Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Các Tiêu Chuẩn Chất Lượng Nước & Thành Phần Nước Thải pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.23 KB, 17 trang )




Các Tiêu Chuẩn Chất
Lượng Nước & Thành
Phần Nước Thải

Thực Hiện Chương Trình Nuôi Trồng Thủy Sản Có Trách Nhiệm Của GAA
Liên minh Nuôi trồng thuỷ sản toàn cầu đã bắt đầu nhiệm vụ thực hiện
Chương trình nuôi trồng thuỷ sản có trách nhiệm. Các mục tiêu chính của
GAA là nhằm hỗ trợ nuôi tôm với việc ứng dụng các tiêu chuẩn được nêu
trong hướng dẫn "Quy tắc thực hành nuôi tôm có trách nhiệm", và xác minh
rằng các tiêu chuẩn này đang được áp dụng để cải thiện thực trạng về môi
trường. Thuộc một phần của kế hoạch thực hiện, người nuôi tôm phải tiến
hành tự đánh giá và chuẩn bị một kế tuân thủ phù hợp.
Các tiêu chuẩn và việc tuân thủ tiêu chuẩn
Kế hoạch tuân thủ yêu cầu người nuôi tôm phải thực hiện một số kỹ thuật, ghi
lại các hoạt động khác nhau, và đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng nước thải.
Một trong những mối quan tâm lớn về môi trường khi nuôi tôm là khả năng
nước thải trang trại nuôi tôm có thể gây ra hiện tượng phú dưỡng.
Vì vậy, tiêu chuẩn chất lượng nước đối với nước thải từ trại nuôi tôm là một
điểm cực kỳ quan trọng của chương trình của GAA.
Các nhà môi trường học và các cơ quan chính phủ có thể chấp nhận các
chương trình quản lý môi trường tự nguyện dựa trên các tiêu chuẩn thực tiễn
tốt nhất mà không có tiêu chuẩn nước thải cho các trại nuôi tôm nhỏ. Tuy
nhiên, đối với các trại nuôi lớn, họ chắc chắn sẽ không ủng hộ các chương
trình quản lý môi trường mà không có tiêu chuẩn chất lượng nước thải.
Các tiêu chuẩn mới

Hình 2: Dữ liệu từ 24 nghiên cứu được công bố về chất lượng nước thải từ
trại nuôi tôm được lập bảng để thiết lập các tiêu chuẩn mới.


Việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng nước cho nước thải từ một hoạt động
không được kiểm soát từ trước đó như nuôi tôm hoàn toàn không dễ dàng.
Tiêu chuẩn này phải đủ nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường, hoặc sẽ bị phản
đối bởi những người đại diện cho lợi ích thuộc về môi trường. Mặt khác, tiêu
chuẩn cũng không được quá nghiêm khắc bởi người nuôi tôm sẽ không thể
tuân thủ chúng.
Dựa trên các quy tắc thực hành quản lý tốt nhất
Một cách tiếp cận hợp lý với vấn đề này là so sánh nồng độ chất lượng nước
trong nước thải trại nuôi tôm với các giới hạn chất lượng nước áp dụng đối
với các hoạt động hiện đang được quy định. Sự so sánh này sẽ cho thấy rõ
một số biến trong nước thải ao nuôi tôm có vượt ngoài phạm vi bình thường
có thể chấp nhận được hay không, và giúp đề xuất các các phương pháp đánh
giá nước thải. Các tiêu chuẩn sau đó có thể được thiết lập dựa trên nồng độ
nước thải có thể được dự kiến nếu người nuôi tôm áp dụng các biện pháp thực
hành quản lý tốt nhất và phương pháp xử lí khả thi về mặt kinh tế trong ngành
công nghiệp.
Xem xét tài liệu
Để phát triển các tiêu chuẩn nước thải nhằm ứng dụng trên các trại nuôi tôm
lớn, việc xem xét tài liệu đã được tiến hành để thu thập càng nhiều thông tin
càng tốt về nồng độ của các biến chất lượng nước trong nước thải từ trại nuôi
tôm. Kết quả của việc xem xét tài liệu đã giúp thiết lập giới hạn chất lượng
nước đề xuất cho tiêu chuẩn nước thải theo GAA.
Thành phần nước thải
Dữ liệu về nước thải đã được tách riêng theo các trại nuôi tôm thâm canh và
bán thâm canh sử dụng các tiêu chí mà trong đó các trại thâm canh sử dụng
thông khí cơ học, còn những trại bán thâm canh thì không. Tùy thuộc vào
biến chất lượng nước, đã tìm thấy 1 - 5 tài liệu tham khảo về nước thải trại
nuôi tôm bán thâm canh và 5 - 9 tài liệu tham khảo liên quan đến nước thải từ
trại nuôi tôm thâm canh.
Các biến được đánh giá

