Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.24 KB, 97 trang )

Luận văn tốt nghiệp
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
4
Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài
chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
6
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 6
1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD 6
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế 9
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD 10
a) Đặc điểm 10
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai 12
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD 14
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính 14
1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp NQD
16
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh 16
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 17
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD 17
1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD 22
1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD 28
1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD 28
1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD 30
1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD 34
1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính doanh
nghiệp NQD
40
1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 41


1.3 Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh
43
1
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
1
Luận văn tốt nghiệp
nghiệp NQD
Chương II Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với
doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay
45
2.1. Khái quát về khu vực kinh tế NQD 45
2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự
phát triển của khu vực kinh tế NQD
45
2.1.2. Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta
trong những năm qua
49
2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở
nước ta hiện nay
57
2.2.1. Khái quát về cơ chế quản lý tài chính khu vực NQD ở nước ta 57
2.2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD ở nước
ta hiện nay
59
2.2.2.1. Quản lý về thành lập và đăng kí kinh doanh 59
2.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 59
2.2.2.3. Quản lý doanh thu chi phí 60
2.2.2.4. Quản lý phân phối thu nhập 63
2.2.2.5. Công tác kiểm toán kế toán và báo cáo tài chính 68
2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý tài chính DNNQD 69

2.3.1. Những thành tựu chung đã đạt được 70
2.3.2. Những hạn chế của cơ chế quản lý tài chính DNNQD 71
2.3.3. Nguyên nhân căn bản của những hạn chế trên 72
Chương III Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với
DNNQD ở nước ta
76
3.1. Những quan điểm cần quán triệt trong việc thiết lập cơ chế quản lý
tài chính đối với khu vực kinh tế NQD
78
3.2. Giải pháp thiết lập cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD 78
3.2.1. Quản lý vốn và tài sản 80
3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí 83
2
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
2
Luận văn tốt nghiệp
3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập 87
3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính 89
3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác 91
3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp 96
Kết luận 98
Danh mục tham khảo 99
Lời mở đầu
Từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta xác định chúng ta
đang trong thời kì quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, xây dựng một nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa
chính là nhiệm vụ trọng tâm xuyên xuốt trong giai đoạn lịch sử này. Để có được
bài học đó, chúng ta đã phải trả giá bằng một thời kỳ dài nền kinh tế vận hành
theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với tất cả những "thói hư tật xấu", vì
vậy để thực hiện được đường hướng của Đảng và Nhà nước, chúng ta phải thực

hiện một quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sâu sắc và toàn diện. Kèm
theo đó là quá trình đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các loại
hình sở hữu, tận dụng và phát triển mọi nguồn nội lực để phát triển, thực hiện
tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Chính từ đó,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã ra đời và phát triển, trở thành bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp to lớn vào công cuộc phát
triển kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo
3
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
3
Luận văn tốt nghiệp
thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế không thuộc sở
hữu nhà nước, chúng vận hành theo cơ chế thị trường, mục tiêu quan trọng nhất
là lợi nhuận. Chính vì thế, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, dưới hình
thức hành chính hay mệnh lệnh tới các doanh nghiệp này. Đảng và nhà nước
cần tạo lập cho khu vực kinh tế NQD một môi trường hoạt động phù hợp, vừa
thực hiện đúng định hướng phát triển chung của đất nước, vừa khuyến khích và
tận dụng được những ưu việt vốn có của nó. Trong đó, cơ chế quản lý tài chính
chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Thiết lập được một cơ chế
quản lý tài chính hiệu quả chính là tiền đề, là điều kiện cơ bản để thực hiện các
mục tiêu và nhiệm vụ khác.
Hiện nay ở nước ta, chưa có một cơ chế quản lý tài chính chính thức và
độc lập đối với doanh nghiệp NQD, công tác quản lý tài chính đối với khu vực
kinh tế này được thực hiện dựa trên cơ chế quản lý tài chính đối với doanh
nghiệp Nhà nước (Nghị định 59/NĐ-CP, và Nghị định 27/NĐ-CP ban hành kèm
nghị định 59). Cơ chế này do đó chưa hoạt động thật sự hiệu quả, không phát
huy được tối đa tiềm lực của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong thời gian
qua, Chính phủ đang hướng dẫn chỉ đạo Bộ tài chính và các bộ ngành liên quan

