Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luan van hoan chinh VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LAMAP ĐỂ TỔ CHỨC TIẾN TRÌNH HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC MỘT SỐ KIẾN THỨC "THIÊN VĂN" CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÍ THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn kiện đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo
dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập
nghiệp ".
Để đạt được điều đó nền giáo dục phải đổi mới toàn diện và quan trọng nhất
phải đổi mới chiến lược đào tạo con người, những con người mới đáp ứng yêu cầu
của thời đại mới. Đổi mới giáo dục cần phải đổi mới PPDH, trong đó cần vận dụng
những PPDH tích cực đã tổ chức thành công ở các nước tiên tiến trên thế giới vào
điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Phương pháp dạy học ở các cấp học nói chung và ở
THPT nói riêng phải hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, nuôi
dưỡng các ý tưởng khoa học của người học, làm cho học sinh có nhu cầu khao khát
muốn bộc lộ ý tưởng, biết cách làm việc độc lập và làm việc hợp tác. Sự đổi mới
của PPDH cũng đã được đề cập ở Luật Giáo dục 2005, tại khoản 2 điều 28:
"Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh". [3]
Đã có nhiều PPDH tích cực được áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế
giới như: Dạy học theo góc, dạy học dự án, dạy học theo chủ đề, dạy học tích hợp,
dạy học theo "LAMAP" LAMAP (là viết tắt của cụm từ tiếng Pháp: La main à la
pâte) là một trong những phương pháp dạy học tích cực.
So với phương pháp dạy học truyền thống, dạy học theo phương pháp
LAMAP học sinh học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động, học sinh
1
học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi vấn, bằng cách trình bày quan điểm của mình


có khi là đối lập với quan điểm của bạn Qua đó các em được rèn luyện về khả
năng tư duy, óc phê phán, biết cách bảo vệ quan điểm, biết lắng nghe người khác,
biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung trong một
khuôn khổ nhất định.
Tuy nhiên vận dụng phương pháp LAMAP trong điều kiện thực tiễn dạy học
hiện nay cần nhiều thời gian nên dạy học chính khóa khó thực hiện mà điều này thì
hoạt động ngoại khóa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu.
Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động ngoại khóa như:
+ Nghiên cứu việc tổ chức một số buổi học ngoại khóa về chương: "Từ
trường" cho học sinh lớp 9 THCS miền núi. Nguyễn văn Ngà, 2001.
+ Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khóa về: “Lực ma sát” ở lớp 10
THPT. Đào Thị Hà, 2007.
+ Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khóa phần: "Nhiệt học ở lớp 10"
theo hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Vũ
Đắc Toàn, 2009
Tuy nhiên cho đến nay chưa có luận văn nào nghiên cứu về phương pháp
LAMAP cũng như vận dụng phương pháp này vào tổ chức hoạt động nhận thức bất
kì đơn vị kiến thức nào ở chính khóa cũng như hoạt động ngoại khóa.
Mặt khác chúng tôi nhận thấy kiến thức Thiên văn trong chương trình Vật lí
THPT có nhiều ứng dụng thực tiễn, gắn với đời sống nhưng cho đến nay vẫn chưa
có luận văn nào nghiên cứu về tiến trình tổ chức hoạt động nhận thức kiến thức
Thiên văn.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Vận dụng
phương pháp LAMAP để tổ chức tiến trình hoạt động nhận thức một số kiến
thức “Thiên văn” chương trình Vật lí THPT thông qua hoạt động ngoại khóa.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp LAMAP để tổ chức tiến trình hoạt động nhận thức
một số kiến thức “Thiên văn” chương trình Vật lí THPT thông qua hoạt động ngoại
2
khóa nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong

học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu
+ Nội dung kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí THPT.
+ Hoạt động dạy và học nội dung kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí
THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng phương pháp LAMAP để tổ chức tiến trình hoạt động nhận
thức một số kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí THPT thông qua hoạt động
ngoại khóa và đáp ứng được các yêu cầu của khoa học luận trong dạy học Vật lí
thì có thể phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong
học tập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, chúng tôi đề ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
+ Nghiên cứu về phương pháp dạy học tích cực: nghiên cứu cơ sở sinh lí thần
kinh, các biểu hiện của tính tích cực
+ Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lí luận của dạy học theo phương pháp LAMAP.
+ Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí.
+ Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa hiện hành, sách giáo viên và các tài
liệu tham khảo có liên quan đến nội dung kiến thức "Thiên văn" và phân tích những
khó khăn của học sinh khi học những nội dung kiến thức này.
+ Tìm hiểu thực tế dạy và học kiến thức "Thiên văn".
+ Vận dụng phương pháp LAMAP để tổ chức tiến trình hoạt động nhận thức
một số kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí THPT thông qua hoạt động ngoại
khóa theo hướng phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo nội dung và tiến trình dạy học đã soạn
thảo. Phân tích kết quả thực nghiệm để đánh giá tính khả thi của đề tài, sơ bộ đánh
giá hiệu quả dạy học kiến thức Vật lí với việc vận dụng dạy học theo phương pháp
3
LAMAP nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh

trong học tập. Từ đó, chúng tôi sẽ nhận xét, rút kinh nghiệm, sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện để có thể vận dụng linh hoạt mô hình này vào thực tiễn dạy học các nội
dung kiến thức khác trong chương trình Vật lí trung học phổ thông.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương
pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về cơ sở sinh lí
thần kinh của các mô hình dạy học tích cực, biểu hiện của tính tích cực, năng lực
sáng tạo của học sinh trong học tập, các tài liệu liên quan đến phương pháp
LAMAP, tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí, sách giáo khoa,
sách giáo viên và các tài liệu khác liên quan.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu tình hình dạy - học kiến
thức "Thiên văn" ở Trung học phổ thông (sử dụng phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp
với giáo viên, học sinh).
+ Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm với tiến trình
dạy học đã soạn thảo theo kế hoạch. Phân tích kết quả thu được trong quá trình thực
nghiệm sư phạm, đối chiếu với mục đích nghiên cứu và rút ra kết luận của đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
+ Làm rõ cơ sở lí luận của dạy học theo LAMAP.
+ Vận dụng cơ sở lí luận của dạy học theo LAMAP vào tổ chức hoạt động
ngoại khóa nội dung kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí THPT.
+ Bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên phổ thông và học viên
cao học có cùng chuyên ngành.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
4
Chương 2: Vận dụng phương pháp LAMAP để thiết kế tiến trình hoạt động
nhận thức một số kiến thức "Thiên văn" chương trình Vật lí THPT thông qua hoạt
động ngoại khóa.

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Phương pháp dạy học tích cực
1.1.1. Cơ sở sinh lí thần kinh của các phương pháp dạy học tích cực
Những năm gần đây các kết quả nghiên cứu về sự khác biệt giữa bán cầu não
trái và phải của con người đã rọi luồng sáng mới vào quá trình hoạt động trí óc và
mối quan hệ giữa trí thông minh và óc sáng tạo của con người, vấn đề mà trước đó
đã không được làm sáng tỏ.
Theo quan điểm cũ, các chức năng của bán cầu não trái luôn được coi là trội
hơn, nó như một đặc điểm chung của con người, mang tính bẩm sinh di truyền. Tuy
nhiên kết quả nhiều nghiên cứu về sinh lí, thần kinh và tâm lí học đã đạt được vào
những năm cuối của thế kỉ XX đã cho thấy rằng: sở dĩ có vấn đề này chủ yếu là do
học tập chứ không phải do gen di truyền. Nghĩa là người ta sinh ra có thể phát triển
trội (hoặc cân bằng) các chức năng của hai bán cầu não trái hay phải nhưng giáo
dục có ảnh hưởng tiếp theo đến sự phát triển của chúng.
Nghiên cứu về bộ não cho thấy, bộ não chia thành các khu vực hoạt động của
bản thân thành não trái (chất xám não trái) và não phải (chất xám não phải) rất rõ
ràng và đồng đều. Hai bán cầu não nối liền nhau nhờ vào tập hợp các sợi dây thần
kinh. Mỗi bán cầu não có một vai trò hết sức khác nhau. Chức năng chủ yếu của
não phải và não trái phân công như sau [16]:
Hình 1.1: Mô phỏng chức năng của bán cầu não trái và bán cầu não phải.
6
Con người khi sinh ra có thể có sự phát triển trội ở một trong hai bán cầu
não, nhưng hai bán cầu não cần phải hoạt động, phát triển cân bằng và phối hợp tốt
với nhau để con người phát triển toàn diện về cả trí tuệ và thể lực, về cả suy nghĩ và
hành động.
Trong hệ thống giáo dục truyền thống, kiến thức được cung cấp theo quy
trình liên tục và tuần tự. Trong mỗi môn học, chương trình thiết lập theo kiểu gần
như tuyến tính, phù hợp với học sinh có não trái phát triển trội vì đó cũng là cách

thu nhận và xử lý thông tin của họ, việc dạy học tất nhiên sẽ làm cho các chức năng
của não trái ngày càng phát triển. Những học sinh có não phải phát triển trội gặp
khó khăn vì họ thường không xử lý thông tin theo cách đó, họ có xu hướng diễn giải
mọi thông tin theo cách tổng thể hơn là chi tiết. Họ có xu hướng nắm cái toàn thể
sau đó mới đi ngược lại và mổ xẻ vấn đề, họ có tầm nhìn toàn thể.
Để khắc phục những hạn chế đó, trong giáo dục cần phải đổi mới PPDH để
không những làm cho học sinh có não phải phát triển trội tìm thấy sự thích ứng mà
còn làm sao để mọi học sinh được phát triển cân bằng chức năng của cả hai bán cầu
não, bởi vì chức năng của cả hai bán cầu não đều cần thiết để con người giải quyết
các vấn đề khác nhau, thành công trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn khác nhau.
Như câu nói của bà Madeline Hunter: “Bạn sẽ ôm được nhiều quả bóng nếu dùng
cả hai tay. Cũng như vậy, bạn sẽ lĩnh hội được nhiều thông tin nếu như bạn huy
động cả hai nửa của bộ não” [13].
Giáo dục có thể làm cho nhiều người không có sự phát triển thiên lệch các
chức năng ở hai nửa bán cầu não trở thành người có sự phát triển trội một số chức
năng ở một nửa não nào đó, ngược lại, giáo dục có thể làm mất đi tính trội bẩm sinh
của các chức năng của các bán cầu não.
Bảng ở dưới đây sẽ làm rõ hơn các chức năng của hai bán cầu não khác nhau
như thế nào?
7
Bảng1.1: Sự khác biệt của các chức năng của bán cầu não trái và phải.
Não trái Não phải
- Não trái là trung tâm điều khiển các
chức năng trí tuệ như ghi nhớ, ngôn ngữ,
lý luận, tính toán, sắp xếp, phân loại,
viết, phân tích và tư duy quy nạp.
- Não phải là trung tâm kiểm soát các
chức năng như trực giác, ngoại cảm,
thái độ, xúc cảm, liên hệ về thị giác và
không gian, cảm nhận âm nhạc, nhịp