Mười hai biến chất lượng nước đã được đo lường dựa trên các nghiên cứu cho
phép đánh giá thống kê, mặc dù một nửa trong số các biến này không thường
xuyên có mặt trong giấy phép nước thải. Những phát hiện từ tài liệu tham
khảo được trình bày trong Hình 1 là mức bình quân của tất cả các dữ liệu từ
các trại thâm canh và bán thâm canh. Tính biến đổi của dữ liệu được mô tả
bởi độ lệch chuẩn. Đối với mỗi biến, 68,3% trong số các mẫu nước thải nuôi
tôm có độ lệch chuẩn ±1 so với mức trung bình, và 95,4% mẫu nước thải nuôi
tôm có độ lệch chuẩn ± 2 so với mức trung bình.

Hình 1: Tái sử dụng nước được thực hiện tại trang trại ở Brazil bằng cách
bơm nước thải vào các kênh cung cấp và sục khí cho nó
Biến đổi các nồng độ ở mức cao
Sự thay đổi nồng độ của các biến chất lượng nước cao cho thấy độ lệch chuẩn
lớn. Các phương tiện phải được sử dụng thận trọng, bởi vì nồng độ cao nhất
của một biến có thể gấp hai lần nồng độ trung bình. Hơn nữa, chính những
nồng độ cao này gây ra sự không tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng nước.
Các trại nuôi tôm thâm canh có nhiều nước thải tập trung hơn so với các trại
nuôi bán thâm canh.
TSS và BOD
Chẳng hạn như, nồng độ tổng chất rắn lơ lửng (total suspended solids - TSS)
trung bình là 91 mg/l trong nước thải từ các trại nuôi tôm bán thâm canh và
214 mg/l trong nước thải từ các trại thâm canh. Nhu cầu oxy sinh hóa cho 5
ngày trong nước thải từ trại thâm canh lớn hơn khoảng hai lần so với trại bán
thâm canh. Nồng độ chất rắn lơ lửng lớn hơn trong nước thải từ trại nuôi thâm
canh chủ yếu là do sự tái lơ lửng các hạt cặn lắng thông qua thông khí cơ học,
nhưng lượng thực vật phù du phong phú hơn từ các nguồn dinh dưỡng lớn
hơn cũng góp phần cấu thành nên chất rắn lơ lửng.
Nhu cầu oxy sinh hóa (biochemical oxygen demand - BOD) lớn hơn trong
nước thải từ trại thâm canh chủ yếu là do mật độ thực vật phù du lớn hơn. Tuy
nhiên, nước thải từ trại nuôi tôm có nồng độ các chất gây ô nhiếm tiềm ẩn rất