xây dựng và ban hành một Nghị định tương tự Nghị định 59/NĐ-CP nhưng là
cho các doanh nghiệp NQD. Trước thực tế đó, em mạnh dạn đề cập và nghiên
cứu đề tài :
"Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở
Việt Nam".
Chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh
4
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
4
Luận văn tốt nghiệp
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD
ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do kiến thức
còn hạn chế, nhận thức chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và những khó
khăn khách quan về tài liệu, số liệu và các tài liệu tham khảo, chuyên đề chắc
chắn không thể tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Vì vậy, em mong được thầy cô và
các bạn phê bình, bổ sung và đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Cục tài chính doanh
nghiệp, nhất là tập thể cán bộ Ban ngoài quốc doanh, những người giàu kinh
nghiệm thực tế trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, em xin cám ơn
thầy giáo Vũ Duy Hào người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH.
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD)
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
Đề cập đến kinh tế ngoài quốc doanh, Nghị quyết Đại hội trung ương
Đảng lần thứ V đã công nhận, trong hơn 10 năm thuộc thời kì đổi mới, khu vực

kinh tế tư nhân (kinh tế NQD) bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở
hữu cá nhân, kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới các loại hình khác nhau như
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),..., kinh tế hộ gia đình,
đã có những bước phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp trên cả nước. Kinh tế
NQD đã đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, thông qua việc
huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc
làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân
5
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
5
Luận văn tốt nghiệp
sách nhà nước, góp phần đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội trong nước và
nhiều mặt tích cực khác.
Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là
một chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh
tế và nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kì đổi
mới. Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái
niệm về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị
hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền
sở hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn
vốn hoạt động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này
khác cơ bản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà
nước cấp, nghĩa là từ sự đóng góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy
nhiên, DNNQD không bao gồm tất cả các doanh nghiệp không thuộc sở hữu
nhà nước. Trong nền kinh tế mở, các quốc gia có sự thông thương nhất định,
các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh được thành lập,
nhưng rõ ràng là không nên xếp chúng vào doanh nghiệp NQD. Thứ nhất, vì
chúng không có tính đồng nhất về mặt sở hữu, một doanh nghiệp liên doanh

có thể là sự liên doanh giữa hai công dân thuộc hai nước khác nhau, liên
doanh giữa hai tổ chức hay liên doanh giữa hai chính phủ, còn doanh nghiệp
nước ngoài thì càng không thể khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư
nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước
ngoài khác so với các doanh nghiệp trong nước, chúng vận hành theo một bộ
luật riêng thường là luật đầu tư nước ngoài và ảnh hưởng lên một số khía
cạnh đặc thù trong nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài
trợ xuất nhập khẩu v.v Vì vậy, ở đây chúng ta không xếp các doanh nghiệp
nước ngoài như một bộ phận của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
6
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
6
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, DNNQD ở nước ta hiện nay chính là các doanh nghiệp hoạt
động theo luật doanh nghiệp đó là các đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn)
về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kể đến các hộ kinh
doanh cá thể với mức vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh
nghiệp tư nhân. Đây là loại hình kinh tế hộ gia đình kinh doanh trong một số
ngành nghề như nông nghiệp, thủ công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Nhìn
chung, bộ phận chính, quan trọng nhất trong khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh chính là các công ty bao gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công
ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó
thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách
nhiệm hữu hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên

không quá 50 và không được quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm
chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng
không được quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần
- Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, số lượng cổ
đông tối thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền
phát hành chứng khoán ra công chúng.
7
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
7
Luận văn tốt nghiệp
Công ty hợp danh
- Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các
thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải
là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính
của công ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm
trên lượng vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không
được phát hành chứng khoán.
Doanh nghiệp tư nhân
- Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có thể
được phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau:
- Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay
một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.

- Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và
điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử
dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao
động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo
luật Doanh nghiệp.
Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành
nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác
8
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
8
Luận văn tốt nghiệp
nhau như vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp
cận khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp
NQD là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là
không phải các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (như đã trình bày ở
trên). Đây là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, một
phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Phát triển khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhiệm vụ quan trọng để đi đến thắng lợi cuối
cùng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế:
Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trong nền
kinh tế, tất nhiên trừ một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền để kiểm
soát tình hình an ninh quốc phòng và ổn định chính trị trong nước.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục có những
đóng góp tích cực và vô cùng quan trọng cần thiết trong công cuộc phát triển
đất nước.
- Góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi

mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội.
- Là lĩnh vực chính thu hút lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho
người lao động.
- Giải phóng sức lao động và huy động tối đa các nguồn lực trong dân cư
vào công cuộc phát triển kinh tế.
- Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao tính năng động hiệu quả cho nền
kinh tế.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặc dù có những vai trò tích cực và quan trọng như đã kể trên, nhưng
trong quá khứ và ngay cả hiện tại vẫn có những quan điểm không thống nhất
9
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
9
Luận văn tốt nghiệp
về những đóng góp của khu vực kinh tế NQD. Nhiều quan điểm cho rằng
kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, là nguyên nhân của sự phân hoá giàu
nghèo, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Tuy nhiên, một nhà
nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế của mình có thể có
những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu nhập cũng như sự
bóc lột sức lao động. Cần phải quán triệt khu vực kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế tư nhân trong chủ
nghĩa tư bản khác nhau về căn bản. Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem
các doanh nghiệp tư nhân hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và là
đối tượng phải cải tạo của CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đóng góp quan trọng lâu dài
vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính yếu
là để phát huy được hết tính tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến
trình phát triển chung của đất nước, nhà nước phải có những định hướng
đúng đắn, nhất quán và những chính sách, đường lối chỉ đạo phù hợp mà cơ
chế quản lý tài chính, vấn đề được nghiên cứu ở đây chính là một bộ phận

không thể thiếu.
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD:
a) Đặc điểm :
- Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu
đều là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh
nghiệp tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty
hợp danh, Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội
chủ nghĩa như ở nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả
năng tài chính hạn hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ
lẻ, sự vụ, thiếu những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn
định, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại
10
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
10
Luận văn tốt nghiệp
dịch vụ, hàng thủ công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là
một trong những thiệt thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp
nhà nước. Trong khi doanh nghiệp nhà nước được cung cấp thiết bị công
nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các
doanh nghiệp tư nhân sử dụng công nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã
quá cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm chí có một số là do doanh nghiệp nhà
nước thanh lý. Tiếp theo phải nói đến trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất
cập trong khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân thường có kiến
thức và khả năng kinh doanh rất hạn chế, những hiểu biết về khoa học kinh tế
hay nghiệp vụ kinh doanh rất sơ sài, bên cạnh đó là nhận thức và kiến thức về
pháp luật, thông tin thị trường ngay trong nước chứ chưa nói đến quốc tế còn
nhiều thiếu sót và yếu kém. Tất nhiên, tình trạng trên cũng một phần là do
các nguyên nhân khách quan mang lại, đó là chiến tranh, thời kỳ bị bao vây
cấm vận, thời kì thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp và một số điều kiện kinh tế xã hội khác. Và cũng không phải toàn bộ các

doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào tình cảnh trên, không thiếu những doanh
nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả cao, vươn lên là những điển hình tiêu biểu là
tấm gương để các doanh nghiệp khác noi theo phấn đấu. Trình độ phát triển
yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân như trên chính là một giai đoạn mà
nhiều nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang phát triển như nước ta vẫn thường
trải qua. Và việc thiết lập một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn cho khu vực
kinh tế này chính là một phương cách để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh quá
trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ở đây là do doanh nghiệp tư nhân là
thuộc sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ
chức hoạt động cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ, trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp
11
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
11
Luận văn tốt nghiệp
luật quy định. Cũng chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sự
điều tiết một cách trực tiếp theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước.
Nhà nước không thể can thiệp quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận
hành và tổ chức hoạt động của các DNNQD. Điều này không giống với các
DNNN, và càng khác biệt rõ rệt với những gì mà cơ chế cũ đã thể hiện.
Nhưng như vậy không có nghĩa rằng nhà nước không có vai trò gì đối với sự
phát triển của DNNQD. Ngược lại, nhà nước ảnh hưởng sâu xắc đến sự phát
triển của các DNNQD trên mọi phương diện thông qua các chính sách, định
hướng và đường lối chỉ đạo, thông qua hệ thống pháp luật mà cơ chế quản lý
tài chính cũng là một bộ phận trong đó. Đây cũng chính là đặc điểm cần hết
sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết lập một cơ chế quản lý tài chính DNNQD
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai:
Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tế đang

thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh.
Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính
lĩnh vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau:

