Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

HÌNH THÁI BỜ BIỂN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.72 MB, 231 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
Dự án Nâng cao Năng lực Đào tạo
Ngành Kỹ Thuật Bờ Biển tại Trường ĐHTL





ThS. Trần Thanh Tùng
Đại học Thủy lợi, Hà Nội, Việt Nam
TS. Jan van de Graaff
Đại học kỹ thuật Delft, TU Delft, Hà Lan
Hà nội 4-2006
H
H
H
Ì
Ì
Ì
N
N
N
H
H
H



T
T
T


H
H
H
Á
Á
Á
I
I
I
B
B
B



B
B
B
I
I
I



N
N
N




LỜI NÓI ĐẦU

Việc biên soạn tập bài giảng ”Hình thái bờ biển” là một hoạt động nằm trong khuôn
khổ Dự án ”Nâng cao năng lực đào tạo ngành Kỹ thuật Bờ Biển tại Trường Đại học
Thủy lợi” do Chính phủ Hà Lan tài trợ, với mục tiêu cung cấp những kiến thức cơ bản
về hình thái bờ biển và kỹ thuật bờ biển cho sinh viên theo học ngành Kỹ thuật bờ biển
tại Trường Đại học Thủy lợi.
Tập bài giảng gồm 7 chương được chia làm 2 phần, phần 1 cung cấp cho người học
những kiến thức cơ sở về hình thái bờ biển như các khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong
hình thái bờ biển, các hiện tượng diễn biến bờ biển do tác động của sóng, mực nước,
dòng chảy ở vùng ven biển, các kiến thức cơ bản liên quan tới vận chuyển bùn cát ở
bờ biểnv.v Phần 2 sẽ trình bày sâu hơn về sự hình thành dòng chảy ở vùng ven bờ,
các tính toán vận chuyển bùn cát và diễn biến bờ biển, cách mô hình hóa bãi biển và
đường bờ cũng như các phương pháp đo đạc mặt cắt ngang bãi biển. Một số nguyên
nhân gây xói lở bờ biển và các giải pháp ổn định bờ biển cũng sẽ được giới thiệu ở
phần 2.
Tập bài giảng được xây dựng trên cơ sở tham khảo từ cuốn “Kỹ thuật bờ biển” của
Van der Velden là tập bài giảng hiện đang sử dụng tại Trường Kỹ thuật Delft, Hà Lan,
và từ “Sổ Tay Kỹ thuật Bờ Biển” (Coastal Engineering Manual, 2002) của Tổ hợp Kỹ
thuật thuộc Quân đội Mỹ.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Giáo sư Marcel Stive, Giáo sư. Kee d’Angremond
đã đọc và cho các ý kiến đóng góp quý báu cho tập bài giảng này. Tác giả cũng xin
bày tỏ lòng biết ơn tới Tiến sỹ. Jan van de Graaff, người đã khuyến khích, hướng dẫn
và thảo luận từng nội dung trong tập bài giảng này cùng tác giả.
Sau cùng, tác giả xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Phòng Hợp tác quốc tế, Đại học
công nghệ Delft (CICAT), văn phòng Dự án Hà Lan tại Trường Đại học Thủy lợi đã
có những giúp đỡ quý báu và hiệu quả giúp tác giả hoàn thành tập bài giảng này.

Delft, tháng 4 năm 2006



1
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU i

MỤC LỤC ii

CHƯƠNG 1 –GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG CỦA MÔN HỌC 1
1.2 CÁC THUẬT NGỮ LIÊN QUAN TỚI HÌNH THÁI BỜ BIỂN 2
1.3 KỸ THUẬT BỜ BIỂN, HÌNH THÁI BỜ BIỂN VÀ QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỜ BIỂN 4
QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỜ BIỂN 6
1.4 LỊCH SỬ VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN 8
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH KỸ THUẬT BỜ BIỂN 8
XU THẾ PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI 9
1.5 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VÙNG VEN BIỂN 10
1.6 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH BỜ BIỂN VIỆT NAM 13
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN BẮC 14
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN TRUNG 15
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN NAM 16

CHƯƠNG 2 – SÓNG, MỰC NƯỚC VÀ DÒNG CHẢY
2.1 GIỚI THIỆU 18
2.2 LÝ THUYẾT SÓNG TUYẾN TÍNH CỦA AIRY 18
CÁC GIẢI THIẾT CƠ BẢN VÀ ĐẶC TRƯNG SÓNG 19
NĂNG LƯỢNG SÓNG 23
PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA LÝ THUYẾT SÓNG 25
26 2.3 HIỆN TƯỢNG TRUYỀN SÓNG VÀ BIẾN DẠNG SÓNG
HIỆN TƯỢNG TRUYỀN SÓNG Ở VÙNG NƯỚC SÂU 26

SỰ BIẾN DẠNG SÓNG Ở GẦN BỜ 29
H
IỆN TƯỢNG KHÚC XẠ SÓNG VÀ NHIỄU XẠ SÓNG 31
2.5 THỦY TRIỀU VÀ SỰ DAO ĐỘNG MỰC NƯỚC 36

A-THỦY TRIỀU VÀ DÒNG TRIỀU 37
NGUỒN GỐC THỦY TRIỀU 37
PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO THỦY TRIỀU 40
DÒNG TRIỀU 41
B- CHẾ ĐỘ TRIỀU Ở BỜ BIỂN VIỆT NAM 45
C-NƯỚC DÂNG Ở BỜ BIỂN VIỆT NAM 46
NƯỚC DÂNG DO GIÓ MÙA 47
NƯỚC DÂNG DO BÃO 47
ĐẶC ĐIỂM NƯỚC DÂNG DỌC BỜ BIỂN VIỆT NAM 49
D- SỰ BIẾN ĐỔI MỰC NƯỚC TRONG THỜI ĐOẠN DÀI 52
SỰ DAO ĐỘNG MỰC NƯỚC DO ĐIỀU KIỆN THỜI TIẾT 52
SỰ BIẾN ĐỔI MƯC NƯỚC BIỂN 53
SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU 53


ii

CHƯƠNG 3 – ĐỘNG LỰC HỌC BỜ BIỂN
3.1 SÓNG VỠ VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG SÓNG VỠ 56
CÁC DẠNG SÓNG VỠ 56
59 GIỚI HẠN SÓNG VỠ VÀ CHIỀU CAO SÓNG VỠ
3.2 DÒNG CHẢY HÌNH THÀNH DO SÓNG Ở VÙNG GẦN BỜ 62
DÒNG TIÊU VÀ DÒNG TUẦN HOÀN 64
CƠ CHẾ HÌNH THÀNH DÒNG TIÊU 65
DÒNG CHẢY DỌC BỜ HÌNH THÀNH DO SÓNG TÁC DỤNG THEO HƯỚNG XIÊN GÓC VỚI

ĐƯỜNG BỜ 66
TÍNH TOÁN VẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ 67
PHÂN BỐ VẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ 71
CÁC GIẢ THIẾT CỦA LONGUET-HIGGINS 73
SO SÁNH PHÂN BỐ LƯU TỐC DỌC BỜ LÝ THUYẾT VÀ THỰC ĐO 74
PHÂN BỐ LƯU TỐC DỌC BỜ CỦA MỘT PHỔ SÓNG Error! Bookmark not defined.
PHÂN BỐ LƯU TỐC DỌC BỜ TRÊN MẶT CẮT Y=(x)
2/3
Error! Bookmark not defined.
DÒNG CHẢY DO SÓNG KẾT HỢP VỚI DAO ĐỘNG MỰC NƯỚC DỌC BỜ 79
CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA GIÓ VÀ THỦY TRIỀU TỚI DÒNG CHẢY VEN BỜ 81

CHƯƠNG 4 – VẬN CHUYỂN BÙN CÁT BỜ BIỂN
4.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VÂN CHUYỂN BÙN CÁT 83
KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT 83
CÁC HÌNH THỨC VẬN CHUYỂN BÙN CÁT 87
4.2 CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA BÙN CÁT BỜ BIỂN 88
GIỚI THIỆU CHUNG 88
THÀNH PHẦN BÙN CÁT 88
ĐƯỜNG KÍNH HẠT BÙN CÁT 89
BIẾN ĐỔI ĐƯỜNG KÍNH HẠT THEO KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN 92
HÌNH DẠNG 94
ĐỘ RỖNG 95
ĐỘ THÔ THỦY LỰC CỦA BÙN CÁT 96
4.3 TỐC ĐỘ KHỞI ĐỘNG /ỨNG SUẤT TIẾP TỚI HẠN 98
4.4 TỔNG QUAN VỀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT VEN BỜ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
4.5 VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ 103
GIỚI THIỆU CHUNG 103
TÍNH TOÁN VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ 105
CÔNG THỨC CERC (1966) 105

CÔNG THỨC BIJKER (1967) 108
CÔNG THỨC KAMPHUIS (1991) 109
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT "TỊNH" VÀ "TỔNG CỘNG" DỌC BỜ 112
SUẤT CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ THỰC TẾ 114
4.6 VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
GIỚI THIỆU CHUNG ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
TRẠNG THÁI THỦY ĐỘNG LỰC HỌC BÊN NGOÀI VÙNG SÓNG VỠ ERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
DÒNG CHẢY TẠI LỚP BIÊN Error! Bookmark not defined.17
CÁC SÓNG PHI TUYẾN Error! Bookmark not defined.
DÒNG TRÔI DO SÓNG TẠO NÊN Error! Bookmark not defined.
DÒNG CHẢY RỐI TRUNG BÌNH Error! Bookmark not defined.
iii
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG BÊN NGOÀI VÙNG SÓNG VỖERROR! BOOKMARK
NOT DEFINED
.
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG TRONG VÙNG SÓNG VỖERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂNERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
MÔ HÌNH VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG ĐƠN GIẢNERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.6