thấp so với nước thải công nghiệp hay đô thị chưa qua xử lý.
Các giá trị trung bình
Giá trị trung bình được xác định cho mỗi biến chất lượng nước bằng cách sử
dụng dữ liệu được kết hợp từ các trại nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh
(Bảng 1). Các khoảng trung bình có xu hướng thấp hơn so với các khoảng
bình quân, cho thấy rằng sự phân bố của nồng độ nghiêng về phía nồng độ
thấp hơn.
Giá trị trung bình khá thấp đối với nitơ, phốt pho, và nhu cầu oxy sinh hóa 5
ngày. Trong thực tế, các giá trị trung bình của những yếu tố này nằm trong
phạm vi nồng độ thường được tìm thấy trong nước tự nhiên gần các trại nuôi
tôm. Giá trị trung bình đối với độ pH và ôxy hòa tan rất lý tưởng cho đời sống
thuỷ sinh. Tuy nhiên, nồng độ của tổng chất rắn lơ lửng, chất rắn lơ lửng dễ
bay hơi, và chất diệp lục a cao hơn so với nồng độ của các yếu tố này được
thấy trong các vùng nước tự nhiên xung quanh khu vực nuôi tôm.
Nồng độ biến thiên lớn
Các giá trị tối đa và tối thiểu (Bảng 1) cho thấy phạm vi nồng độ các biến
chất lượng nước khá rộng. Nồng độ tối thiểu chỉ liên quan tới độ pH và oxy
hòa tan. Độ pH thấp nhất 6,3 có thể chấp nhận được bởi vì nó không đủ thấp
để gây tổn hại cho sinh vật dưới nước, nhưng giá trị oxy hòa tan thấp nhất 0,4
mg/l có thể có gây hại cho sinh vật dưới nước.
Biến (các đơn vị) Trung bình Tối thiểu Tối đa
Tổng nitơ (mg/l) 2,04 0,02 2.600
Nitrit-nitơ (mg/l) 0,05 0,0 0,91
Nitrat-nitơ (mg/l) 0,30 0,001 7,00
Tổng nitơ amoniac (mg/l) 0,38 0,01 7,87
Tổng phốt pho (mg/l) 0,26 0,01 110
Phốt pho phản ứng có thể hòa tan (mg/l) 0,09 0,0 11,2
Oxy hòa tan (mg/l) 5,6 0,4 9,6
Độ pH (standard units) 8,2 6,3 9,2
Nhu cầu oxy sinh hóa 5 ngày (mg/l) 8,9 1,3 50,7

Tổng chất rắn lơ lửng (mg/l) 108 10 3.671
Chất rắn lơ lửng dễ bay hơi (mg/l) 43 8 713
Chất diệp lục a (μg/l) 67 1 694
Bảng 1. Nồng độ trung bình, tối thiểu và tối đa của các biến chất lượng nước
trong nước thải từ trại nuôi tôm từ việc xem xét 14 bài báo hoặc báo cáo
được đăng.

Dư lượng dinh dưỡng cao nhất xảy ra ở giai đoạn cuối cùng của thu hoạch
toàn bộ
Độ pH tối đa vượt quá 9,0 trong một vài mẫu. Độ pH cao là hiện tượng thông
thường vào buổi chiều trong các ao nuôi dày đặc thực vật phù du nở rộ và
cũng do sự loại bỏ carbon đioxit cho việc quang hợp vào ban ngày. Trường
hợp độ pH cao xảy ra, độ pH của nước thải trên 9,0 trong nhiều hơn hai hoặc
ba giờ mỗi ngày cũng không rõ rệt, và sự biến động độ pH cao vào buổi chiều
cũng sẽ không làm hại tới đời sống thuỷ sinh ở các vùng nước ven biển.
Trong một vài mẫu, nồng độ tổng nitơ, tổng phốt pho, tổng chất rắn lơ lửng
và chất rắn lơ lửng dễ bay hơi và chất diệp lục được đo là rất cao. Gần như tất
cả các nồng độ thấp hay cao bất thường của các biến chất lượng nước đã được
ghi nhận trong lượt nước cuối cùng thải ra từ các ao trong quá trình thoát
nước để thu hoạch tôm.
Vào thời gian thu hoạch, tôm bị khuấy động, công nhân lội ao, nước chảy ra
mạnh và nhanh làm tái lơ lửng các hạt cặn lắng, dẫn đến nồng độ phốt pho,
nitơ, chất rắn lơ lửng, và nhu cầu oxy sinh hóa đều cao. Sự ngưng lại và quá
trình oxy hóa của cặn lắng, hợp chất suy giảm và chất hữu cơ trong quá trình
thu hoạch có thể dẫn đến nồng độ oxy hòa tan thấp và giảm độ pH.
Các tiêu chuẩn chất lượng nước thải
Có rất ít các tổ chức chuẩn bị tiêu chuẩn chất lượng nước thải cho trại nuôi
tôm. Mặc dù ba ví dụ về tiêu chuẩn nước thải đã có mặt tại Hoa Kỳ, chúng
không được coi là phù hợp để sử dụng cho GAA.
Tiêu chuẩn chất lượng nước thường được xây dựng để đưa vào giấy phép xả