Các khu vực sở hữu
Đơn
vị
1992 1994 1995
199
6
Số cơ sở

sở
1514
615
1558
627
2078
125
224
558
12
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
12
Luận văn tốt nghiệp
DNNN
" 7060 6264 5873
579
0
DN tập thể

" 3231 2275 1867
176
0
DN có vốn
đầu tư nước
ngoài
" 515 1054 1399
164
8
DNNQD
" 5158
1589
3
1872
7
213
60
Cá thể 1000

sở
1498,
6
1533,
1
2050,
2
221
5
Lao động
1000

ngườ
i
4706,
5
5453,
4
6368,
5
690
3,2
DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7
DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4
DN có vốn
đầu tư nước
ngoài
% 1,1 1,8 2,3 3,0
DNNQD
(cả Cá thể)
% 57,2 65,4 67,8 68,8
Nguồn: Tổng cục thống kê:"Báo cáo phân tích thực trạng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước
và tư bản tư nhân sau 10 năm đổi mới", tháng 6-1997
Theo các số liệu trên, năm 1996 so với khu vực nhà nước thì khu vực
tư nhân mới là nơi chủ yếu thu hút lao động xã hội.. Theo các số liệu mới
nhất cho thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 (tính theo giá
hiện hành), kinh tế nhà nước chiếm 40%, kinh tế tư nhân chiếm 38%, khu
vực sở hữu hỗn hợp chiếm 22%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
13
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
13
Luận văn tốt nghiệp

chiếm gần 10%, kinh tế tập thể và liên doanh trong nước chiếm 12%. Thêm
nữa, tốc độ tăng trưởng trong mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân
cao hơn của khu vực kinh tế nhà nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài. Hiện tại, do phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô
nhỏ, trang thiết bị giản đơn, phần nhiều là lao động thủ công, nên khu vực
kinh tế tư nhân có năng suất lao động thấp. Trong tương lai, nếu được khuyến
khích phát triển đúng mức, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất
lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu
tính rằng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước
xấp xỉ như nhau, thì với cơ cấu lao động như hiện tại (20% trong khu vực
kinh tế nhà nước, còn lại 80% trong khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp), cơ
cấu tổng sản phẩm quốc dân tương ứng là 20% khu vực kinh tế nhà nước và
80% khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp. Tất nhiên những giả định hay con
số nêu trên là không hoàn toàn hợp lý, nhưng đó cũng là những cơ sở nhất
định để khẳng định vai trò vị trí ngày càng quan trọng cũng như những triển
vọng phát triển ngày một lớn của khu vực kinh tế tư nhân.
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD:
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính:
Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiểu một cách chung nhất là tổng
thể các hình thức và phương pháp tác động lên hoạt động tài chính của doanh
nghiệp, nhờ đó mọi nguồn lực của doanh nghiệp (Vốn, lao động, tài nguyên)
được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh giúp cho doanh nghiệp
phát triển tốt nhất, thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng
như mang lại lợi ích chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc
sự biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối
14
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
14