điệu, vũ điệu, các hoạt động phối hợp
thể lực, các quá trình tư duy tổng hợp
và tư duy suy diễn.
- Các chức năng não trái có đặc điểm là
tuần tự, hệ thống.
- Các chức năng não phải có đặc điểm
ngẫu hứng, tản mạn.
- Não trái có thể ghép các mảnh rời
thành tổng thể (từ chi tiết đến tổng thể,
tuần tự theo quy trình: cứ làm rồi sẽ
biết).
- Não phải nhìn thấy cái tổng thể trước
(nắm lấy cái tổng thể (bằng trực giác,
linh cảm): nhận ra kết quả cuối cùng
rồi mới làm, sau đó mới mổ xẻ thành
chi tiết).
- Tư duy não trái là tố chất phát triển trí
thông minh.
- Tư duy não phải là tố chất của óc
sáng tạo.
- Định hướng bằng quy trình. - Định hướng bằng hình ảnh, biểu đồ
- Đặt và trả lời các câu hỏi tuần tự. - Câu hỏi đủ loại, ngẫu hứng.
1.1.2. Cơ chế phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh
Để tất cả học sinh, dù là thuận não trái hay phải, dù có phong cách học khác
nhau đều có cơ hội tham gia tích cực vào hoạt động học, đều có cơ hội phát triển
toàn diện thì quá trình học tập đều phải trải qua ba giai đoạn:
1. Nhập dữ liệu: Nghe, nhìn, đọc.
2. Xử lí: Qua bộ não.
* Xử lí phân tích.
* Xử lí tổng hợp.

* Xử lí khái quát hóa.
8
3. Xuất dữ liệu: Nói, viết, các hoạt động ngoài ngôn ngữ (các hoạt động này
làm tăng khả năng lưu giữ thông tin từ 20% lên 90%).
Dạy học trải qua 3 giai đoạn là dạy học quan tâm đến sự phát triển đồng đều
các chức năng của cả hai bán cầu não, nghĩa là quan tâm đến sự phát triển toàn diện
nhân cách của tất cả học sinh: những học sinh có tư duy não trái trội hơn khi tham
gia vào giai đoạn thứ ba sẽ học tập được phong cách tư duy não phải, ngược lại học
sinh có não phải phát triển trội hơn khi tham gia vào các giai đoạn một và hai sẽ rèn
luyện được tư duy logic Các phương pháp dạy học tích cực ngày nay luôn cố gắng
tạo điều kiện cho học sinh trải qua cả ba giai đoạn học tập và đặc biệt chú ý đến giai
đoạn ba.
Các phương pháp dạy học tích cực đều quan niệm rằng: học sinh chỉ thực sự
tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập khi vấn đề học tập cần giải quyết
có mối liên hệ thực sự với đời sống đích thực mà họ đang sống và chỉ có những vấn
đề như thế mới thưc sự làm họ hứng thú tham gia giải quyết và cố gắng phát huy hết
khả năng của mình để giải quyết. Chính vì vậy mặc dù kiến thức vật lí phổ thông đa
phần là kiến thức cổ điển cũng cần phải làm thế nào để đặt chúng vào các vấn đề
của thực tiễn đích thực ngày hôm nay, có như vậy mới hy vọng phát huy được tính
tích cực của học sinh.
1.1.3. Tính tích cực và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập
1.1.3.1. Tính tích cực trong học tập
a) Khái niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập
Tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Theo Kharlarmop “Tích cực trong học tập có nghĩa là hoàn thành một cách chủ
động, tự giác, có nghị lực, có định hướng rõ rệt, có sáng kiến và đầy hào hứng,
những hành động trí óc và chân tay nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, vận
dụng chúng vào học tập và thực tiễn” [11]. Như vậy tích cực là một đức tính quý
báu rất cần thiết cho mọi quá trình nhận thức, là nhân tố rất quan trọng tạo nên hiệu

quả học tập.
9
b) Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập
Tính tích cực học tập ở học sinh biểu hiện ở những dấu hiệu như:
* Biểu hiện bên ngoài, qua thái độ, hành vi và hứng thú:
+ Học sinh chú ý lắng nghe, quan sát, theo dõi thầy cô giáo.
+ Học sinh khao khát tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập.
+ Học sinh tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời
của bạn, phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, nêu thắc mắc, đòi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ.
+ Học sinh sẵn sàng, hồ hởi đón nhận các nhiệm vụ, tự giác thực hiện các
nhiệm vụ, cố gắng hoàn thành công việc bằng mọi cách, hoàn thành công việc sớm
hơn kế hoạch, xin nhận thêm nhiệm vụ để thực hiện.
+ Học sinh thường xuyên tranh luận, trao đổi với bạn bè về các vấn đề học
tập, không nản chí khi gặp khó khăn.
*Biểu hiện bên trong: những biểu hiện này khó phát hiện hơn, như có tư duy
chuyển biến, có những sáng tạo trong học tập hơn trước, tập trung chú ý vào vấn đề
đang học.
*Biểu hiện qua kết quả học tập: học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến
thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản lòng trước những tình huống khó khăn và đạt kết quả học tập tốt hơn.
c) Các cấp độ của tính tích cực trong học tập
Khi nói về tính tích cực người ta thường đánh giá nó ở cấp độ cá nhân người
học trong quá trình thực hiện mục đích hoạt động chung. Tính tích cực được chia
làm ba cấp độ:
+ Tính tích cực bắt chước, tái hiện (xuất hiện do tác động bên ngoài): học
sinh bắt chước hành động của giáo viên, của bạn bè.
+ Tính tích cực tìm tòi (đi liền với quá trình hình thành khái niệm, giải quyết
tình huống nhận thức): học sinh tìm cách độc lập giải quyết vấn đề đã nêu ra, tìm ra
cách giải quyết hợp lí nhất.