CHƯƠNG 5 – DIỄN BIẾN BỜ BIỂN
5.1 HÌNH DẠNG MẶT CẮT NGANG BỜ BIỂN VÀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG
NGANG ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

GIỚI THIỆU ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

ĐẶC TRƯNG VÀ TƯƠNG QUAN HÌNH DẠNG BÃI BIỂN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DỐC BÃI BIỂN VỚI ĐƯỜNG KÍNH HẠT CÁT .ERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DỐC BÃI BIỂN VỚI NĂNG LƯỢNG SÓNGERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
5.2 MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN Ở TRẠNG THÁI CÂN BẰNGERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
GIỚI THIỆU CHUNG ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN CÂN BẰNGERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
CÁC LỰC TÁC DỤNG Ở VÙNG VEN BỜ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
CÁC LỰC GÂY PHÁ HOẠI BÃI BIỂN Error! Bookmark not defined.
CÁC LỰC CÓ TÁC DỤNG THÀNH TẠO BÃI BIỂN Error! Bookmark not defined.
MÔ HÌNH MẶT CẮT CÂN BẰNG XÂY DỰNG TRÊN QUAN ĐIỂM CÂN BẰNG LỰC ERROR!
BOOKMARK NOT DEFINED.
LỰC DO TIÊU TÁN NĂNG LƯỢNG SÓNG TRONG 1 ĐƠN VỊ THỂ TÍCHError! Bookmark not defined.
LỰC DO SỰ TIÊU TÁN NĂNG LƯỢNG SÓNG TRÊN 1 ĐƠN VỊ DIỆN TÍCH. Error! Bookmark not
defined.

LỰC SINH RA DO ỨNG SUẤT TIẾP ĐỒNG NHẤT Ở ĐÁY Error! Bookmark not defined.
MÔ HÌNH MẶT CẮT CÂN BẰNG XÂY DỰNG TRÊN QUAN ĐIỂM VẬN CHUYỂN BÙN CÁTERROR!
BOOKMARK NOT DEFINED.
CÁC DẠNG MẶT CẮT NGANG CÂN BẰNG KHÁC ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
5.3 SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA BÃI BIỂN VỚI SÓNG VÀ MỰC NƯỚC ERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED.

MÔ HÌNH TƯƠNG TÁC GIỮA BÃI BIỂN VỚI BIẾN ĐỔI MỰC NƯỚC ERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
a) SỰ GIA TĂNG MỰC NƯỚC BIỂN VÀ TƯƠNG TÁC CỦA BÃI BIỂNError! Bookmark not defined.

B) QUY TẮC BRUUN Error! Bookmark not defined.
C) PHƯƠNG PHÁP EDELMAN Error! Bookmark not defined.
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT NGANG THEO MÙA ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT CÂN BẰNG DƯỚI TÁC DỤNG CỦA BÃO 159
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT DƯỚI TÁC DỤNG CỦA THỦY TRIỀU 161

CHƯƠNG 6 – MÔ HÌNH HÓA BÃI BIỂN VÀ ĐƯỜNG BỜ
6.1 GIỚI THIỆU CHUNG 164
6.2 MÔ HÌNH HÓA BỜ BIỂN BẰNG MÔ HÌNH VẬT LÝ 166
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ MÔ HÌNH VẬT LÝ 166
BỂ TẠO SÓNG VÀ MÁNG TẠO SÓNG 168
MÔ HÌNH LÒNG CỨNG 169
6.3 MÔ HÌNH HÓA ĐƯỜNG BỜ BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI TÍCH 171
MÔ HÌNH HÌNH THÁI ĐƯỜNG BỜ DẠNG ĐƯỜNG ĐƠN 172
iv
PHƯƠNG TRÌNH LIÊN TỤC 173
PHƯƠNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG 174
GIẢI HỆ PHƯƠNG TRÌNH LIÊN TỤC VÀ PHƯỜNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG 176
ÁP DỤNG MÔ PHỎNG HIỆN TƯỢNG BỒI LẮNG Ở TRƯỚC ĐẬP PHÁ SÓNG 176
ĐÁNH GIÁ CÁC HẠN CHẾ CỦA LÝ THUYẾT ĐƯỜNG ĐƠN 181
6.4 MÔ HÌNH TOÁN DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ 183
6.5 ĐO ĐẠC MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN 189
A. KHẢO SÁT BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG 189
B. KHẢO SÁT BẰNG PHƯƠNG PHÁP HIỆN ĐẠI 191
B-1 CRAB 191
B-2 SEA SLED 192
B-3 THIẾT BỊ ĐO SÂU THEO NGUYÊN LÝ ÁP LỰC THỦY TĨNH 192
TÓM TẮT 193

CHƯƠNG 7 – SỰ BIẾN ĐỔI ĐƯỜNG BỜ VÀ

CÁC GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH ĐƯỜNG BỜ
7.1 GIỚI THIỆU 194
7.2 NGUYÊN NHÂN GÂY XÓI LỞ ĐƯỜNG BỜ 195
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÓI LỞ BỜ BIỂN 195
SỰ SUY GIẢM NGUỒN BÙN CÁT TỪ SÔNG ĐỔ RA BIỂN 197
SỰ SUY GIẢM NGUỒN CUNG CẤP BÙN CÁT TỪ CÁC ĐỤN CÁT GẦN BỜ 199
DO KHAI THÁC TRẦM TÍCH VÀ KHOÁNG SẢN Ở BỜ BIỂN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
SỰ GIA TĂNG NĂNG LƯỢNG SÓNG DO THỀM BÃI BỊ HẠ THẤPERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
DO GIÁN ĐOẠN VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
DO SỰ THAY ĐỔI CỦA GÓC SÓNG TỚI SO VỚI ĐƯỜNG BỜ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
SỰ GIA TĂNG GÓC SÓNG TÁC DỤNG TỚI ĐƯỜNG BỜ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
DO SỰ GIA TĂNG LƯỢNG BÙN CÁT BỊ TỔN THẤT TRÊN BÃI CAO ERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED
.
DO SỰ GIA TĂNG BÃO BIỂN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
SỰ GIA TĂNG XÓI LỞ DO CÁC SÓNG PHẢN XẠ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
SỰ SUY GIẢM ĐỘ LỚN THỦY TRIỀU ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
7.3 BẢO VỆ BỜ BIỂN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
KHÔNG LÀM GÌ – DI DỜI VÀ DỊCH CHUYỂN TỚI NƠI AN TOÀNERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
GIẢI PHÁP BẢO VỆ "MỀM" ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
CÁC CÔNG TRÌNH ỔN ĐỊNH BỜ – GIẢI PHÁP “CỨNG” ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
ĐẬP MỎ HÀN Error! Bookmark not defined.
KÈ BẢO VỆ BỜ Error! Bookmark not defined.
TƯỜNG BIỂN Error! Bookmark not defined.
XÓI LỞ SAU KHI XÂY DỰNG TƯỜNG BIỂN Error! Bookmark not defined.
ĐẬP PHÁ SÓNG NGOÀI KHƠI Error! Bookmark not defined.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
v

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG

1.1 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG CỦA MÔN HỌC
Môn học “Hình thái bờ biển" được thiết kế nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản
phục vụ phân tích, tính toán diễn biến hình thái trong lĩnh vực kỹ thuật bờ biển. Các
nội dung chính của giáo trình bao gồm các kiến thức cơ bản có liên quan tới hình thái
bờ biển và diễn biến bờ biển như các kiến thức về đặc trưng sóng, dòng chảy, mực
nước; các kiến thức cơ bản về vận chuyển bùn cát, cơ chế vận chuyển bùn cát tại bờ
biển; dòng ven bờ và vận chuyển bùn cát ven bờ, vận chuyển bùn cát ngang bờ và diễn
biến bờ biển, mô hình hóa bờ biển và tính toán diễn biến đường bờ; các giải pháp bảo
vệ bờ biển chống sạt lở.
Mục tiêu của môn học là trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản nhất về mặt
bản chất vật lý các quá trình diễn biến bờ biển, và cách vận dụng các nguyên tắc kỹ
thuật để giải quyết các vấn đề có liên quan tới kỹ thuật bờ biển như xói lở bờ biển,
ngập lụt bờ biển, bồi lắng cảng biển, vv.
Giáo trình này có thể dùng là tài liệu tham khảo cho các kỹ sư ở một số ngành xây
dựng công trình hoặc các lĩnh vực nghiên cứu có liên quan tới kỹ thuật bờ biển.
Nội dung của giáo trình bao gồm việc giới thiệu các hiểu biết chung về các quá
trình xảy ra ở dải ven bờ, cách tính toán vận chuyển bùn cát, tính toán diễn biến bờ
biển và đưa ra các biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết hoặc hạn chế những bất lợi do
diễn biến bờ biển gây ra. Sau khi hoàn thành môn học, các kiến thức sinh viên thu
nhận được sẽ được chia thành 2 mức độ: ở mức độ thứ nhất: sinh viên phải nhận biết
và giải thích được các diễn biến bờ biển theo quan điểm hình thái bờ biển.
Ở mức độ
thứ 2: sinh viên biết vận dụng
các công cụ và kiến thức được học như các công thức,
các lý giải về mặt chuyên môn, các chương trình tính toán máy tính để giải thích và
tính toán các cơ chế diễn biến bất lợi của bờ biển và sinh viên có thể đề xuất các
phương án thích hợp để giải quyết các vấn đề này.

Giáo trình bao gồm 7 chương sẽ lần lượt đề cập tới những nội dung cơ bản về hình
thái bờ biển như đã nêu ở trên. Chương 1 giới thiệu môn học và các khái niệm, thuật
ngữ liên quan tới môn học hình thái bờ biển. Chương 2 sẽ đề cập tới các điều kiện biên
quan trọng trong tính toán diễn biến bờ biển, đó là sóng, mực nước và dòng chảy. Do
các kiến thức về sóng, mực nước và dòng chảy đã được giới thiệu ở các môn học
trước, nên chương 2 chỉ giới thiệu lại những khái niệm cơ bản nhất về sóng, mực nước
và dòng chảy có liên quan tới diễn biến bờ biển.