Luận văn tốt nghiệp
quan hệ đó là những quan hệ về giá cả được biểu hiện dưới các sắc thái khác
nhau. Hình thức biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là
hết sức đa dạng và linh động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ
chế quản lý tài chính doanh nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm
rất nhiều thành tố. Tât cả những vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật và phương pháp quản lý vận hành doanh nghiệp đều nằm trong một
khái niệm đó là Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây,
chúng ta có thể tách cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp thành hai phần cơ
bản, dựa trên hai giác độ tiếp cận khác nhau đối với việc quản lý tài chính
doanh nghiệp đó là giác độ quản lý nhà nước và giác độ quản lý trong doanh
nghiệp.
Trên giác độ quản lý nhà nước, người ta đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề
đầu tiên đó là Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật
về tài chính và tổ chức thực hiện nó chính là nhà nước đã tạo ra một môi
trường chính thức, bình đẳng và công khai cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thông qua đó, nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên các hoạt
động tài chính của tất cả các doanh nghiệp nói chung hay một hoặc một
nhóm các doanh nghiệp nói riêng. Với những điều chỉnh thích hợp về pháp
luật trong từng thời kì, từng hoàn cảnh điều kiện nhất định, nhà nước có thể
tạo nên những thay đổi rất căn bản trong cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp hướng đến những mục tiêu: đảm bảo các doanh nghiệp phát triển
đúng hướng, nâng cao hiệu quả và đóng góp của các doanh nghiệp đối với
đất nước, tạo điều kiện phát triển và hạn chế những tiêu cực trong quá trình
tăng trưởng phát triển kinh tế. Và xét cho cùng, nhà nước là thể chế duy nhất
thực hiện chức năng quản lý đất nước bằng pháp luật, pháp luật chính là công
cụ vô cùng hữu hiệu mà chỉ nhà nước mới có và dùng được.
Trên giác độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện chức năng quản
lý tài chính của mình thông qua việc ra các quyết định tài chính như huy
15

Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
15
Luận văn tốt nghiệp
động vốn, quản lý thu chi, đầu tư v.v Trong đó mục tiêu quan trọng nhất là tối
đa hoá nguồn vốn chủ sở hữu. và tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để
thực hiện được các mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp có thể có những cách làm
khác nhau, một chiến lược riêng, một phương pháp quản lý và hoạt động
riêng biệt. Công tác quản lý tài chính trên giác độ này do đó rất đa dạng, linh
hoạt phụ thuộc vào những đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chúng ta phải luôn khẳng định rằng, giữa việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và quản lý trong mỗi doanh nghiệp có mỗi quan hệ
tương hỗ vô cùng mật thiết và chặt chẽ. Một doanh nghiệp nói riêng và cả
khu vực kinh tế nói chung chỉ có thể phát triển tốt, thực hiện được các mục
tiêu do doanh nghiệp và do xã hội đề ra khi và chỉ khi chúng được hoạt động
trong một môi trường pháp luật lành mạnh và phù hợp, cũng như doanh
nghiệp có những định hướng phát triển và phương pháp quản lý đúng đắn.
Pháp luật có những ảnh hưởng quyết định lên việc ra quyết định của mỗi
người đứng đầu doanh nghiệp và ngược lại những quyết định của người đứng
đầu trong doanh nghiệp phản ảnh những nhu cầu những thay đổi thích nghi
trong từng thời kì của nền kinh tế và qua đó tác động trở lại đối với người
hoạch định chính sách, xây dựng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp cấp
nhà nước. Đâu là mối quan hệ hai chiều biện chứng tác động qua lại với nhau
rất chặt chẽ.
1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp NQD:
Trên giác độ quản lý nhà nước, một cơ chế quản lý tài chính đối với các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng được
hình thành thông qua việc quy định và quản lý các mặt sau:
+ Sự thành lập và đăng kí kinh doanh
+ Quản lý vốn và tài sản

16
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
16
Luận văn tốt nghiệp
+ Quản lý doanh thu chí phí
+ Quản lý lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
+ Chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh:
Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho
các doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của
doanh nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể
quy định và điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà
doanh nghiệp có thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho
sự phát triển chung của đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực
sự phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Do đó, những quy định về
cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp cần được quy định thành pháp
luật, trong đó có những điều khoản nhất định về quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp khi đã được pháp luật thừa nhận. Vấn đề đáng lưu ý khi xây dựng một
cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp là tình hình phát triển của khu vực
kinh tế đó, nhu cầu của đất nước, triển vọng phát triển và trình độ quản lý
hiện tại của nhà nước đối với nền kinh tế.
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản:
Vốn và tài sản là hai mặt chính yếu và quan trọng nhất trong sự tồn tại
của bất cứ một doanh nghiệp nào, đây là hai mặt của một quá trình thống
nhất không thể tách rời. Vốn là nguồn lực cho mọi hoạt động của doanh
nghiệp, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và hoạt động được khi có vốn. Phía
bên kia, tài sản lại chính là sự biểu hiện hình thái và hiện trạng của vốn được
đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD:
17

Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
17
Luận văn tốt nghiệp
Cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp NQD chính là việc xác định và
điều chỉnh các hình thức huy động vốn và cơ cấu vốn trong doanh nghiệp.
Xét một cách tổng thể trong DNNQD có thể có những hình thức vốn sau:
a) Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư
nhân bao gồm các bộ phận sau:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Phát hành cổ phiếu
+ Vốn góp ban đầu:
Đây là loại vốn được hình thành tại thời điểm đầu tiên khi doanh nghiệp được
thành lập. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp bao giờ cũng phải
xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, hình thức sở hữu sẽ quyết
định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp đăng kí thủ tục thành lập và xin cấp giấy phép kinh doanh, bao giờ
cũng phải có một lương vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đó là vốn
pháp định. Ngoài ra, doanh nghiệp hoàn toàn có thể có một luợng vốn lớn
hơn vốn pháp định mà những chủ sở hữu trong công ty tự thoả thuận về số
lượng và tỉ lệ góp vốn, đây là vốn điều lệ. Vốn điều lệ nhìn chung là do tự
những người sáng lập nên công ty thoả thuận với nhau miễn là không nhỏ
hơn vốn pháp định, tất nhiên đối với một số ngành nghề nhất định, nhà nước
cũng có những quy định riêng về lượng vốn điều lệ tối đa.
+Vốn từ lợi nhuận không chia:
Quy mô của số vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố
quan trọng, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lãi thì nguồn vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp sẽ được mở rộng, đó là do nguồn vốn từ việc giữ lại lãi trong
18

Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
18
Luận văn tốt nghiệp
kinh doanh. Số lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn
của chủ sở hữu, tăng khả năng tài chính của doanh nghiệp, được phản ánh
trên bảng cân đối kế toán. Quy mô và tỷ lệ vốn giữ lại từ lợi nhuận phụ thuộc
vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt động của thời kỳ đã qua và quyết định
của chủ doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài
chính và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm bớt
được chi phí, giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng
chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một
khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
tăng.
Tuy nhiên, nên lưu ý với trường hợp các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi
nhuận có liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty giữ lại lợi nhuận
mà không chia cho cổ đông dưới hình thức cổ tức, thì quyền sở hữu vốn cổ
phần của các cổ đông sẽ tăng lên. Giá trị sổ sách của các cổ phiếu sẽ tăng lên
cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến
khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp
dẫn của cổ phiếu trong thời kì trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một
lượng cổ tức nhỏ nhất định. Đấy là còn chưa kể đến những rủi ro khi tỷ suất
sinh lời của công ty giảm xuống, không đủ để đáp ứng chi trả một tỷ lệ cổ
tức phù hợp. Khi đó, giá cổ phiếu sẽ bị giảm sút hay giá trị thị trường của
công ty sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức
của Công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
- Tỷ lệ cổ tức các năm trước
19

Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
19
Luận văn tốt nghiệp
- Uy tín của cổ phiếu, tính ổn định và tâm lý công chúng trên
thị trường cổ phiếu
- Hiệu quả của việc tái đầu tư
+ Phát hành cổ phiếu:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn
chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được gọi
là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhắc tới một
số loại hình cổ phiếu cơ bản sau:
Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu
thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị
trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất là được
trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng
minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác.
Mặc dù phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế so với các phương
thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần
được cân nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có
tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty được quyền phát hành là vốn
cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng
khoán nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao
dịch chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phép phát hành được
ghi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải
được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định
khác.
20
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
20