10
+ Tích cực sáng tạo (thể hiện khi chủ thể tìm tòi kiến thức mới): học sinh
nghĩ ra cách thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm và các phương án thí nghiệm mới.
d) Những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh
+ Sự gần gũi với thực tế: Xây dựng tình huống có vấn đề, tạo mâu thuẫn
nhận thức, tạo động cơ, hứng thú tìm cái mới để kích thích hứng thú và tính tích cực
học tập của học sinh với những nội dung có tính thực tiễn, gần gũi với cuộc sống
hàng ngày của các em, gắn với thực tế hoặc những vấn đề có tính mới mẻ nhưng
không quá xa lạ với các em.
+ Sự phù hợp với mức độ phát triển: Cần có sự lựa chọn kĩ các vấn đề vừa
sức và xác định mức độ mà học sinh có thể tham gia trong việc giải quyết từng vấn
đề cụ thể. Cần tính đến sự khác biệt về trình độ phát triển của từng đối tượng học
sinh. Các yêu cầu đưa ra phải rõ ràng, tránh mơ hồ, đa nghĩa.
+ Không khí và các mối quan hệ trong nhóm: Kích thích hứng thú học tập cho
các em bằng những phương pháp dạy học tích cực, tạo ra một môi trường học tập thoải
mái, tạo điều kiện để các em phải làm việc, động viên và giúp đỡ lớp học sao cho các
học sinh mạnh dạn tham gia thảo luận, đưa học sinh vào thế học tập chủ động.
+ Mức độ và sự đa dạng của hoạt động: Kết hợp xen kẽ nhiều hình thức tổ
chức dạy học như làm việc cá nhân, hoạt động nhóm, tập thể, lớp. Đảm bảo hỗ trợ
đúng mức (các học sinh trong nhóm hỗ trợ nhau và hỗ trợ từ phía giáo viên).
+ Phạm vi tự do sáng tạo: học sinh được lựa chọn hoạt động, đánh giá
hoạt động, quyết định quá trình thực hiện. Giáo viên động viên, khuyến khích các
em tự mình giải quyết vấn đề.
1.1.3.2. Năng lực sáng tạo trong học tập
a) Khái niệm năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh
thần, tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu
biết đã có vào hoàn cảnh mới. Sản phẩm của sự sáng tạo không thể suy ra từ cái đã
biết bằng cách suy luận logic hay bắt chước, làm theo.
b) Các biểu hiện của năng lực sáng tạo của học sinh

11
Trong học tập, năng lực sáng tạo của học sinh được biểu hiện qua các hành
động cụ thể như:
+ Học sinh đề xuất được các giả thuyết và vận dụng linh hoạt kiến thức vào
thực tế để giải thích các hiện tượng Vật lí.
+ Học sinh đưa ra được các phương án thiết kế thí nghiệm để kiểm tra giả
thuyết. Có những sáng kiến trong quá trình làm thí nghiệm để thí nghiệm dễ quan
sát, dễ thực hiện, cho kết quả chính xác.
+Học sinh biết đưa ra giả thuyết mới khi mà giả thuyết trước đó không đúng
biết lựa chọn các phương án thí nghiệm để kiểm tra.
* Các phương pháp dạy học tích cực đều hướng tới việc bồi dưỡng tính tích cực và
tư duy sáng tạo của học sinh trong đó có phương pháp LAMAP.
1.2. Dạy học theo phương pháp LAMAP
1.2.1. "LAMAP" là gì?
"LAMAP" (là viết tắt của cụm từ tiếng Pháp: La main à la pâte) là phương
pháp dạy học tích cực dựa trên cơ sở của sự tìm tòi nghiên cứu. Phương pháp này được
khởi xướng bởi Giáo sư George Charpak (người đoạt giải Nobel Vật lí năm 1992).
LAMAP là phương pháp hình thành kiến thức cho học sinh thông qua thí nghiệm, dưới
sự giúp đỡ của giáo viên chính các em tìm ra câu trả lời cho vấn đề được đặt ra thông
qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra
1.2.2. Cơ sở của việc tổ chức dạy học theo phương pháp LAMAP
Cơ sở lí luận chính của dạy học theo phương pháp LAMAP là sự kết hợp
những mặt mạnh của ba thuyết: Hành vi, Nhận thức và Kiến tạo.
1.2.2.1. Thuyết hành vi
Thuyết hành vi cho rằng học tập là học tập là một quá trình đơn giản mà
trong đó những mối liên hệ phức tạp sẽ được làm cho dễ hiểu và rõ ràng thông qua
các bước học tập nhỏ được sắp xếp một cách hợp lí. Thông qua các những kích
thích về nội dung, phương pháp dạy học, người học có phản ứng tạo ra những
hành vi học tập và qua đó thay đổi hành vi của mình. Vì vậy quá trình học tập
được hiểu là quá trình thay đổi hành vi.