1
Chương 3 sẽ đề cập tới các vấn đề động lực hình thái ở bờ biển. Cụ thể là các hiện
tượng sóng đổ và sự hình thành các dòng chảy ở vùng ven bờ.
Chương 4 trình bày các kiến thức cơ bản về vận chuyển bùn cát bờ biển, đặc biệt
nhấn mạnh tới các cơ sở lý thuyết cơ bản sẽ được ứng dụng trực tiếp trong tính toán
vận chuyển bùn cát ven bờ.
Các quá trình diễn biến bờ biển, mặt cắt ngang bãi biển ở trạng thái cân bằng và sự
biến đổi hình dạng mặt cắt ngang bãi biển dưới tác dụng của sóng và dòng chảy sẽ
được trình bày trong chương 5.
ờ biển
Bên cạnh các phương pháp tính toán lượng vận chuyển bùn cát b
thông
thường, chương 6 trong giáo trình còn giới thiệu một số công cụ tính toán hiện đại, rất
cần thiết cho các kỹ sư ngành kỹ thuật bờ biển. Các công cụ này cho phép tính toán,
mô phỏng và dự báo các quá trình diễn biến bờ biển.
Trong chương 7, các hình thức diễn biến bờ biển bất lợi sẽ được xem xét, mô tả và
lý giải. Để ứng phó với các diễn biến bất lợi này, một số giải pháp sẽ được đề cập, bao
gồm các giải pháp công trình và phi công trình, sự ảnh hưởng của các công trình này
tới diễn biến bờ biển cũng sẽ được xét tới trong chương 7.

1.2 CÁC THUẬT NGỮ LIÊN QUAN TỚI HÌNH THÁI BỜ BIỂN
Dean (2002), khi bàn về các thuật ngữ được sử dụng trong ngành kỹ thuật bờ biển

đã nhấn mạnh rằng, trong thực tế các bãi biển ở mọi nơi trên khắp thế giới đều có kết
cấu và hình dạng rất giống nhau. Hình dạng mặt cắt ngang bãi biển, được định nghĩa
là hình dạng của mặt cắt ngang lấy theo phương vuông góc với đường bờ, nói chung sẽ
có kết cấu gồm bốn phần là: phần ở ngoài khơi, phần gần bờ, phần bãi và phần bờ
biển, như hình vẽ minh họa (1-1)
Như trên hình vẽ, có thể thấy đường bờ thường được định nghĩa là đường ranh giới,
nơi có sự tiếp giáp giữa biển và đất liền, tương ứng với sự giao động mực nước do
hiện tượng thủy triều mà ranh giới này cũng sẽ dịch chuyển sâu vào trong đất liền hoặc
xa ra phía biển. Trong một thời đoạn nhất định, đường bờ là đường mép nước trung
bình của thủy triều.Vị trí chính xác của đường bờ sẽ phụ thuộc trực tiếp vào trạng thái
của thủy triều, điều kiện sóng tại đó và độ dốc của bãi biển. Bãi biển (hay bờ biển) là
vùng được xác định nằm giữa ranh rới của mực nước triều thấp và giới hạn tác dụng
của sóng về phía đất liền; thông thường, là điểm ở chân các mỏm đá hoặc đường ranh
rới xuất hiện thực vật tồn tại trong thời gian dài trên bờ biển. Bãi biển được chia thành
2 phần, phần bãi trước và phần bãi sau. Bãi trước là phần bãi nằm trên ranh rới giữa
mực nước cao và mực nước thấp khi sóng dồn lên bờ biển và khi sóng rút ra khỏi bờ.
Bãi sau được giới hạn từ phần nước cao đến giới hạn trên cùng về phía đất liền của
sóng.

2

Hình 1-1. Mặt cắt ngang đường bờ (theo Shore Protection Manual, 1984)

Theo Silvester (1997), thuật ngữ bờ biển (coast), thường hay bị hiểu nhầm là bãi
biển (beach), được định nghĩa là “dải đất có chiều rộng không xác định (có thể lên tới
vài km) được kéo dài từ vị trí của đường bờ trên đất liền tới điểm đầu tiên có sự biến
đổi lớn về đặc điểm địa hình về phía biển”. Theo định nghĩa của Silvester, một thuật
ngữ thường được nhắc tới của vùng ven biển có thể bao gồm các thành phần như bờ
biển, bãi biển và vùng gần bờ (là vùng có chiều rộng kéo dài từ mực nước thấp tới giới
hạn “sóng vỡ”). Một đường bờ biển có thể được hiểu theo 2 cách khác nhau. Về mặt

kỹ thuật mà nói thì đường bờ biển là đường hình thành ranh giới bờ biển và bãi biển,
nhưng nó cũng thường được coi như là đường hình thành ranh giới giữa đất và nước.
Theo Bird (1984) thì tổng chiều dài đường bờ biển trên thế giới ước tính vào khoảng
500,000 km, trong đó chỉ có 20% là bờ biển có cấu tạo cát.
Mặt cắt ngang bờ biển được tạo nên từ cát được đẽo gọt lại khi sóng chuyển động từ
vùng nước sâu vào bờ; khi vào tới vùng nước nông, sóng sẽ bị vỡ khi nó gặp các dải
cát ngầm. Bãi trước (foreshore), hay còn gọi là vùng sóng vỗ, là vùng mà mặt cắt bãi
thường xuyên ở trạng thái khô, ướt một cách luân phiên nhau khi sóng xô vào phần
mái dốc trên bãi. Phần bãi biển khô ráo, không bị ngập nước có thể có một hoặc nhiều
“thềm” bãi, các thềm bãi là những phần bãi nằm ngang có độ dốc rất nhỏ; nối tiếp với
các thềm bãi là các “vách đứng”, là phần bãi bị cắt gần như thẳng đứng do tác dụng
của sóng vào thời điểm mực nước dâng cao (có thể do xảy ra khi xuất hiện bão). Tiếp
theo phần vách đứng về phía trong đất liền có thể có các cồn cát, đụn cát được hình

3
thành khi gió dịch chuyển cát từ bãi vào phía bên trong (quá trình tạo nên các cồn cát
thường kết hợp với sự xuất hiện của thực vật có mặt trên bờ biển như cỏ, chúng có tác
dụng bẫy và chặn cát thổi từ biển vào đất liền). Có nơi các đụn cát, cồn cát được thay
thế bằng các vách đá hoặc các dốc cát dựng đứng (đặc biệt là phần bờ biển bị xói lở ở
phần phía trên)
Trên mặt bằng (trên ảnh chụp máy bay phần bờ biển), đường bờ có thể có một số
nét đặc trưng đáng quan tâm. Tại hình (1-2.A), bờ biển được án ngữ bởi một đảo chắn
với các lạch triều cắt ngang qua đảo từ nhiều phía. Hình thế bờ biển này này xuất hiện
ở rất nhiều nơi trên thế giới. Các lạch triều là nơi trao đổi dòng chảy từ biển vào hệ
thống đầm, phá phía bên trong các đảo chắn và ngược lại. Thông thường, quá trình
lắng đọng bùn cát sẽ kéo theo hiện tượng đóng các lạch triều có thể thấy xuất hiện ở
nhiều nơi.


Hình 1-2. Hình dạng mặt bằng đường bờ biển dạng đảo chắn


Một đảo chắn tại cửa vịnh có thể xuất hiện khi các dải cát ngầm hình thành phát
triển từ một mũi đất (head land) như hình (1-2.B).

1.3 KỸ THUẬ BỜ BIỂN, HÌNH THÁI BỜ BIỂN VÀ QUÁ TRÌNH DIỄN
BIẾN BỜ BIỂN
Theo Velden (2001), nói chung thuật ngữ “kỹ thuật bờ biển” có liên quan tới tất
cả các vấn đề kỹ thuật diễn ra ở vùng bờ biển. Do kỹ thuật bờ biển bao hàm các vấn

4
đề quá rộng, nên nó được chia thành 3 lĩnh vực chính tương ứng với 3 vấn đề lớn về
mặt kỹ thuật có trong thực tế. Ba lĩnh vực chủ yếu đó là: Cảng biển, Hình thái và
Nghiên cứu ở vùng ngoài khơi. Sẽ là chủ quan nếu nói rằng Hình thái là lĩnh vực
quan trọng nhất, nhưng các nghiên cứu trong hai lĩnh vực còn lại là Cảng biển và
Vùng ngoài khơi đều có liên quan chặt chẽ tới nghiên cứu Hình thái. Các cảng biển
có thể bị ảnh hưởng của hiện tượng bồi lắng trong cảng hay luồng tàu vào ra cảnh,
trong khi các công trình ngoài khơi như các đường ống dẫn dầu, hoặc đường cáp
ngầm qua biển có thể bị ảnh hưởng của hiện tượng xói lở. Giáo trình sẽ chỉ đề cập tới
các khái niệm có liên quan tới Hình thái bờ biển.
Hình thái bờ biển được hiểu là các hình dạng vật lý và cấu trúc của bờ biển. Hay
nói cách khác: hình thái bờ biển là khoa học nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu
tố động lực như sóng, dòng chảy, vv tới bờ biển mà các tương tác này có thể gây nên
sự dịch chuyển của bùn cát ở vùng ven bờ và dẫn tới sự biến đổi hình dạng của bờ
biển.
Bờ biển trong tự nhiên có thể chia làm 3 loại chính căn cứ theo cấu tạo của các vật
liệu thành tạo và có mặt trên bờ biển, đó là bờ biển có cấu tạo đá, bờ biển cát và bờ
biển bùn. Bờ biển có cấu tạo đá hầu như có cố định (hoặc có đáy và đường bờ không
thay đổi) trong khoảng thời gian tương đối dài. Do những biến đổi tại bờ biển có cấu
tạo đá chỉ xảy ra sau một thời gian rất dài (có khi hàng vài trăm năm) nên nó thường
đ