các loại nước thải đô thị, công nghiệp, và một số loại nước thải khác. Các
biến thông thường và giới hạn nồng độ được tìm thấy trong các tiêu chuẩn
chất lượng nước thải được cung cấp trong Bảng 2.
Các biến hiện tại có trong giấy phép nước thải
Chỉ có sáu trong số các biến chất lượng nước đã được đo lường cẩn thận trong
nước thải từ trại nuôi tôm (Hình 1, Bảng 1) thường có mặt trong các giấy
phép nước thải. Tổng nitơ, phốt pho phản ứng có thể hòa tan, chất rắn lơ lửng
dễ bay hơi và chất diệp lục a hiếm khi được liệt kê trong giấy phép nước thải.
Nitrat-nitơ và nitri-nitơ cũng hiếm khi được sử dụng.
Độ đục, được đo lường chỉ trong một vài nghiên cứu về nước thải, thường
xuất hiện trong giấy phép nước thải. Giới hạn về độ đục thường là 25 đến 50
đơn vị độ đục nephelometer (nephelometer turbidity units - NTU). Rõ ràng,
các dữ liệu về độ đục của nước thải từ trại nuôi tôm nên được thu thập và
đánh giá. Một cách ngẫu nhiên, độ đục là một chỉ số chính (và là vấn đề đối
với người nuôi tôm) trong giấy phép nước thải cấp cho các trại nuôi tôm ở
Texas.
Các tiêu chuẩn điển hình
Tiêu chuẩn nước thải điển hình cho các biến chất lượng nước được vẽ trong
hình 1 để so sánh dễ dàng với các thành phần của nước thải từ trại nuôi tôm.
Sự so sánh này, và nồng độ tối đa của các biến (Bảng 1), cho thấy nước thải
từ các trại nuôi tôm thường sẽ vượt quá giới hạn điển hình đối với tổng chất
rắn lơ lửng và tổng nồng độ phốt pho. Nước thải từ trại nuôi tôm đôi khi cũng
có thể có độ pH trên 9,0 và oxy hòa tan dưới 5 mg/l.
Sự thông qua các BMP (Best Management Practices)
Các trại nuôi tôm không có nhiều lựa chọn đối với việc xử lý nước thải. Cách
duy nhất khả thi về mặt kinh tế để cải thiện chất lượng nước thải là thông qua
Các quy phạm thực hành quản lý tốt nhất (BMP) và lắp đặt các bể lắng cặn.
Áp dụng BMP có thể giảm lượng dinh dưỡng đầu vào, giảm sự tái lơ lửng cặn
lắng và xói mòn, cải thiện nồng độ oxy hòa tan. Nó cũng có thể giúp giảm độ
pH và nồng độ tổng ammoni nitơ trong vùng nước ao, giúp chất lượng nước