Luận văn tốt nghiệp
Hầu hết, các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan
trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một
Công ty có thể phát hành số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành
chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của Nhà nước và Uỷ ban chứng
khoán nhà nước. Ví dụ như ở nước ta hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về
chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo
điều kiện tốt hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu
chuyển vốn trong nền kinh tế.
Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ các công ty hoạt động trong một thị
trường chứng khoán còn non trẻ như ở nước ta đang là một trong những
nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và lâu dài cho
thị trường chứng khoán ở nước ta.
Cổ phiếu ưu tiên:
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu
được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu
tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là thường có cổ tức ổn định.
Người chủ sở hữu của cổ phiếu này có quyền được thành toán lãi trước các
cổ đông thông thường. Nếu có lãi chỉ đủ chi trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì
cổ đông thông thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết
chính sách cho cổ đông ưu tiên thường được quy định rõ trong điều lệ công
ty.
Một vấn đề quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế.
Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập Công ty, cổ tức
được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù
vậy, như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả Công
ty phát hành và cả nhà đầu tư.
21
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam

21
Luận văn tốt nghiệp
b) Nguồn vốn tín dụng, nợ và huy động nợ:
Nguồn vốn tín dụng của DNNQD bao gồm các nguồn chủ yếu sau
- Vay Ngân hàng quốc doanh (hạn mức tín dụng, hợp đồng vay mượn...)
- Vay Ngân hàng thương mại cổ phần
- Vay mượn từ công chúng và các doanh nghiệp khác (tín dụng thương
mại, trái phiếu, thương phiếu...)
- Vay các tổ chức tài chính phi ngân hàng( tổ chức tín dụng, HTX tín
dụng, quỹ tín dụng)
- Các nguồn khác (phi chính thức)
Khi nhắc đến các nguồn vốn tín dụng, xét trên phương diện pháp lý của
thị trường tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta thường phân chia
nó thành thị trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức.
Tín dụng chính thức là hình thức huy động vốn và cho vay thông qua các
tổ chức trung gian tài chính có đăng ký và hoạt động công khai theo luật,
hoặc chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Hoạt
động theo hình thức này chính là các hệ thống ngân hàng nhà nước, kho bạc,
hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính, các tổ chức kinh tế có hoạt động ngân hàng, các tổ
chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các
chương trình và các dự án của các ngành được thực hiện bằng nguồn vốn tín
dụng của chính phủ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Quỹ Quốc tế và phát triển Nông nghiệp của Liên hiệp quốc
(IFDA)v.v. Tất nhiên, sự tiếp cận của các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta
hiện nay đến các nguồn vốn từ các tổ chức lớn như WB hay IMF là cực kì
hạn chế, nhưng bù lại lại có những quỹ đầu tư nước ngoài như Dragon
22
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam

22
Luận văn tốt nghiệp
Capital ... lại tập trung đầu tư chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Tín dụng không chính thức hay tín dụng phi chính thức (trong xã hội
nhiều người còn quen gọi là tín dụng ngầm) là hoạt động nằm ngoài khuôn
khổ luật định của nhà nước, hoặc không phụ thuộc và không chịu sự quản lý,
giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Nó bao gồm hoạt động cho vay
của những người cho vay lấy lãi, của các tư thương dưới hình thức bán chịu
hàng hoá, của các chủ cửa hàng cầm đồ, các nhóm tự hợp tác tín dụng dưới
các hình thức chơi hụi, họ hoặc phường, hình thức cho vay bạn bè anh em,
hàng xóm.
Như vậy, dù đó là việc đi vay chính thức hay không chính thức thì vấn đề
đặt ra cho một cơ chế quản lý tài chính là phải tổ chức xây dựng cho các
doanh nghiệp NQD một cơ chế, một khuôn khổ hiệu quả, năng động trong
việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho sự phát triển.
Tuy nhiên quá trình huy động và sử dụng vốn cũng không được diễn ra một
cách quá ồ ạt, thiếu tổ chức và giám sát của các cơ quan chức năng, tránh gây
nên hiện tượng tiêu cực thiếu lành mạnh, gây nên những hậu quả không tốt
cho nền kinh tế.
1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD:
Các vấn đề đặt ra đối với việc quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD
bao gồm các vấn đề như:
+ Quản lý tài sản cố định
+ Quản lý tài sản lưu động
a) Công tác quản lý tài sản cố định:
23
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
23
Luận văn tốt nghiệp