ược xem xét trong lĩnh vực địa chất học hơn là trong lĩnh vực kỹ thuật bờ biển. Bờ
biển cát hay bãi biển cát, ngược lại, rất dễ bị biến dạng, dưới tác dụng của sóng và
dòng chảy. Vị trí đường bờ biển của một bãi biển cát thường xuyên dịch chuyển,
hoặc tiến ra phía biển hoặc lùi vào trong đất liền, và là đối tượng tác động của của
sóng, dòng chảy Hầu hết các bờ biển trên thế giới đều có cấu tạo là cát, chỉ có một
số ít là có cấu tạo đá và bờ biển bùn. Bờ biển bùn có cấu tạo là các hạt sét, bùn, cát
mịn và là các vật chất có tính dính kết, hoàn toàn khác về mặt bản chất vật lý và hóa
học với các hạt vật chất không kết dính như cát, cuội, sỏi. Các quá trình của các hạt
vật chất có tính kết dính này bị chi phối mạnh bởi các tương tác vật lý và hóa học
giữa các hạt đơn lẻ và một nhóm hạt bùn cát (ví dụ như quá trình keo kết, ngưng tụ,
lắng đọng), cũng sẽ không được đề cập tới trong giáo trình này
Để có thể tính toán và dự báo được diễn biến hình thái bờ biển thì trước tiên phải
hiểu và nắm bắt được các quy luật chuyển động của nước, các tác động của các yếu
tố tự nhiên lên bờ biển. Do vậy, trước khi tiếp cận với môn học hình thái bờ biển,
người học cần có các các kiến thức cơ bản về cơ học chất lỏng, thủy lực, sóng gió,
thủy triều, địa lý vv.
Cho tới nay, ảnh hưởng của sóng do gió và các dòng chảy lên bãi biển vẫn còn chưa
được hiểu rõ một cách hoàn toàn. Vận chuyển bùn cát ở vùng ven bờ là một nội dung

5
quan trọng trong nghiên cứu của hình thái bờ biển. Các kết quả nghiên cứu này đã và
đang được sử dụng nhằm nâng cao độ chính xác cùng như tính thực tiễn của các mô
hình toán dùng để mô phỏng hình thái bờ biển, trong đó có mô phỏng, dự báo biễn biến
đường bờ.
Khi không phải tất cả các biến đổi của bờ biển trong tự nhiên đều đúng theo mong
muốn của con người thì các công trình bảo vệ bờ biển là giải pháp cần thiết để ứng phó
với những biến đổi bất lợi trên. Các công trình bảo vệ bờ thường được sử dụng để làm
chậm các tác động bất lợi do các quá trình tự nhiên xảy ra ở bờ biển, đôi khi là vô hiệu
hóa các ảnh hưởng của các diễn biến này. Ví dụ việc xây dựng các đập mỏ hàn vuông
góc với bờ, hay các đập phá sóng ngoài khơi để làm chậm quá trình xói lở bờ biển. Xây

dựng đê biển và hệ thống kè, hay tường biển bảo về mái đê phía ngoài biển cũng là một
giải pháp thường được sử dụng để chống lại tác động của nước dâng, sóng, và triều
cường đối với những vùng trũng phía trong đất liền. Ngày nay, bên cạnh các giải pháp
công trình, ở các nước phát triển người ta bắt đầu hướng tới những giải pháp mang tính
"phi công trình", thân thiện với môi trường và đáp ứng được yêu cầu phát triển bền
vững, hài hòa với thiên nhiên.
QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỜ BIỂN
Một trong những nội dung quan trọng trong hình thái bờ biển là nghiên cứu các quá
trình diễn biến bờ biển. Vậy quá trình diễn biến bờ biển là gì ? Nó được hiểu là các quá
trình tự nhiên có tác động tới sự biến đổi hình dạng đường bờ và vùng ven bờ và được
xem xét, nghiên cứu ở nhiều phạm vi không gian và thời gian khác nhau tùy thuộc vào
tính chất và mức độ phát triển của các quá trình này. Ví dụ như quá trình xói lở bãi biển,
tại chân các đụn cát do bão thường được xem xét trong thời gian xảy ra bão (có thể vài
giờ, hoặc 1 ngày), nhưng quá trình tự khôi phục lại bãi biển sau đó có thể xảy ra trong
một vài tháng hoặc trong mùa kế tiếp.
Bờ biển luôn biến đổi một cách liên tục dưới tác dụng của sóng và dòng chảy tại
nhiều phạm vi không gian và bước thời gian khác nhau. Ví dụ như khi bờ biển chịu tác
động của một con sóng đơn làm bùn cát ở ven bờ nổi lơ lửng trong nước và dòng chảy
do sóng sinh ra sẽ vận chuyển bùn cát bị nổi lơ lửng này về phía hạ lưu của dòng chảy
dọc bờ. Quá trình tác động của sóng đơn này chỉ diễn ra trong vòng vài giây và có phạm
vi tác động trong dải sóng vỡ mà thôi. Nhưng khi quá trình này diễn ra liên tục trong
nhiều ngày hoặc nhiều năm, nó có thể gây ra hiện tượng xói lở bờ biển kéo dài trên một
vùng rộng vài trăm mét đến hàng chục kilômét. Hiện tượng xói lở hoặc bồi tụ liên tục
trong thời gian nhiều tháng, nhiều năm sẽ dẫn tới đường bờ bị suy thoái (hoặc phát triển)
vào trong đất liền.

6
Lại có những quá trình diễn biến bờ biển đòi hỏi phái được xem xét trên một phạm vi
rộng đến hàng trăm kilômét và trong khoảng thời gian hàng trăm năm, ví dụ như những
quá trình thành tạo và phát triển của các đồng bằng châu thổ sông Hồng hay đồng bằng

sông Cửu Long, hay quá trình phát triển, suy thoái và thay thế của các cửa sông trên một
hệ thống các cửa sông đổ ra biển.
Những hiểu biết về các diễn biến bờ biển trong quá khứ với thời đoạn dài (khoảng vài
trăm năm đến hàng nghìn năm) là rất quan trọng vì nó sẽ cho biết được những thông tin
cần thiết để diễn giải được các nhân tố chính đã từng có tác động đến hình dạng của
đường bờ biển trong quá khứ; thông qua các suy đoán trên cơ sở các luận cứ đã có. Có
thể các nhân tố tác động này vẫn đang tiếp tục diễn ra trong hiện tại tuy với mức độ nhỏ
hơn so với quá khứ.
Theo Dean (2002), trong vòng 50 năm trở lại đây, kỹ thuật bờ biển đã trở thành một
ngành khoa học hoàn chỉnh với các nghiên cứu chuyên sâu với mục tiêu là nắm bắt được
các quy luật của quá trình diễn biến bờ biển và phát triển các chiến lược ứng phó có hiệu
quả đối với hiện tượng xói lở bờ biển. Với các tiếp cận nghiên cứu ngày càng tinh vi,
sâu sắc về quá trình diễn biến bờ biển, các kỹ sư kỹ thuật bờ biển có thể thiết kế một
cách hiệu quả các công trình bảo vệ bờ. Với áp lực của sự gia tăng dân số toàn cầu, nhất
là ở khu vực ven biển; và mối đe dọa về sự gia tăng mực nước biển, sự gia tăng số lượng
và mức độ tàn phá của bão biển, thì nhu cầu về kỹ thuật bờ biển và các nghiên cứu
chuyên sâu về diễn biến bờ biển chắc chắn sẽ ngày càng tăng.
Cho tới nay, những hiểu biết tốt nhất về quá trình diễn biến bờ biển (trong đó bao
gồm cả những hiểu biết về dòng chảy ven bờ, sóng và tương tác giữa sóng với bờ
biển)bao gồm: năng lực phân tích, tổng hợp các quá trình diễn ra trong tự nhiên/ năng
lực diễn giải, giải thích các hiện tượng phức tạp; đôi khi là sự mâu thuẫn giữa các căn
cứ, bằng chứng/ các kinh nghiệm đạt được từ các nghiên cứu trên một loạt các bờ biển
và từ các công việc thực hiện tại các dự án có liên quan tới kỹ thuật bờ biển.
Tuy vậy, việc mô tả toán học các hiện tượng tự nhiên diễn ra ở bờ biển, nhất là mô tả
các chuyển động phức tạp của dòng chảy và bùn cát ở bờ biển vẫn còn hạn chế, đây
cũng là nguyên nhân làm hạn chế khả năng mô phỏng và dự báo các diễn biến ở bờ biển
trong thời đoạn dài bằng các mô hình toán học. Nhiều nghiên cứu về các hiện tượng, quá
trình diễn biến ở bờ biển đang tiếp tục được thực hiện thông qua việc so sánh các kết
quả tính toán với các đo đạc thực tế tại bờ biển và các nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm. Tuy nhiên những nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này, nhất là về động lực ở

bờ biển trong điều kiện tự nhiên là một trong những nghiên cứu thú vị và thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học và cả các sinh viên theo học ngành kỹ thuật bờ biển.
Nói chung, các bài toán nghiên cứu bờ biển có thể chia thành 2 loại: thứ nhất là các
bài toán vĩ mô, sử dụng các định luật bảo toàn hoặc tìm ra các luận cứ để đi đến các giải

7
pháp hợp lý; và thứ hai là các bài toán vi mô, loại này thường bao gồm các nghiên cứu
chi tiết bản chất vật lý của các hiện tượng diễn ra ở bờ biển. Ngày nay, các tiếp cận theo
hướng các bài toán vĩ mô thường hữu ích hơn cho các kỹ sư ngành kỹ thuật bờ biển; còn
đối với các nghiên cứu chi tiết về bản chất vật lý của các quá trình diễn biến bờ biển thì
vẫn còn là vấn đề hóc búa, hy vọng trong tương lai, những thành tựu nghiên cứu theo
hướng tiếp cận vi mô sẽ thay thế hoặc kết hợp với các tiếp cận theo hướng vĩ mô.