thải cao hơn.
Tuy nhiên, tại nhiều trại nuôi tôm, việc áp dụng chỉ riêng BMP sẽ không đủ
để làm giảm tổng chất rắn lơ lửng và tổng nồng độ phốt pho xuống dưới giới
hạn trong các tiêu chuẩn nước thải điển hình. Tổng phốt pho có liên quan chủ
yếu tới các hạt lơ lửng, và sự lắng cặn làm giảm cả tổng phốt pho và nồng độ
tổng chất rắn lơ lửng.
Tài liệu tham khảo thực hành
Trong các quy tắc GAA
Các tài liệu tham khảo về nhiều quy phạm thực hành quản lý tốt hơn có thể
được tìm thấy trong "Các quy tắc thực hành nuôi tôm có trách nhiệm", và
người nuôi tôm có thể dễ dàng áp dụng các quy tắc này. Các bể lắng đã được
sử dụng trong một số trại nuôi tôm, nhưng hầu hết các trại nuôi sẽ phải thiết
kế và xây dựng chúng.
Các bể lắng nên có thời gian lưu nước 6-8 giờ để cho phép lắng các hạt thô và
vừa, và giúp giảm tổng chất rắn lơ lửng và nồng độ tổng phốt pho. Nước với
nồng độ oxy hòa tan thấp sẽ trở lại thông thoáng trong khi ở lưu vực cặn lắng.
Cũng cần giảm vừa phải nhu cầu oxy sinh hóa, giảm độ pH và giảm nồng độ
tổng nitơ amoniac thông qua sự nitrat hóa trong quá trình lưu giữ.
Tiêu chuẩn nước thải đề xuất đối với nước thải từ trại nuôi tôm
Việc tuân thủ các tiêu chuẩn mới về chất lượng nước thải không thể đạt được
ngay lập tức. GAA sẽ bắt đầu với các tiêu chuẩn nước thải tự do hơn. Những
tiêu chuẩn này sẽ yêu cầu người tham gia chứng minh sự cải thiện chất lượng
nước thải, và cuối cùng là thực hiện theo quy định với các tiêu chuẩn mục tiêu
hạn chế hơn.
Các trại nuôi tôm bán thâm canh
Các trại nuôi tôm bán thâm canh có chất lượng nước thải tốt hơn so với các
trang trại nuôi tôm thâm canh, tuy nhiên nên áp dụng cùng một tiêu chuẩn
nước thải cho cả hai loại hình. Các trại nuôi bán thâm canh dễ dàng tuân thủ
các tiêu chuẩn hơn. Các tiêu chuẩn ban đầu nên nghiệm ngặt, ít nhất là đủ để
ngăn độ pH hoặc nồng độ oxy hòa tan thấp bất thường và nồng độ cực cao

của các biến khác (Hình 1, Bảng 1). Chương trình của GAA sử dụng các giới
hạn tự do nhất được thấy trong các giấy phép khác như giới hạn trong các tiêu
chuẩn ban đầu đối với nước thải trại nuôi tôm (Bảng 2).
Biến
Giới hạn
thông
thường
Bình luận
Độ pH 6,0-9,0
1. Một số giấy phép có giới hạn cao hơn, ở mức
8,5.
2. Sự dao động cho phép độ pH 9,5 vào buổi
chiều đôi khi được áp dụng đối với nước thải của
các ao đã được xử lý nguồn nước
Tổng chất
rắnlơ lửng
30 mg/l
hoặc nhỏ
hơn
Một số giấy phép cho phép lên tới 100 mg/l.

Tổng phốt
pho

0,2 mg/l
hoặc nhỏ
hơn
Một số giấy phép cho phép lên tới 0,5 mg/l.
Tổng amoni
nitơ

2,0 mg/l
hoặc nhỏ
hơn
Một số giấy phép cho phép lên tới 5 mg/l.
Nhu cầu oxy
sinh hoá 5
ngày
30 mg/l
hoặc nhỏ
hơn
1. Một số giấy phép có mức giới hạn cao hơn, ở
mức 20 mg/l.
2. Một số giấy phép có mức giới hạn cao hơn ở
mức 50 hoặc 60 mg/l đối với nước thải ao xử lí
nguồn nước.
Oxy hòa tan
5 mg/l or
lớn hơn
1. Một số giấy phép về việc xả vào nguồn nước
có chất lư
ợng cao có quy định nồng độ tối thiểu 6
mg/l
2. Một số giấy phép về việc xả vào nguồn nước
có chất lượng có thể cho phép mức thấp 4 mg/l.
Bảng 2. Các biến chất lượng nước và các giới hạn nồng độ tìm thấy trong
giấy phép cho các hoạt động khác chứ không phải cho hoạt động nuôi tôm.
Các tiêu chuẩn mục tiêu
Các giới hạn trong tiêu chuẩn mục tiêu thì tương tự như những giới hạn được
liệt kê trong giấy phép nước thải (Bảng 2). Sử dụng phương pháp tiếp cận
này, các tiêu chuẩn đề xuất được liệt kê trong Bảng 3. Mặc dù thông thường