12
Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết hành vi:
Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trưng có thể quan sát được.
Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các bước học tập đơn
giản, trong đó bao gồm các hành vi cụ thể. Những hành vi phức tạp được xây dựng
thông qua sự kết hợp các bước học tập đơn giản.
Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn của người học, tức là sẽ
sắp xếp dạy học sao cho người học đạt được hành vi mong muốn mà sẽ được đáp lại
trực tiếp (khen thưởng và công nhận).
Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm
soát tiến bộ học tập và điều chỉnh ngay lập tức những sai lầm.
Vậy hành vi thể hiện ra bên ngoài rất quan trọng ví dụ học sinh phát biếu
được giả thuyết, vẽ được đồ thị hay vận dụng những kiến thức đã học để giải bài
toán
1.2.2.2. Thuyết nhận thức
Trung tâm của các lý thuyết nhận thức là các hoạt động trí tuệ: xác định,
phân tích và hệ thống hóa các sự kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến thức đã
học, giải quyết các vấn đề và phát triển, hình thành các ý tưởng mới.
Mỗi người có cấu trúc nhận thức riêng. Vì vậy muốn có sự thay đổi đối với
một người thì cần có tác động phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của người đó.
Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết nhận thức.
Không chỉ kết quả học tập (sản phẩm) mà quá trình học tập và quá trình
tư duy cũng là điều quan trọng.
Nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập thuận lợi, thường
xuyên khuyến khích các quá trình tư duy.
Các quá trình tư duy không thực hiện thông qua các vấn đề nhỏ, đưa ra một
cách tuyến tính, mà thông qua việc đưa ra các nội dung học tập phức hợp.
Các phương pháp học tập có vai trò quan quan trọng.
Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, giúp tăng cường
những khả năng về mặt xã hội.

13
Cần có sự cân bằng giữa những nội dung do giáo viên truyền đạt và
những nhiệm vụ tự lực.
Vậy thuyết nhận thức coi trọng quá trình nhận thức dẫn đến cấu trúc kiến
thức một cách hệ thống, kiến thức phải có ý nghĩa đối với người học và vận hành
được để giải quyết vấn đề thực tiễn.
1.2.2.3. Thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo có thể được coi là bước phát triển tiếp theo của thuyết nhận
thức. Tư tưởng nền tảng cơ bản của thuyết kiến tạo là đặt vai trò của chủ thể
nhận thức lên vị trí hàng đầu của quá trình nhận thức. Khi học tập, mỗi người
hình thành thế giới quan riêng của mình. Tất cả những gì mà mỗi người trải nghiệm
thì sẽ được sắp xếp chúng vào trong “bức tranh toàn cảnh về thế giới’’ của riêng
người đó, tức là tự kiến tạo riêng cho mình một bức tranh thế giới.

Hình 1.2:Mô hình học tập theo thuyết kiến tạo.
Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết kiến tạo.
Không có kiến thức khách quan tuyệt đối. Kiến thức là một quá trình và
sản phẩm được kiến tạo theo từng cá nhân (tương tác giữa đối tượng học tập và
người học).
Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, góp phần cho người học tự điều
chỉnh sự học tập của bản thân mình.
14
HỌC SINH
HỌC SINH
HỌC SINH
HỌC SINH
NỘI DUNG HỌC
TẬP
(Phức hợp)
NỘI DUNG HỌC

TẬP
(Phức hợp)
Tương tác
Tương tác
Giáo viên
MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP
Học qua sai lầm là điều rất có ý nghĩa (nhấn mạnh vai trò của quan niệm
ban đầu).
Các lĩnh vực học tập cần định hướng vào hứng thú người học, vì có thể
học hỏi dễ nhất từ những kinh nghiệm mà người ta thấy hứng thú hoặc có tính
thách thức.
Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn ở những khía cạnh nhận thức của việc
dạy và học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý
trí, mà cả về mặt tình cảm, giao tiếp.
Mục đích học tập là xây dựng kiến thức cho bản thân, nên khi đánh giá
các kết quả học tập không chỉ đánh giá sản phẩm học tập, mà cần quan tâm cả
đến những tiến bộ trong quá trình học tập và trong những tình huống học tập
phức tạp. Nói cách khác kết hợp giữa đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết.
1.1.2.4. Kết luận về các lí thuyết học tập
Mỗi lí thuyết có những ưu điểm và những giới hạn riêng. Tuy nhiên khi biết
kết hợp những mạnh của chúng lại thì sẽ được một mô hình mới hoàn thiện hơn.
Phương pháp LAMAP kết hợp các ưu điểm của các thuyết nói trên nhấn
mạnh đến:
+ Quá trình học tập là quá trình thay đổi hành vi. (Thuyết hành vi)
+ Học qua sai lầm là điều rất có ý nghĩa. (Thuyết kiến tạo)
+ Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, nhằm tăng
cường những khả năng về mặt nhận thức và xã hội. (Thuyết nhận thức)
+ Mục đích học tập là xây dựng kiến thức cho bản thân, nên khi đánh giá
các kết quả học tập không chỉ định hướng theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm
tra những tiến bộ trong quá trình học tập và trong những tình huống học tập phức