1.4 LỊCH SỬ VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH KỸ THUẬT BỜ BIỂN
Kỹ thuật bờ biển là một ngành khoa học trẻ, mới chỉ hình thành và phát triển trong
năm 50 của thế kỷ 20. Trong lịch sử, việc xây dựng các công trình ven biển đều có liên
quan tới các kỹ sư dân sự và các kỹ sư phục vụ trong quân đội. Tại Mỹ, hầu hết các
nghiên cứu về biển và xây dựng các công trình ven biển đều do các kỹ sư thuộc Tổ
hợp kỹ thuật quân sự của quân đội Mỹ thực hiện. Thuật ngữ “ kỹ sư bờ biển” được
nhắc tới và được sử dụng phổ biến vào những năm 1950, với Hội thảo đầu tiên về kỹ
thuật bờ biển tại Long Beach, California. Trong lời nói đầu của tuyển tập các nghiên
cứu khoa học tại Hội thảo này, M.P. O'Brien đã viết, “ Nó (ngành kỹ thuật bờ biển),
không phải là một ngành mới hay là một ngành riêng biệt của kỹ thuật mà trước hết
Kỹ thuật bờ biển là một ngành nằm trong Kỹ thuật Dân dụng, ngành này chủ yếu thiên
về hải dương học, cơ học chất lỏng, điện tử, kết cấu công trình và các ngành khác”.
Bên cạnh đó còn phải kể tới địa chất, địa mạo, phân tích thống kê, hóa học và khoa
học vật liệu.
Khái niệm này cho tới nay, về cơ bản vẫn đúng. Tuy vậy, kỹ thuật bờ biển đã có
những phát triển vượt bậc trong vài thập kỷ gần đây. Từ lần hội thảo đầu tiên với tuyển

tập hội thảo có 35 bài báo khoa học; cho tới nay, tại hội thảo lần thứ 30 (tổ chức năm
2006 tại San Diego, Mỹ) đã có hơn một ngàn bài báo, báo cáo tham dự hội thảo. Ngoài
ra, mỗi năm hai lần, các Hội thảo Quốc tế về kỹ thuật bờ biển cho một số chuyên
ngành như cảng, nạo vét, bùn cát bờ biển, dải ven bờ và công trình biển, đo đạc và
phân tích sóng và kỹ thuật bờ biển và xây dựng cảng tại các nước đang phát triển cũng
đã được tổ chức.
Các lĩnh vực có liên quan tới kỹ sư ngành KTBB được mô tả trong danh sách dưới
đây
 Các nghiên cứu triển khai (thông qua đo đạc thực tế và khôi phục từ số liệu lịch sử)
có liên quan tới sóng ở vùng nước nông, dòng chảy và các điều kiện mực nước.
 Thiết kế các dạng công trình biển ổn định, bền vững, hiệu quả và kinh tế bao gồm:
các đập phá sóng, đê chắn sóng, đập mỏ hàn, kè biển, tường biển, cầu tàu, các kết
cầu ngoài khơi và các đường ống dưới biển.

8
 Khống chế hiện tượng sạt lở bờ biển bằng các công trình bảo vệ bờ biển hoặc bằng
các giải pháp "mềm" mang tính "phi công trình" và thân thiện với môi trường như
nuôi bãi nhân tạo, trồng cây chắn sóng ven biển,
 Ổn định các cửa sông, lạch triều, luồng tàu, phục vụ giao thông thủy và thoát lũ
thông qua việc nạo vét, xây dựng các công trình hoặc bằng các cơ chế chuyển cát
nhân tạo
 Dự báo sự biến đổi của dòng chảy, mực nước ở các lạch triều, cửa sông và đánh giá
ảnh hưởng của chúng tới sự ổn định của luồng lạch cũng như chất lượng nước.
 Nghiên cứu phát triển các công trình bảo vệ vùng ven biển có nguy cơ bị ngập lụt
do hiện tượng nước dâng hoặc sóng thần
 Thiết kế cảng và bến neo đậu tàu thuyền và các công trình phụ trợ bao gồm: bến
cảng, tường neo, trụ neo, cầu cảng và hệ thống neo tàu vv
 Thiết kế các công trình bảo vệ đảo ngoài khơi
 Giám sát các dự án khác nhau về bờ biển thông qua các quan trắc đa dạng tại hiện
trường

XU THẾ PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI
Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và máy tính điện tử mà
ngành Kỹ thuật bờ biển cũng có sự bùng nổ về loại và sự tinh vi của các mô hình toán
trong phân tích các hiện tượng có liên quan tới bờ biển. Trong hầu hết các lĩnh vực của
kỹ thuật bờ biển, nhưng không phải là tất cả, các mô hình toán đã bổ sung và thay thế
dần cho các mô hình vật lý. Trong một số lĩnh vực nghiên cứu như tính toán dự báo
nước dâng do bão, thì chỉ có mô hình toán mới là công cụ thích hợp và hiệu quả. Mặt
khác, một số bài toán như tính toán sóng leo và sóng tràn qua đỉnh các công trình bờ
biển hay tính toán ổn định của các viên đá bảo vệ chịu tác dụng của sóng chỉ có thể
thực hiện được tốt nhất trong phòng thí nghiệm.
Robert (1997) khi bàn về phương hướng quan trọng của ngành kỹ thuật bờ biển
trong thực tiễn đã nhấn mạnh rằng, đang có xu hướng xây dựng các công trình bảo vệ
bờ dạng “mềm” và ít gây cản trở dòng chảy. Ví dụ như việc xây dựng các công trình
đập phá sóng ngoài khơi bảo vệ bờ thường có cao trình đỉnh ở ngay dưới mực nước
biển trung bình, tại cao trình này các đập vẫn có tác dụng khống chế các sóng, và ít
gây ảnh hưởng bất lợi tới cảnh quan.
Các thiết bị đo đạc, quan trắc ngoài thực địa ngày càng nhiều về số lượng và nâng
cao về mặt tính năng của thiết bị. Ví dụ như cách đây 20 năm, các thiết bị đo sóng
thường chỉ đo đạc các dao động ở trên mặt nước tại 1 điểm (do vậy mà không thể đo
được các thành phần của sóng theo các hướng khác của phổ sóng). Ngày nay, các thiết

9
bị đo sóng có thể đo đạc phổ sóng theo nhiều hướng đồng thời đang được sử dụng một
cách phổ biến trong các nghiên cứu ngoài thực địa.
Tính tăng của máy tạo sóng trong phòng thí nghiệm đã được cải thiện một cách
đáng kể. Trước những năm 60, mới chỉ có thể tạo được các sóng đơn và đều có chu kỳ
và chiều cao sóng không đổi bằng máy tạo sóng. Trong những năm 70, các máy tạo
phổ sóng một chiều đã trở nên thông dụng. Đến nay, các máy tạo sóng đa phổ định
hướng đã có mặt ở nhiều phòng thí nghiệm.


1.5 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VÙNG VEN BIỂN
Như đã được định nghĩa ở trên, đường bờ được xem như là ranh giới giữa đất liền
với đại dương, biển hay hồ. Vùng ven biển là phần diện tích của đất và nước bao bọc
lấy đường bờ và kéo dài về cả hai phía đất liền và biển. Về phía đất liền vùng ven
biển được kéo dài tới một giới hạn thích hợp, còn về phía biển thì nó kéo dài tới
vùng thường xuyên diễn ra các quá trình động lực quan trọng đối với vùng bờ.
Phân loại bờ biển
Các tác động tới bờ biển là rất khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi của tác động
theo không gian và thời gian; các thành tạo địa chất; loại bùn cát; các yếu tố động lực
xuất hiện ở vùng ven biển cũng như các tác động của con người trong khu vực này.
Bùn cát của bãi biển có đường kính hạt biến đổi trên một dải rộng, từ các hạt bùn
mịn tới cát thô, dăm, cuội sỏi và đá tảng. Dựa vào thành phần, đặc tính của các vật
chất có mặt trên bãi biển mà người ta có thể phân bờ biển thành các loại sau: bờ biển
bùn, bờ biển cát, bờ biển cuội, sỏi và bờ biển có cấu tạo đá và các mũi đá.
Trên cơ sở các đặc tính đặc trưng (về mặt hình thái học và hiện tượng diễn biến ở
bờ biển) mà người ta có thể phân loại bờ biển theo một cách khác; bao gồm: bờ biển
có cấu tạo là các đảo chắn, bờ biển châu thổ, bờ biển cồn cát; bờ biển cấu tạo vách
đá, bờ biển san hô, bờ biển rừng ngập mặn và bờ biển đầm lầy, cỏ biển, vv
Dựa trên lưu lượng dòng chảy (bao gồm lưu lượng dòng chảy và lưu lượng bùn
cát) từ sông ra biển, đặc trưng sóng theo mùa (biểu thị thông qua độ cao sóng trung
bình ở vùng nước nông - ký hiệu H) và độ lớn tương đối của thủy triều (biên độ triều
- ký hiệu là TR), một cách phân loại bờ biển khác được đề cập tới như sau: bờ biển
có quá trình dòng chảy sông giữ vai trò thống trị và bờ biển mà năng lượng sóng giữ
vai trò thống trị có tương quan (TR/H = 0,5-1), bờ biển mà năng lượng thủy triều giữ
vai trò thống trị (TR/H >3) và bờ biển hỗn hợp (TR/H =1 đến 3)
Khi tác dụng của sóng và dòng chảy tương đối nhỏ và dòng sông mang một lượng
bồi tích lớn chảy ra biển, thì có thể dẫn đến sự hình thành một tam giác châu kéo dài
ra phía biển, theo xu thế phát triển của đường bờ. Tại một số nơi, đường bờ bị chia
cắt tạo thành các cửa sông hoặc lạch triều ăn thông với vịnh ở phía trong đất liền.