thì trong các tiêu chuẩn nước thải có phần về giới hạn độ đục, nhưng lại
không được bao gồm trong các tiêu chuẩn nước thải đề xuất. Thông thường,
nếu nồng độ tổng chất rắn lơ lửng trong nước thải ao nuôi thuỷ sản nằm trong
giới hạn có thể chấp nhận được, độ đục cũng sẽ ở mức dưới nồng độ cho phép
tối đa. Tuy nhiên, việc thu thập dữ liệu để xác minh sự tổng quát hóa này vẫn
sẽ có ích.
Cần nhiều dữ liệu hơn
Dĩ nhiên là việc thu thập dữ liệu về chất lượng nước thải, bao gồm độ đục, từ
một số trại nuôi tôm khác nhau để nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu GAA, và
để xác định xem người nuôi tôm thực hiện theo các tiêu chuẩn được đề xuất
như thế nào là rất cần thiết. Các tiêu chuẩn mục tiêu được đề xuất khá phong
phú, do đó, trong tương lai, rất mong muốn có thể hạ thấp được các giới hạn
nồng độ trong các tiêu chuẩn mục tiêu. Tuy nhiên, sự tuân thủ tiêu chuẩn chất
lượng nước ban đầu và tiến độ đối với các tiêu chuẩn mục tiêu chặt chẽ sẽ là
một cam kết quan trọng đối với trách nhiệm quản lý môi trường của những
người tham gia GAA.
Biến (Đơn vị) Tiêu chuẩn ban đầu

Tiêu chuẩn mục tiêu

Độ pH (Đơn vị tiêu chuẩn) 6,0-9,5 6,0-9,0
Tổng chất rắn lơ lửng (mg/l) 100 hoặc nhỏ hơn

50 or nhỏ hơn
Tổng phốt pho (mg/l) 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,3 or nhỏ hơn
Tổng amoni nitơ (mg/l) 5 hoặc nhỏ hơn 3 or nhỏ hơn
Nhu cầu oxy sinh hóa 5 ngày (mg/l)

50 hoặc nhỏ hơn 30 hoặc nhỏ hơn
Oxy hòa tan (mg/l) 4 hoặc hơn 5 hoặc lớn hơn

Bảng 3. Các tiêu chuẩn chất lượng nước ban đầu và tiêu chuẩn mục tiêu đề
xuất cho nước thải từ trại nuôi tôm.
Các trại nuôi nhỏ
Chúng tôi cảm thấy rằng việc ứng dụng các tiêu chuẩn nước thải đối với trại
nuôi tôm nhỏ với kích thước khoảng vài hecta, như thường thấy ở châu Á, sẽ
vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, việc áp dụng BMP có thể nâng cao đáng kể
chất lượng nước thải từ các trại nuôi tôm nhỏ.
Xác minh sự tuân thủ
Chương trình giám sát cần thiết để xác minh sự tuân thủ các tiêu chuẩn sẽ đòi
hỏi một nỗ lực đáng kể. Tuy nhiên, độ pH và oxy hòa tan có thể được đo bằng
các công cụ thông thường có sẵn trên các trại nuôi tôm, và bộ dụng cụ phân
tích nước có thể được sử dụng để đo tổng chất rắn lơ lửng, tổng phốt pho, và
tổng amoni nitơ. Nhu cầu oxy sinh hóa cũng khó đo lường, do đó, hầu hết các
trại muốn gửi mẫu đến phòng thí nghiệm thương mại để phân tích.
Kết luận
Các tiêu chuẩn nước thải này đóng một vai trò quan trọng trong Chương trình
Nuôi Trồng Thủy Sản có trách nhiệm của GAA vì chúng thiết lập các tiêu
chuẩn mang tính định lượng, thông qua đó những người tham gia chương
trình đánh giá được sự tuân thủ của mình đối với các "Quy tắc thực hành nuôi
tôm có trách nhiệm", tự đánh giá và cuối cùng lên kế hoạch tuân thủ liên tục
nhằm phản ánh thực tiễn nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm.
Các bảng nhiều dữ liệu chi tiết hơn về mỗi một nghiên cứu trong tổng số các
nghiên cứu được sử dụng chobản đánh giá này được lưu hồ sơ tại Văn phòng
tại gia của GAA. Dữ liệu bao gồm các loài tôm nuôi, mật độ thả, vị trí nuôi,
tóm tắt chất lượng nước, và trích dẫn tài liệu.
Mục đích của chúng tôi là liên tục cập nhật các bảng dữ liệu khi có các dữ
liệu bổ sung. Để nhận được một bản sao của các bảng hoặc đóng góp dữ liệu
bổ sung, xin vui lòng liên hệ Văn phòng tại gia của GAA.
Xem xét thêm về nước thải