tạp. (Thuyết kiến tạo)
1.2.3. Các đặc điểm của dạy học theo phương pháp LAMAP
Dạy học theo phương pháp LAMAP tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Quan sát sự vật hiện tượng của thế giới thực tại gần gũi với học sinh và dễ
cảm nhận, học sinh thực hành thao tác trên các sự vật đó.
15
+ Học sinh lập luận bảo vệ ý kiến đưa ra thảo luận tập thể những suy nghĩ và
những kết luận.
+ Tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập tự lực.
+ Học sinh phải có vở thực hành.
+ Việc chiếm lĩnh dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật, đi kèm theo là sự
phát triển ngôn ngữ viết và nói.
Từ các nguyên tắc cơ bản đó có thể nhận thấy những đặc điểm chủ yếu của
phương pháp LAMAP như sau:
+ Phương pháp LAMAP nhấn mạnh đến việc tạo ra một môi trường học tập
mà trong đó vai trò tự chủ của học sinh được thể hiện rất rõ nét từ: đề xuất các dự
đoán, các ý tưởng thực nghiệm, lựa chọn các thiết bị đến việc tiến hành các thí
nghiệm. Các em vừa phải thể hiện khả năng làm việc độc lập của mình vừa thể hiện
khả năng làm việc theo nhóm. Để cho hoạt động nhóm có hiệu quả thì trước khi
hoạt động nhóm mỗi cá nhân phải tích cực làm việc, từng cá nhân phải có chính
kiến của mình. Khi thảo luận phải biết bảo vệ ý kiến của mình nhưng đồng thời biết
lắng nghe người khác.
+ Học theo phương pháp LAMAP giúp nuôi dưỡng các ý tưởng khoa học của
người học. Khi thực hiện việc học tập làm cho học sinh có nhu cầu và khao khát
muốn bộc lộ ý tưởng, khao khát muốn kiểm tra tính đúng đắn của chúng bằng thực
nghiệm. Học sinh biết xem xét vấn đề cần giải quyết dưới nhiều góc độ khác nhau,
qua đó rèn luyện được năng lực giải quyết vấn đề khoa học và làm quen với tiến
trình nghiên cứu khoa học một vấn đề thực tiễn.
+ Học theo phương pháp LAMAP giúp cho học sinh tìm hiểu sâu rộng về
nội dung kiến thức cần học, học sinh biết nhiều hơn nội dung học sau khi giải quyết

vấn đề. Trong quá trình nghiên cứu giải quyết vấn đề học sinh phải tìm hiểu tất cả
các kiến thức có liên quan, vận dụng các kĩ năng khai thác và xử lí thông tin, phân
tích, tổng hợp, đánh giá
+ Học theo phương pháp LAMAP giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ, phát
triển ngôn ngữ khoa học cũng như các kĩ năng phản hồi, năng lực ứng xử xã hội.
16
Muốn người khác hiểu mình thì các em phải trình bày ý kiến, phải linh hoạt vận
dụng ngôn ngữ trong những tình huống khác nhau. Khi thì phải chấp nhận ý kiến
của người khác khi thì lại phải biết bảo vệ ý kiến của mình. Tuy nhiên đây không
thuần túy là ngôn ngữ trong cuộc sống mà là ngôn ngữ khoa học.
+ Học theo phương pháp LAMAP học sinh thực sự tự xây dựng kiến thức.
Bởi vì học sinh là người đưa ra những giả thuyết, thực hiện thí nghiệm để kiểm tra
giả thuyết nếu giả thuyết đó đúng dẫn đến cấu trúc kiến thức mới, nếu giả thuyết sai
lại tiếp tục đưa ra giả thuyết mới.
1.2.4. Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học theo phương pháp
LAMAP
1.2.4.1. Vai trò của giáo viên
Khác với phương pháp dạy học truyền thống giáo viên như một chuyên gia,
với phương pháp LAMAP giáo viên đóng vai trò như như người hướng dẫn, người
đồng hành, trợ giúp hoạt động nhóm và tạo điều kiện cho học sinh tiến hành các
hoạt động- các hoạt động này thường gắn kết với một hoạt động nghiên cứu thực
thụ mà ở đó người học cần phải:
- Hiểu được vấn đề.
- Đưa ra các giả thuyết (các câu trả lời dự kiến và đối chứng với các câu hỏi
đã được đặt ra trong tình huống).
- Tiến hành các hoạt động thích hợp nhằm kiểm tra các giả thuyết của mình
(nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu liên quan, sau cùng là tổng hợp việc nghiên cứu).
+ Giáo viên là người lựa chọn những vấn đề sao cho có tác dụng kích thích
các hoạt động nhận thức cũng như các hoạt động xã hội của người học.
+ Giáo viên coi trọng và hướng dẫn tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh.

+ Giáo viên hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh dần dần những khái niệm và
tiến trình khoa học phù hợp với chương trình học ở nhà trường.
+ Giáo viên giúp cho học sinh diễn đạt đúng đắn và chính xác nhất những ý
tưởng của mình. Để làm được như vậy, bước đầu giáo viên chấp nhận ngôn ngữ của
học sinh nếu như chỉ gần đúng để khỏi hạn chế ý tưởng của học sinh, song cần hướng
cho học sinh có ngôn từ chính xác. Đó cũng là mục tiêu của phát triển ngôn ngữ.
17
+ Giáo viên cố gắng làm phong phú các vấn đề nêu ra của học sinh và
khuyến khích chúng thắc mắc.
+ Giáo viên cổ vũ khích lệ học sinh nêu vấn đề và đưa ra những ý kiến bình luận.
+ Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh được tự chủ.
1.2.4.2. Vai trò của học sinh
Học sinh là trung tâm của quá trình dạy học, họ tự quyết định một phần hay
toàn bộ chiến lược học tập, tự nghiên cứu, hoạt động theo cách thức làm việc độc lập
sau đó tranh luận và trao đổi với nhau để tìm ra giải pháp, chiến lược giải quyết vấn đề.
+ Trong một số trường hợp có khi học sinh đưa ra tình huống vấn đề.
+ Học sinh là người thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau rồi tổng hợp,
phân tích rồi tích lũy kiến thức từ quá trình làm việc.
+ Học sinh quyết định cách tiếp cận vấn đề và các hoạt động cần phải tiến
hành để giải quyết vấn đề.
+ Học sinh đưa ra giả thuyết, tiến hành thực nghiệm để kiểm tra giả thuyết
nếu giả thuyết sai thì bác bỏ và đưa ra giả thuyết mới, quá trình này có khi phải lặp
lại nhiều lần.
+ Học sinh trao đổi và lập luận trong quá trình hoạt động, chúng chia sẻ với
nhau những ý tưởng của mình, cọ sát với những quan điểm của nhau và hình thành
những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng, bằng ghi chép hoặc bằng phát biểu. Như
vậy chúng sẽ biết nghe người khác, hiểu người khác, tôn trọng người khác và biết
bảo vệ ý kiến của mình.
1.2.5. Vai trò của vở thực hành
Vở thực hành là một công cụ quan trọng của phương pháp LAMAP. Nó là