10
Các cửa sông hoặc lạch triều thường được duy trì nhờ có tác dụng của dòng chảy từ
sông hoặc do tác dụng của dòng triều. Ngoài ra còn có một số bờ biển có vách đá dốc
mà phần bãi phía trước nó là các bãi biển nhỏ hoặc không còn bãi biển dưới chân
vách đá nữa. Do các bờ biển cát thường chiếm đa số và quá trình động lực ở loại bờ
biển này thường rất mạnh và với nhiều đặc điểm lý thú nên loại đường bờ này
thường nhận được sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu.
Khi thiết kế và xây dựng các công trình ven biển, cần phải lường trước các ảnh
hưởng của công trình gây ra đối với chế độ dòng chảy, động lực sóng và biến đổi bờ
biển tại vị trí xây dựng công trình và khu vực lân cận đó. Điều này trở nên cần thiết
hơn nếu yêu cầu đặt ra khi xây dựng công trình là ổn định và không gây những tác
động không mong muốn. Các hậu quả không mong muốn khi xây dựng các công trình
dọc bờ biển có thể là hiện tượng bồi lấp hoặc xói lở bờ biển ở lân cận khu vực xây
dựng công trình do quá trình vận chuyển bùn cát theo hướng dọc bờ hay theo hướng
vuông góc với đường bờ bị gián đoạn bởi công trình đã xây dựng.
Ở vùng ven biển, sóng thường là yếu tố động lực mạnh và có ảnh hưởng lớn tới
đường bờ. Đáng kể và dễ nhận thấy nhất là các tác động do các sóng hình thành từ
gió. Một loại sóng khác cũng có tầm quan trọng không kém là các sóng có nguồn gốc
từ hiện tượng thủy triều, đó là các sóng dài hình thành do tác dụng của lực hấp dẫn
vũ trụ từ mặt trăng và mặt trời đối với trái đất, hay còn gọi là sóng triều. Bên cạnh
sóng gió và sóng triều là các sóng khác có tần suất xuất hiện nhỏ hơn rất nhiều so với
sóng triều hay sóng gió. Xét về tổng thể, thì các sóng này có tầm quan trọng nhỏ vì
tần suất xuất hiện rất thấp, nhưng nó lại có những ảnh hưởng rất lớn tới những nơi
mà nó tác động, đó các sóng hình thành do hiện tượng địa chấn dưới lòng đại dương
hay còn gọi là sóng thần (tsunamis). Một loại sóng khác cũng thường đường đề cập
tới trong các nghiên cứu ở khu vực cửa sông, ven biển là sóng do tầu thuyền khi
chuyển động tạo ra.
Sóng do gió gây nên những tác dụng đáng kể nhất đối với sự biến đổi của bãi biển.
Mặt cắt ngang của bãi biển có hướng vuông góc với đường bờ thường biến đổi hình
dạng khi cát bị mang ra ngoài khơi và quay trở lại phía bờ trong một khoảng thời gian.

Ở nhiều nơi, một lượng lớn cát cũng bị vận chuyển dọc theo bờ biển dưới tác dụng của
sóng khi nó tác dụng theo hướng xiên góc với đường bờ. Các tác động của dòng chảy
thường chi phối các diễn biến tại cửa vào của các vịnh và các cửa sông, nơi dòng chảy
có vận tốc lớn hình thành.
Đối với các khoa học và các kỹ sư đang nghiên cứu hoặc làm các công việc có liên
quan tới biển thì những hiểu biết về có chế hình thành của sóng và có khả năng dự báo
các đặc trưng của sóng hình thành từ gió là điều không thể thiếu.

11
Nói chung, sóng được hình thành ở vùng nước sâu, và sau đó được truyền ra khắp
đại dương, thậm chí là từ biển này tới biển khác, và khi đi tới gần bờ do ảnh hưởng của
địa hình đáy, sóng bị biến dạng làm thay đổi chiều cao sóng và hướng sóng. Các sóng
này thường được gọi là sóng lừng, hay sóng cồn (swell waves). Trong quá trình lan
truyền trên biển, chỉ có một phần nhỏ năng lượng của sóng bị tiêu hao. Sự tiêu hao
năng lượng này chỉ làm giảm chiều cao sóng chứ không làm thay đổi chu kỳ của sóng.
Các sóng lừng, được xem như có tác dụng phân phối lại năng lượng gió (nguồn năng
lượng này là rất lớn) một cách hiệu quả nhất tới mọi bờ biển trên thế giới. Các sóng
này (hoặc là có nguồn gốc từ bão hoặc là do biển động) trước khi tới được bờ biển sẽ
phải di chuyển qua thềm lục địa. Sự biến đổi các đặc tính của sóng khi nó di chuyển
qua vùng thềm lục địa và vùng nước nông lân cận gần bờ, cần phải được hiểu rõ. Cuối
cùng, khi đi vào gần bờ, do ảnh hưởng của ma sát đáy, sóng bị vỡ và gây nên sự biến
đổi năng lượng rất phức tạp trong vùng bờ nơi nó vỡ và đối với các công trình được
xây dựng trong khu vực này.
Bởi vậy, khi nghiên cứu về các quá trình diễn biến bờ biển và vận chuyển bùn cát
tại một đoạn bờ biển cụ thể nào đó thì các thông tin về loại sóng, thời gian xuất hiện
của nó trong các tháng, các mùa và trong cả năm cần phải được xác định một cách cụ
thể. Những thông tin này được gọi là đặc trưng sóng theo mùa (wave climate).
Khi xét tới tác động của một sóng đơn lên bãi biển, người ta thường xác định mức
độ tác động lớn hay nhỏ căn cứ vào 3 thông số chính, đó là: chiều cao và chu kỳ sóng,
hướng sóng tác động tới đường bờ và tần suất xuất hiện của sóng đó trong năm.

Hướng sóng tác động tới đường bờ là một tham số quan trọng, không chỉ đối với tính
toán thiết kế công trình, mà còn đối với cả các nghiên cứu vận chuyển bùn cát ở ven
bờ. Khi tính toán thiết kế các công trình ven biển, người ta thường quan tâm tới các tài
liệu thống kế về sóng, đặc biết là số liệu có liên quan tới con sóng lớn nhất đã từng
xuất hiện tại khu vực xây dựng công trình. Nếu khu vực xây dựng công trình có đầy đủ
các tài liệu quan trắc sóng trong quá khứ thì việc tính toán xác định các thông số sóng
thiết kế theo tần suất thường không quá phức tạp. Tuy nhiên, nếu khu vực xây dựng
công trình không có tài liệu quan trắc sóng, thì cần tính toán phục hồi lại số liệu sóng
lớn nhất từ các số liệu về các trận bão lớn, đã xảy ra trong quá khứ.
Cao trình mực nước biển cũng là một tham số quan trọng trong tính toán thiết kế
công trình và tính toán diễn biến bờ biển. Thường đây là căn cứ để tính toán cao trình
đỉnh của các công trình xây dựng ven biển và tính toán sóng leo trên bãi biển hoặc
sóng leo trên mái công trình. Mực nước triều có thể dự báo được rất chính xác dựa vào
bảng thủy triều xây dựng từ mực nước thực đo trong một, hai năm.
Nước dâng do bão là hiện tượng thường hay xảy ra ở dọc bờ biển, đặc biệt là tại
những vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão. Nước dâng là hiện tượng dâng cao

12
đột ngột mực nước biển dọc theo bờ biển trên một đoạn bờ biển nhất định nào đó có.
Hiện tượng xảy ra khi đoạn bờ biển chịu tác động của gió bão, thổi liên tục với vận tốc
lớn theo hướng nhất định từ biển vào đất liền, kết hợp với sự biến đổi khí áp cục bộ
(xuất hiện khi có bão). Hiện tượng nước dâng do bão có thể gây ra những thiết hại rất
lớn trên một diện rộng vì nó gây ngập lụt các vùng đất thấp ven biển và tạo điều kiện
cho các sóng tác dụng vào sâu trong đất liền.
Khi sóng vỡ ở gần bờ, nó có thể tạo với đường bờ một góc xiên. Do vậy thành phần
của sóng theo hướng dọc bờ sẽ tạo thành dòng chảy dọc bờ, xuất hiện trong vùng sóng
vỡ (surf zone). Trong vùng sóng vỡ có chuyển động rối của các chất điểm nước, kéo
theo các hạt bùn cát ở đáy cũng bị khuấy động và nổi lơ lửng. Do tác dụng của dòng
ven bờ các hạt bùn cát lơ lửng sẽ bị cuốn đi theo hướng dọc bờ và sự vận chuyển bùn
cát này được gọi là tác dụng vận chuyển bùn cát dọc bờ. Dòng chảy dọc bờ có thể kết

hợp với dòng tiêu (chảy vuông góc với bờ), tạo nên những ảnh hưởng riêng biết đối
với sự phân tán bùn cát ở dải ven bờ. Bên trong đường sóng đổ (breaker line), dao
động của các chất điểm nước tại đáy do sóng gây ra cũng làm cho bùn cát nổi lơ lửng
trong nước. Các dao động này có giá trị lớn nhất tại đáy, và làm dịch chuyển bùn cát lơ
lửng dọc bờ biển, chủ yếu trên một độ sâu tại mặt cắt ngang bờ biển
Cát trên bãi biển và trên các đụn cát, cồn cát, ngoài các tác động của sóng và dòng
chảy ven bờ, còn chịu tác động của gió. Cát bị gió cuốn lên phần thềm bãi của cồn cát
ngoài cùng phía biển và chúng có tác dụng củng cố phần phía trước của cồn cát. Trong
trường hợp sau một vài năm mà chúng không bị sóng bão làm cho xói lở thì chúng sẽ
tiếp tục được phát triển trở thành cồn cát lớn hơn.
Bên cạnh vấn đề xói lở bờ biển thì hiện tượng lắng đọng bùn cát tại các cửa sông,
lạch triều cũng là vấn đề thường hay gặp ở vùng ven biển. Bùn cát khi chuyển động
dọc theo bờ biển tới các cửa sông hay lạch triều, do có tương tác với dòng chảy từ
sông đi ra hay tương tác với dòng triều xuống, sẽ tạo thành các dải ngầm ngoài cửa,
đôi khi là các doi cát ngầm nâng dần lên trên mực nước biển. Vị trí và kích thước của
các dải cát ngầm hay doi cát ngầm này thường xuyên thay đổi do chúng chịu tác động
trực tiếp của sóng và dòng chảy dọc bờ, và gây cản trở rất lớn cho giao thông thủy.
Tùy thuộc vào nguồn bùn cát được vận chuyển tới cửa sông, lạch triều là nhiều hay ít
mà cửa sông sẽ bị bồi lấp hoàn toàn hay một phần, dẫn đến những chi phí nạo vét cửa
hàng năm rất tốn kém.