Dư lượng dinh dưỡng cao nhất xảy ra ở giai đoạn cuối cùng khi thu hoạch
toàn bộ
Mặc dù không được tham chiếu cụ thể trong các tiêu chuẩn của GAA, những
các quy tắc quản lý tốt nhất sau đây cũng được khuyến khích.
Việc xả từ các bể cố định có thể gây ra xói mòn trong các ống xả cuối hoặc tại
các điểm cửa xả, nếu vận tốc nước quá lớn. Lưu lượng xả cuối không làm lơ
lửng các hạt đất, và do đó làm tăng nồng độ tổng chất rắn lơ lửng hoặc tạo ra
một chùm đục.
Nước thải từ trại nuôi tôm là loại nước hơi mặn hoặc nước biển, và để tránh
sự muối hóa, nó không nên được thải vào nước ngọt hoặc vào đất nông
nghiệp. Theo nguyên tắc chung, nước thải sẽ không gây ra tăng hay giảm độ
mặn trong vùng nước tiếp nhận quá 10% mức trung bình theo mùa. Sẽ rất khó
khăn để thiết lập giới hạn độ mặn trừ việc dựa trên cơ sở các khu nuôi nằm sát
nhau.
Người nuôi tôm đôi khi sử dụng một số chất áp dụng cho nước ao trong quá
trình chuẩn bị vụ mùa mới nhằm tiêu diệt sinh vật gây bệnh và vật chủ của
chúng. Thuốc và kháng sinh có thể được áp dụng trong suốt các mùa vụ để
chống lại các loại bệnh.
Khi xảy ra hiện tượng tôm chết hàng trong ao, các chất này có thể được sử
dụng để tẩy uế nước ao như một biện pháp phòng tránh bệnh trước khi nước
được xả vào các vực nước tự nhiên. Một số các chất này có thể có hại cho
sinh vật có nguồn gốc thủy sản. Sau khi xử lí ao, nước phải được giữ trong
các ao nuôi và không xả cho đến khi các chất độc hại tiềm ẩn giảm bớt.
Giấy phép về chất lượng nước có thể nêu cụ thể rằng không được để những
chùm bọt, váng, hoặc độ đục xuất hiện tại các điểm xả. Nước thải từ trại nuôi
tôm đôi khi có bọt trên bề mặt. Số bọt này có thể được chứa trong thiết bị
nâng qua điểm xả thải cuối của bể. Sự lắng cặn sẽ ngăn chặn những chùm đục
được tạo ra do các hạt đất lơ lửng, nhưng sự đổi màu của nước thải bởi sinh
vật phù du cũng có thể gây ra chùm đục. Phương pháp duy nhất để ngăn chặn
các chùm này là xả dưới bề mặt.

Các quy tắc quản lý được đề xuất trong “Các quy tắc thực hành nuôi tôm có
trách nhiệm” có thể ngăn chặn sự lơ lửng trong thời gian xả cuối cùng, sự
muối hóa, và xả hóa chất độc hại.

×