang khiến cho NHNN dần hết tiền, tác động xấu đến tính khả
tín của cam kết chống lạm phát của NHNN trong năm 2008.
Năm là, nguy cơ vỡ nợ của một vài ngân hàng tuy chưa lớn, nhưng sẽ tăng nhanh nếu tình trạng khủng
hoảng thanh khoản kéo dài. Một khi lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng giảm sút quá lớn,
họ sẽ đổ xô đến ngân hàng để tranh nhau rút tiền gửi, làm sụp đổ toàn hệ thống.
2.2.3 Tính vững mạnh đối với hoạt động ngân hàng.
2.2.3.1 Quy mô vốn tự có và các chỉ tiêu lợi nhuận
1
1
9
9




Vốn tự có có vai trò to lớn trong hoạt động của ngân hàng thương mại , vì vốn tự có là yếu tố quyết định
sức mạnh tài chính của một ngân hàng, là “tấm đệm chống đỡ rủi ro”. Nó là yếu tố tạo nên sức mạnh và khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, vì nó thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân
NHTM. Với một khoản vốn lớn, ngân hàng có khả năng cung cấp tín dụng lớn hơn, làm giảm bớt rủi ro và
là một yếu tố để ngân hàng có thể cải tiến công nghệ, mở rộng hoạt động và tăng khả năng cung cấp dịch vụ
trên. Tuy vậy lượng vốn tự có của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng hầu hết không đáp ứng
được yêu cầu hoạt động.
Thực tế, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đặc biệt của vốn tự có, lại trong điều kiện cạnh tranh do Việt
Nam gia nhập WTO, theo cam kết của Chính phủ Việt Nam từ ngày 01/04/2007, các tổ chức tín dụng nước
ngoài sẽ được phép thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và các ngân hàng này được
đối xử như các ngân hàng nội địa sẽ là một thách thức lớn đối với các TCTD trong nước nói chung và các
NHTM nói riêng. Do đó, việc các NHTM tăng vốn tự có là hết sức cần thiết, nhưng vốn không phải là yếu
tố duy nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng, nên nếu vốn tăng quá nhanh nhưng hoạt động ngân hàng
không tăng tương ứng, trình độ quản lý không theo kịp, hay vốn tăng nhưng ngân hàng chưa thực sự vững
mạnh theo đúng chuẩn mực quốc tế thì số vốn tăng sẽ được sử dụng không hiệu quả. Vì vậy, điều quan
trọng là các NHTM phải xác định được mức vốn tự có cần thiết đủ để bù đắp rủi ro, đồng thời lựa chọn giải
pháp thích hợp để tăng vốn, nhằm đảm bảo được sức mạnh tài chính và năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Theo quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số 67/QĐ-NH5 về mức vốn điều lệ tối thiểu đối
với các tổ chức tín dụng thành lập từ năm 1996 , mức vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng như sau :
Loại ngân hàng Vốn điều lệ tối thiểu:
1. Ngân hàng thương mại cổ phần:
1.1. Đô thị:
- Tại thành phố Hồ Chí Minh
- Tại Hà Nội
- Tại các tỉnh thành phố khác
1.2. Nông thôn :
- Có chi nhánh
- Không có chi nhánh

150 tỉ VNĐ

100 tỉ VNĐ
50 tỉ VNĐ

10 tỉ VNĐ
3 tỉ VNĐ
2. Công ty tài chính:
2.1. Công ty cổ phần
2.2. Trong tổng công ty nhà nước

50 tỉ VNĐ
30 tỉ VNĐ

Bên cạnh đó, vững mạnh hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận vừa phản
ánh hiệu quả hoạt động ngân hàng vừa là nguồn bù đắp những tổn thất xảy ra trong hoạt động ngân hàng
2
2
0
0



đồng thời là nguồn đóng góp cho NSNN. Để tăng lợi nhuận cần giảm chi phí và tăng chênh lệch lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi.
Tỉ suất sinh lợi trên
tài sản
(ROA)
=
Lợi nhuận ròng (R)
x 100%
Tổng tài sản có (A)

ROA được coi là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng hay hiệu quả khai thác tài sản có. Một ngân
hàng được coi là hoạt động có hiệu quả khi ROA tối thiểu 0.9%-1%. Và ROE được xem là chỉ số được
mong đợi nhất của các cổ đông, nó cho biết mức lợi nhuận có được với đồng vốn mà cổ đông bỏ ra.




Nhìn vào các chỉ số lợi nhuận có thể thấy được tình hình vững mạnh của một ngân hàng. Tỉ suất sinh lợi
càng cao thì ngân hàng kinh doanh càng có hiệu quả. Vì thế bất kỳ một ngân hàng hay một công ty nào cũng
tìm mọi cách để gia tăng các tỉ số lợi nhuận
2.2.3.2 Thực trạng và đánh giá:
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia NH, một trong những điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng Việt
Nam hiện thời là vốn nhỏ và tỷ lệ an toàn vốn thấp. Tính đến cuối năm 2007, vốn điều lệ của một số
NHTM mại quốc doanh và NHTMCP đã gia tăng đáng kể theo quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày
04/09/2001 và quyết định số 797/2002/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam về gia tăng vốn điều lệ .
Một số NHTM tính đến cuối năm 2007 có gia tăng vốn điều lệ như sau : (tỉ đồng).
NHTMQD
Vốn điều lệ
NHTMCP
Vốn điều lệ
NH Công Thương 7.554 Đông Nam Á 3.000
Ngân hàng BIDV 7.490 Quân Đội 2.000
Ngân hàng AGRB 10.400 Xuất nhập khẩu 2.800
Ngân hàng MHB 744 Phương Nam 1.434
NH Phát triển VN 5.000 An Bình 2.300

Vốn điều lệ của các ngân hàng được bổ sung mạnh, NHTMNN tăng 50% , NHTMCP tăng 67%. Ngoài
nguồn vốn được bổ sung từ lợi nhuận giữ lại ,các ngân hàng còn phát hành cổ phiếu nhằm đáp ứng yêu cầu
Nghị định 41 của Thủ tướng chính phủ .Trong 2 năm 2006 và 2007 ,các NHTMCP được phép tăng vốn điều
lệ lên 31.768 tỉ ,trong đó phát hành cổ phiếu 19.945 tỉ ,lớn nhất là Ngân hàng Đông Nam Á (2000 tỉ), Á

Châu (1530 tỉ), Đông Á (1000 tỉ), Quân Đội (955 tỉ)…
Tính đến đầu năm 2008, nguồn vốn tự có của các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh
đạt gần 28.230 tỷ đồng, tăng hơn 90% so với cùng kỳ năm trước. Riêng vốn điều lệ của các ngân hàng
Tỉ suất sinh lợi
trên vốn cổ phần
(ROE)
=
Lợi nhuận ròng (R)
x 100%
Tổng vốn cổ phần (E)

×