1.6 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH BỜ BIỂN VIỆT NAM
Bờ biển Viêt Nam có chiều dài hơn 3260km, là một dải bờ biển rất phức tạp. Đứng
về mặt tác động của các quá trình động lực từ biển lên lục địa, từ lục địa (sông ngòi

13
v.v.) lên vùng bờ biển và sự tương tác lẫn nhau giữa chúng, thì đặc điểm của dải bờ
biển là một trong những yếu tố quan trọng. Các đặc điểm này có thể kể sơ bộ như sau:
- Đặc điểm của các cửa sông và của các hệ thống sông chảy ra biển.
- Cao trình và cấu trúc địa chất của đường bờ biển.

- Hướng và địa hình đáy của các đoạn bờ.
- Hệ sinh thái dọc đường bờ và vùng ngập mặn
- Hệ thống đê, kè biển v.v.
Việc phân chia ranh giới các miền Bắc, Trung, Nam không đặc trưng cho sự đồng
nhất về địa hình và đặc điểm của vùng bờ. Trong mỗi miền, đặc điểm địa hình vùng bờ
rất phức tạp.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN BẮC
Nhìn chung về địa hình ở dải bờ miền Bắc là phức tạp nhưng tương đối bằng phẳng,
độ dốc nhỏ. Đó là một trong những nguyên nhân tạo điều kiện cho nước dâng bão phát
triển mạnh suốt cả dải bờ này.
Mặc dù toàn dải bờ này có thể chia thành hai phần khác biệt nhau: phần phía bắc là
đoạn bờ khúc khuỷu, nhiều đồi núi tạo thành vách đứng và hàng ngàn đảo che chắn ;
phần phía nam là đoạn bờ thuộc vùng đồng bằng có nhiều cửa sông chia cắt. Nhưng ở
đây có một đặc điểm chung là toàn bộ dải bờ đều có hướng chung là đông bắc - tây
nam. Địa hình đáy thoai thoải, độ dốc không lớn, có bãi triều rộng. Đó cũng là đặc
điểm thuận lợi cho các hiện tượng như sóng, nước dâng v.v . phát triển.
a) Đường bờ từ Quảng Ninh đến Hải Phòng
- Vùng bờ tỉnh Quảng Ninh, từ phía lục địa, đây là vùng bờ cửa sông dạng hình
phễu. Các cửa sông chính ở đây là: Cửa Lục, Tiên Yên, Hà Cối và Ka Long. Các cửa
sông này đều có lưu lượng nhỏ, ít phù sa. Nhưng do vùng này là vùng sụt chìm nên có
diện tích ngập triều khá rộng. Hơn nữa, đây là nơi có biên độ triều lớn nhất Việt Nam
(4,5m). Về phía biển, đây là vùng bờ có địa hình phức tạp nhất do có rất nhiều đảo nhỏ
che chắn phía ngoài bờ (Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long).
- Dải bờ biển Hải Phòng: Đây là vùng cửa sông của hệ thống sông Thái Bình. Các
cửa sông chính là Lạch Tray và Cửa Cấm. Dải bờ này có hệ thống lạch triều dày đặc.
Đặc điểm nổi bật của dải bờ này là quá trình xói lở có xu thế tăng trong nhiều năm
qua.
b) Đường bờ từ Hải Phòng đến Thanh Hóa
- Dải bờ thuộc châu thổ sông Hồng (từ Đồ Sơn - Hải Phòng đến Lạch Trường-
Thanh Hóa) có các cửa sông: Ba Lạt, Cửa Đáy, Văn Lý. Trừ vùng Văn Lý trong một

giới hạn hẹp có xói lở cục bộ, còn cả dải bờ này có xu hướng bồi tụ. Quá trình bồi tụ
có xu hướng mở rộng ngang- từ bờ ra biển có thể tới 25km, như ở cửa sông Đáy, cửa

14
Ba Lạt (tại Văn Lý chỉ khoảng 2-4km). Ở đây, quá trình động lực sông chiếm ưu thế
so với biển.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN TRUNG
Dải bờ biển miền Trung, xét theo đặc điểm địa hình có thể chia làm 3 đoạn như sau:
a) Dải bờ bắc Trung bộ từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh.
Phần phía bắc của đoạn này như sự kế tiếp của phần phía nam của đoạn bờ thuộc
dải châu thổ sông Hồng. Phần phía nam có địa hình phức tạp hơn vì bị chia cắt bởi các
cửa sông như Cửa Nhượng, Cửa Khẩu
Nói chung đoạn bờ này khá bằng phẳng, độ dốc không lớn. Đường đẳng sâu 20m và
50m nằm cách bờ khá xa.
Mặc dù cũng có sông ngòi đổ ra, nhưng các sông ở dải bờ này thường nhỏ, ngắn và
dốc, nên không tạo được những cửa sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, do vậy
ở dải bờ này không có những bãi triều rộng như ở dải bờ châu thổ sông Hồng. Hệ sinh
thái (rừng ngập mặn) ở đây khá nghèo.
b) Dải bờ trung Trung bộ từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi
Là đoạn bờ có sự xen kẽ giữa núi cao (Đèo Ngang) và các bãi cát làm cho đường bờ
trở nên khúc khuỷu. Đoạn bờ này có đặc tính như đoạn bờ phía bắc của miền Trung,
với nhiều dãy núi đâm ra biển như mũi Chân Mây, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà, mũi
Lay, mũi Dọc, và đồng thời dải bờ này tuy ngắn nhưng có nhiều sông đổ ra : Cửa
Tùng, Cửa Việt, Cửa Thuận An, Cửa Đại
Đồng bằng ven biển ở đây hẹp. Như vậy, núi, sông, đồng ruộng nằm đan xen nhau
làm cho đường bờ khúc khuỷu. Giữa các mũi vươn ra tạo thành các vụng vịnh lớn như
: vụng Chân Mây, vịnh Đà Nẵng.
Độ sâu ở dải bờ biển này lớn. Đường đẳng sâu 50m nước nằm cách bờ không xa,
đặc biệt đường đẳng sâu 20m nước gần như nằm sát bờ, có nơi chỉ cách bờ khoảng
10km.

c) Dải bờ nam Trung bộ từ Quảng Ngãi tới Bình Thuận.
Đây là đoạn bờ có ít sông đổ ra biển nhất. Sông lớn đáng kể nhất trên đoạn bờ này
là sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngãi và sông Đà Rằng ở Tuy Hoà, thuộc tỉnh Phú
Yên. Đoạn bờ này có một số mũi và bán đảo như: mũi Ba Làng An, mũi Đại Lãnh,
mũi Dinh, mũi Kê Gà, bán đảo Hòn Gốm. Đồng thời có một số vịnh khá kín, thuận lợi
cho tàu bè trú ẩn khi có dông, bão như vịnh Quy Nhơn, vịnh Văn Phong, vịnh Cam
Ranh.
Hệ thống đảo ven bờ vùng này nằm thưa thớt trên một dải bờ dài như đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi), Cù Lao Xanh (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hoà).

15
Nét nổi bật nhất của địa hình đáy đoạn bờ này là thềm lục địa rất hẹp và dốc. Các
đường đẳng sâu 50m,100m, thậm chí cả đường đẳng sâu 1000m đi rất sát bờ, nhất là
đoạn từ Quy Nhơn đến Nha Trang.
Như trên đã nói, bão ở vùng này ít về tần số và nhỏ hơn về cường độ, vì thế nước
dâng ở đây không lớn. Nhưng một phần quan trọng nữa làm hạn chế sự phát triển của
nước dâng ở đây là địa hình đáy sâu và dốc. Về hệ sinh thái, nhất là rừng ngập mặn ở
đoạn bờ này không đáng kể.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN NAM
Cả dải bờ này có nhiều đặc điểm không đồng nhất về hình thể đường bờ và địa hình
vùng bờ. Nhìn chung, nó được chia thành 2 đoạn
a) Dải bờ đông Nam bộ gồm hai hệ thống cửa sông chính :
- Vùng cửa sông Đồng Nai. Trước khi đổ ra biển, sông Đồng Nai chia ra nhiều
nhánh nhỏ và đổ ra vịnh Gành Rái nông và kín- đây là vịnh lớn nhất của miền Nam.
- Tiếp đến là vùng cửa sông Cửu Long. ở đây có rất nhiều cửa sông chia cắt dải bờ
này thành nhiều đoạn. Các cửa sông chính gồm có: cửa Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại,
Cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiến, cửa Cung Hầu, cửa Định An, cửa Tranh
Đề, cửa Mỹ Thạnh và cửa Bồ Đề. Các cửa sông này hàng năm đổ ra biển một lượng
rất lớn nước ngọt và phù sa. Chính vì vậy mà vùng biển các cửa sông được bồi đắp,
bãi triều rất rộng. Suốt cả dải bờ là vùng nước nông, đáy thoải, độ dốc nhỏ. Đường