nơi ghi dấu ấn của quá trình suy nghĩ của học sinh:
+ Đó là những ghi chép thể hiện điều đang suy nghĩ.
+ Những giả thuyết đã được học sinh đưa ra và lại bị chính các em bác bỏ.
+ Những kiến thức mà các em vẫn tưởng là đúng và đã tồn tại lâu trong suy
nghĩ của các em nhưng rồi qua trải nghiệm thì nó không đúng.
+ Những áp phích để ghi nhớ công việc đã thực hiện.
* Vì sao phải có vở thực hành?
+ Vì cần thiết để học sinh sử dụng vốn từ mà các em có để diễn đạt ý tưởng, tập
ghi chép dựa trên những gì học sinh hiểu và học sinh thực hiện trong quá trình học.
18
Tuy là một cuốn vở cá nhân nhưng nó lại giúp học sinh đối chiếu những gì mình ghi
chép với ý kiến của học sinh khác khi thảo luận và với ý kiến chung của tập thể.
+ Thông qua việc ghi chép cá nhân học sinh có thể lưu giữ những việc đã
làm từ đó giúp học sinh so sánh những quan điểm cá nhân với các học sinh khác
trong nhóm, hình thành cho học sinh khả năng phân tích, bình luận.
+ Việc ghi chép còn minh chứng cho sự phát triển trong nhận thức của học
sinh bằng cách xem lại những phần đã viết trong vở cá nhân học sinh nhận thấy sự
tiến bộ dần dần.
Vở thực hành được học sinh lưu giữ trong suốt thời gian học và đến cuối cấp
học sẽ hình thành một tập ghi nhớ đặc biệt. Nhìn vào quyển vở thực hành sẽ thấy
được sự tiến bộ của học sinh sự tiến bộ này không chỉ về mặt kiến thức mà còn là
các kĩ năng.
1.2.6. Vai trò của ngôn ngữ trong dạy học theo phương pháp LAMAP
Mặc dù phương pháp LAMAP là một phương pháp dạy học dựa trên thí
nghiệm tìm tòi nghiên cứu nhưng ngoài việc tiến hành thí nghiệm khám phá kiến
thức học sinh còn được chú ý rèn luyện ngôn ngữ nói và viết.
* Về ngôn ngữ nói:
Giao tiếp bằng lời không thể tách rời với các hoạt động tìm tòi nghiên cứu và
có mặt ở mọi thời điểm sao cho học sinh có thể:
+ Diễn đạt các ý kiến của mình, đặt câu hỏi: khi học sinh muốn trình bày một

vấn đề thì các em phải tìm kiếm từ ngữ giúp cho việc trình bày tốt nhất những quan
điểm, những suy nghĩ của mình để cho người khác hiểu.
+ Trao đổi thông tin với nhau: khi học sinh làm việc nhóm hoặc làm việc
chung cả lớp, các em phải trình bày quan điểm của mình trước nhóm hoặc trước
lớp. Qua đó các em sẽ nhận được thông tin phản hồi từ các bạn, quá trình trao đổi
thông tin qua lại sẽ giúp các em mạnh dạn hơn và tự tin hơn.
+ Tranh luận, bảo vệ ý kiến của mình: sự tranh luận khoa học giúp các em
học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận trên
cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung trong một khổ nhất định.
Ngoài ra phương pháp LAMAP khuyến khích trao đổi bằng ngôn ngữ nói về
những quan sát, những giả thuyết, thí nghiệm và những giải thích.
*Về ngôn ngữ viết:
19
Vì sao phải viết?
20
Viết cho bản thân
mình nhằm:
Hành động
- Chỉ rõ một thiết bị.
- Dự đoán một kết quả, sự lựa
chọn một thiết bị thí nghiệm.
- Lập kế hoạch nghiên cứu.
Ghi nhớ
- Lưu lại những điều đã quan sát
được, những nghiên cứu, những
điều đọc được.
- Nhớ lại một hành động trước
đó.
- Ghi lại các kết quả.
Hiểu

- Tổ chức lại, lựa chọn, cấu trúc.
- Tìm mối quan hệ giữa các bài
viết.
- Trình bày lại các bài viết từ các
kết luận tập thể.
Viết cho những
người khác nhằm:
Truyền đạt
Điều mà học sinh đã hiểu,
một kết luận, một bản tổng
hợp.
Giải thích
Đặt câu hỏi
Cho học sinh khác, cho
giáo viên.
- Điều đã làm.
- Điều đã hiểu.
- Những đề xuất.
Tổng hợp
Tổ chức theo thứ tự, thiết
lập các mối quan hệ.
Tác dụng của các bài viết:
* Cá nhân:
+ Ghi lại điều mà học sinh nghĩ.
+ Nói về việc học sinh đã làm.
+ Giải thích các kết quả.
+ Phát biểu lại các kết luận tập thể.
* Nhóm nhỏ:
+ Trao đổi với nhóm khác, với toàn lớp.
+ Đặt câu hỏi về một thiết bị.