Tài sản cố định trong doanh nghiệp bao gồm các tài sản có giá trị lớn hơn
5 triệu đồng và thời hạn khấu hao hơn 1 năm. Công tác quản lý tài sản cố
định của doanh nghiệp NQD bao gồm quản lý 3 mặt chủ yếu sau đây :
+ Quản lý tài sản cố định hữu hình(TSCĐHH)
+ Quản lý tài sản cố định vô hình(TSCĐVH)
+ Quản lý khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ)
- Quản lý tài sản cố định hữu hình: TSCĐHH bao gồm các nhóm tài sản
như: Thứ nhất là nhóm tài sản nhà xưởng kho bãi, văn phòng, và các công
trình xây dựng có mục đích tương tự. Đây là nhóm tài sản tạo ra môi trường,
không gian hoặc nơi làm việc. Thời gian thu hồi khấu hao tài sản cố định của
nhóm này khá dài, từ 10 đến 30 năm, thậm chí các công trình lớn lên đến 50
năm. Thứ hai là nhóm máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền sản xuất. Thứ
ba là nhóm phương tiện vận tải xe cộ, phương tiện cơ giới có chức năng vận
chuyển, đối với nhóm này cần chú ý đến chi phí xăng dầu, nhiên liệu và các
vấn đề về bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự... Thứ tư là nhóm
các thiết bị văn phòng, đo lường và kiểm định. Đây là nhóm thiết bị thường
xuyên được thay đổi nâng cấp. Gắn liền với nhóm tài sản này là những chi
phí liên quan đến công tác bảo mật thông tin, hỗ trợ nghiệp vụ và những bí
quyết riêng của mỗi công ty.
- Quản lý tài sản cố định vô hình: Đây là nhóm tài sản mang một số
thuộc tính đặc biệt, khó xác định hình thái vật chất, thậm chí trừu tượng,
nhưng có ảnh hưởng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh trong một thời
gian tương đối dài. Điển hình là các yếu tố :
+ Chi phí thành lập, chi phí khảo sát thiết kế
+ Uy tín lợi thế thương mại
24
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
24
Luận văn tốt nghiệp
+ Quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ: Chẳng hạn, nhãn

hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, bản
quyền, giải pháp công nghệ hữu ích v.v
+ Đặc quyền khai thác, kinh doanh, quyền đăc nhượng hoặc giấy
phép đặc biệt trong một số lĩnh vực.
Trong thực tế, rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định
vô hình vì nó không tồn tài dưới dạng vật chất cụ thể có thể đo đếm hay định
giá rõ ràng. Tuy nhiên sự phát triển của các thị trường tài chính, thị trường về
quyền sở hữu công nghiệp đã tạo điều kiện hình thành các mức giá thị trường
cho tài sản cố định vô hình.
Công ty cần hạch toán chính xác các chi phí ngay từ khi bắt đầu thành lập
doanh nghiệp hay dự án. Đó là các chi phí như Chi phí khảo sát thiết kế, xây
dựng luận chứng kinh tế-kĩ thuật, chi phí cần thiết và hợp lý cho các thủ tục
pháp lý như đăng ký kinh doanh, thuế trước bạ, lệ phí chứng thư, ngoài ra
còn có các chi phí như mua bán quyền sáng chế, phát minh, hoặc trị giá được
thừa nhận của quyền sở hữu công nghiệp.
Doanh nghiệp dự tính tuổi thọ hữu ích cho tài sản cố định vô hình, tức là
dự tính thời gian tính khấu hao của các tài sản cố định vô hình. Hiện nay, ở
nước ta chưa có phương pháp tính chính thức nào được đưa ra, nhưng có thể
dùng phương pháp chuyên gia để đánh giá. Mục đích của việc tính toán này
không phải là sự chính xác tuyệt đối mà nhằm phản ánh tương đối lợp lý chi
phí khấu hao vào giá thành sản phẩm và dịch vụ.
- Quản lý KHTSCĐ Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần hư
hỏng và xuống cấp, đây được hiểu là sự hao mòn. Sự hao mòn đó làm giảm
giá trị của tài sản cố định một cách tương ứng. Do đó công ty phải xác định
trị giá hao mòn trong từng thời kỳ và hạch toán vào giá thành sản phẩm, đó
chính là khái niệm khấu hao tài sản cố định.
25
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
25

×