đẳng sâu 50m cách rất xa bờ, càng về phía nam càng xa. Phần lãnh hải nằm trong
đường đẳng sâu 20m có diện tích rất lớn, đường đẳng sâu này có thể cách bờ 50km.
Dải bờ biển này hầu như không có đảo. Duy nhất chỉ có đo Hòn Khoai nhỏ bé, nằm
cách mũi Cà Mau khoảng 15-20 km.
Khác với bờ biển miền Trung, nơi có nhiều mũi, vụng, vịnh, các đảo ; dải bờ biển
này có nét đặc trưng là có rất nhiều cửa sông rộng chia cắt.
b) Dải bờ tây Nam bộ
Dài bờ này kéo dài từ mũi Cà Mau tới mũi Nai - Hà Tiên, thuộc tỉnh Kiên Giang.
Nhìn chung đoạn bờ này ít khúc khuỷu, ít bị chia cắt và có rất ít sông đổ ra. Chỉ có
sông Cái Lớn đổ ra vụng Rạch Giá là lớn hơn cả.
Ở đây cũng có một số mũi nhỏ,
không vươn ra xa biển như mũi Hòn Chông, mũi Ông Thầy vv. Các vụng, vịnh ở đây
cũng ít như vụng Rạnh Giá, vụng Cà Mau, vụng Cây Dương ; trong đó vụng Rạch Giá
lớn hơn nhất. Địa hình đáy vùng bờ thoải, nông, độ dốc rất nhỏ. Đường đẳng sâu 20m
nằm cách bờ khoảng 50 -60 hải lý.
Hệ thống các đảo thuộc dải bờ này khá phong phú, với các đảo lớn như đảo Phú
Quốc, Thổ Chu (nằm xa bờ). Nằm gần bờ hơn là hệ thống các đảo nhỏ như: Hòn Tra,

16
Hòn Minh Hoà, Hòn Anh Đông, Hòn Anh Tây, Hòn Thơm, Hòn Nam Du, Hòn Trước,
Hòn Mau, Hòn Dấu, Hòn Trong vv
Dải bờ này phần lớn có hướng Nam - Bắc và Đông - Nam chịu ảnh hưởng của gió
mùa Tây Nam tương đối lớn.
Dải bờ chung quanh mũi Cà Mau (đông và tây) là nơi có rừng ngập mặn lớn nhất
nước mặc dù - như chúng ta đã biết: những năm gần đây diện tích rừng ngập mặn đã bị
thu hẹp đi rất nhiều do bị con người tàn phá và do cháy rừng.
Do vùng bờ thoải và nông nên suốt cả dải bờ biển miền Nam đều có bãi triều rộng.
Về mặt địa hình, đây là dải bờ thuận lợi nhất cho việc phát triển nước dâng do bão. Rất
may là ở khu vực thường rất ít khi có bão và cường độ bão cũng yếu.


17
CHƯƠNG 2
SÓNG, MỰC N
ƯỚC VÀ DÒNG CHẢY

2.1 GIỚI THIỆU
Van der Velden (1998) đã viết rằng, nếu biển lúc nào cũng hiền hòa và phẳng lặng
thì các nghiên cứu về biển sẽ chẳng còn gì thú vị nữa. Thật may là trong tự nhiên
không phải là thế, mực nước biển luôn dao động theo các thời đoạn dài, ngắn khác
nhau một cách thường xuyên và theo các quy luật phức tạp khiến cho biển cả trở nên
thật bí ẩn và các nghiên cứu về biển thật thú vị và đáng quan tâm.
Sóng hình thành từ gió (gọi tắt là sóng gió) là một tác nhân quan trọng có tác dụng
truyền năng lượng từ gió qua đại dương tới bờ biển. Khi tới vùng nước nông, năng
lượng sóng chuyển thành dòng chảy dọc bờ và gây nên hiện tượng vận chuyển bùn cát
ven bờ. Sự hình thành sóng từ gió phụ thuộc vào tốc độ gió và thời gian gió thổi và
phạm vi không gian có gió thổi. Sóng hình thành trong vùng có bão được gọi là sóng
bão và chúng thường rất phức tạp. Tại một thời điểm, có rất nhiều chiều cao sóng khác
nhau, sóng dường như xuất hiện đột ngột và biến mất đột ngột. Sở dĩ mà sóng bão
phức tạp như vậy là do bão không chỉ đơn giản tạo nên một loại sóng mà là tạo nên
toàn bộ phổ sóng với một dải các giá trị chu kỳ và chiều cao sóng khác nhau. Tuy vậy,
khi sóng di chuyển ra khỏi vùng có bão thì chúng lại trở nên đều đặn và phát triển
thành sóng lừng, (swell wave), đây là các sóng có chiều cao và khoảng cách giữa các
đỉnh sóng đồng đều nhau. Ở trạng thái đều đặn này, một con sóng có thể nối tiếp các
con sóng đơn khác trên một quãng đường dài đáng kể khi chúng lan truyền qua đại
dương. Sóng lừng có vai trò truyền năng lượng qua đại dương tới bờ biển, tại đó các
sóng bị vỡ do ảnh hưởng của ma sát đáy và giải phóng năng lượng mà nó mang theo
trong vùng sóng vỡ.
Các kiến thức cơ bản và cụ thể về lý thuyết sóng gió đã được trình bày trong giáo
trình “Sóng gió” được biên soạn cho sinh viên năm thứ 3, giáo trình này sẽ không nhắc
lại các kiến thức đó. Chương 2 sẽ chỉ giới thiệu một cách tóm tắt về lý thuyết sóng

biên độ nhỏ, tuyến tính của Airy, giới thiệu các tính toán, mô tả các thông số sóng có
liên quan trực tiếp tới hiện tượng vận chuyển bùn cát và diễn biến bờ biển. Những khái
niệm cơ bản về mực nước và dòng triều có liên quan tới hình thái bờ biển cũng sẽ
được giới thiệu trong chương này

2.2 LÝ THUYẾT SÓNG TUYẾN TÍNH CỦA AIRY
Để hiểu được chuyển động của sóng khi truyền qua đại dương sau khi thoát ly khỏi
nơi hình thành và sự biến đổi các tham số sóng khi nó đi vào vùng nước nông gần bờ,

18
thì việc biểu diễn toán học các phương trình tương quan dự tính tốc độ chuyển động và
sự thay đổi chiều cao sóng theo độ sâu, các phương trình biểu thị năng lượng sóng là rất
cần thiết. Trong tính toán vận chuyển bùn cát và diễn biến đường bờ, các thông số sóng
cơ bản và các phương trình mô tả quỹ đạo chuyển động, vận tốc của các chất điểm nước
trong sóng là đặc biệt quan trọng.
Các lý thuyết sóng áp dụng trong tính toán có nhiều loại khác nhau, từ lý thuyết sóng
tuyến tính tương đối đơn giản của Airy tới lý thuyết sóng phức tạp của Cnoidal. Tuy
nhiên, do tính chất phức tạp của sóng và cơ chế vận chuyển bùn cát cũng như mối tương
tác giữa các yếu tố sóng, dòng chảy và bùn cát mà khó có thể biểu diễn toán học được
các tương quan này thông qua các lý thuyết sóng phức tạp.
Ở đây sẽ nhấn mạnh tới việc
ứng dụng
Lý thuyết Sóng Tuyến tính của Airy, lý thuyết được áp dụng tại vùng nước
sâu, các tương quan toán học tương đối đơn giản, để mô tả chuyển động của sóng. Do
tính chất phức tạp mà lý thuyết sóng Cnoidal ít nhận được sự quan tâm và ít được ứng
dụng rộng rãi trong thực tiễn mặc dù đây là một lý thuyết sóng có khả năng ứng dụng rất
rộng.
CÁC GIẢI THIẾT CƠ BẢN VÀ ĐẶC TRƯNG SÓNG
Hình dạng, vận tốc và sự chuyển động của các chất điểm nước khi kết hợp với nhau
của một chuỗi sóng đơn là rất phức tạp; chúng sẽ trở nên phức tạp nữa khi ở ngoài thực

tế, tức là trên mặt biển, nơi có vô số các sóng có kích thước, tần số và hướng truyền
sóng khác nhau cùng có mặt. Như đã nêu ở trên, lý thuyết sóng đơn giản nhất mô tả
chuyển động của sóng là lý thuyết của Airy, hay còn được gọi là lý thuyết sóng tuyến
tính vì lý thuyết này đã sử dụng một số giản thiết nhằm tuyến tính hóa các đặc trưng
sóng. Lý thuyết này đã dựa vào các giả thiết như sau: trong môi trường chất lỏng không
nén được (giả thiết này tương đối hợp lý), chất lỏng không tham gia chuyển động quay
(giả thiết này nhằm ám chỉ rằng coi môi trường nước không có tính nhớt, tuy không
hoàn toàn đúng trong thực tế nhưng các sai số xuất phát từ giải thiết này là có thể chấp
nhận được), trên một bề mặt đáy không thấm nước ( không hoàn toàn đúng trong thực
tế) và xét các sóng có biên độ nhỏ (tuy đây không phải là giả thiết tốt nhưng kết quả tính
toán khá phù hợp với thực tế trong trường hợp sóng không quá lớn).
Cho tới nay, lý thuyết sóng đơn giản nhất, lý thuyết của Airy, vẫn có thể sử dụng
được trong nhiều ứng dụng, cụ thể là trong mô tả sóng lừng ở vùng nước sâu có chiều
cao sóng gần như đều nhau hoặc tuyến tính hóa tổng các sóng hình sin để tạo thành các
sóng bão phức tạp. Khi triển khai lý thuyết sóng của Airy, một giả thiết rất quan trọng
được đề cập tới là coi chiều cao sóng là rất nhỏ so với chiều dài sóng và độ sâu nước nơi
có sóng. Bằng việc lấy gần đúng này, phương trình mô tả cao trình mặt nước η(x,t) sẽ có
dạng như sau:

19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×