+ Thực hiện một tiến trình nào đó trong một thời gian ngắn.
* Cả lớp:
+ Tổ chức lại.
+ Đề xuất các nghiên cứu.
+ Tổng hợp kiến thức.
Mặt khác việc ghi chép không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng biểu đồ, hình
vẽ kí hiệu Qua đó ngôn ngữ viết dần được hoàn thiện hơn.
* Vậy dạy học theo phương pháp LAMAP giúp cho học sinh có thể làm chủ được
ngôn ngữ.
1.2.7. Tiến trình dạy học theo phương pháp LAMAP
Dựa trên các nguyên tắc của phương pháp LAMAP nhấn mạnh đến tính độc
lập, tự chủ trong học tập của học sinh và cách thức làm việc tập thể của họ, dựa trên
đặc điểm của các môn khoa học, chúng tôi đề xuất một tiến trình dạy học gồm 5 pha
được sơ đồ hóa như dưới đây [18]:
21
Hình 1.3: Sơ đồ tiến trình dạy học theo LAMAP.
Nhìn về hình thức thì sơ đồ trên rất giống với sơ đồ của phương pháp dạy
học giải quyết đề. Sự khác biệt nằm ở nội dung cụ thể của các pha.
+ Thứ nhất "Vấn đề" của dạy học theo phương pháp LAMAP không chỉ đơn
thuần là những vấn đề từ chương trình học như dạy học giải quyết vấn đề thường áp
dụng mà là những vấn đề có trong thế giới thực và liên hệ với cuộc sống thực.
Những vấn đề như vậy thực sự thu hút học sinh và nó không đòi hỏi ở học sinh một
câu trả lời đúng hay sai mà quan trọng là việc các em phải đưa ra giải pháp để giải
quyết vấn đề đó.
+ Tiếp nữa về việc lĩnh hội kiến thức: Học sinh lĩnh hội được nó thông qua
giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống của họ chứ không phải chỉ quyết
vấn đề sau khi đã lĩnh hội nội dung.
22
+ Điểm khác biệt nữa của dạy học theo phương pháp LAMAP với dạy học
giải quyết vấn đề ở chỗ: dạy học theo phương pháp LAMAP xoay quanh các kĩ

năng chứ không chỉ bản thân kiến thức. Phương pháp LAMAP nhấn mạnh đến việc
đánh giá quá trình, đó là khả năng làm việc độc lập, khả năng hợp tác, những kĩ
năng, thao tác sự cải tiến và cả sự bác bỏ chính mình.
Chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn nội dung của các pha.
Pha 1. Xây dựng tình huống vấn đề
Các tình huống vấn đề được lựa chọn bởi giáo viên hoặc học sinh. Những
vấn đề không chỉ thuần túy từ chương trình học mà chúng thường được đặt ra từ
những thử thách trong thế giới thực và chúng có liên hệ với cuộc sống thực. Vì thế
chúng liên hệ với học sinh, chúng thu hút học sinh vì chúng không "kịch bản".
Chính điều này kích thích học sinh làm cho học sinh tiếp nhận vấn đề một cách tự
nhiên và bắt tay vào giải quyết.
Pha 2: Đề xuất các giả thuyết
“Đặc điểm chủ yếu của khoa học là tính khách quan; cái cốt lõi của nó là sự
suy luận, thường được xây dựng từ trực giác hay giả thuyết: sự chứng minh nó cần
dựa trên kiểm tra bằng thí nghiệm”[7]. Ở giai đoạn này, trước hết học sinh làm việc
cá nhân, làm việc nhóm, sau đó làm việc chung cả lớp để trao đổi, tranh luận về
những giả thuyết của mình và của bạn cùng nhau nhằm tìm kiếm câu trả lời cho vấn
đề cần giải quyết.
Như vậy, trong pha này, khuyến khích học sinh suy nghĩ, phát vấn, giáo viên
cần chú ý tới những kinh nghiệm sẵn có của học sinh, trong đó có thể tiềm ẩn
những mâu thuẫn với giả thuyết và khuyến khích học sinh thể hiện. Việc trao đổi,
tranh luận đi đến những thách thức các dự đoán, giả thuyết của học sinh.
Ở pha này học sinh có thể tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, đây
cũng là điểm khác biệt của các phương pháp dạy học tích cực so với phương pháp
truyền thống.
23
Pha 3: Thực hiện các nghiên cứu để giải quyết vấn đề
Học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm, tiến hành các thực nghiệm để
kiểm chứng tính đúng đắn của các giả thuyết.Từ việc phân tích các dữ liệu thực
nghiệm, học sinh kiểm chứng được những giả thuyết của mình là đúng hay sai và

tìm cách lí giải.
Như vậy, không chỉ quan sát và thao tác, điều quan trọng là suy nghĩ về
những kết quả có được từ quan sát và đối chiếu giữa cái có được từ suy luận và cái
có được từ thực nghiệm.
Nếu ở pha này kết quả không đúng thì học sinh lại đưa ra giả thuyết mới và
lại thực hiện nghiên cứu để giải quyết vấn đề. Pha 2 và pha 3 liên tục luân chuyển
nhau.
Pha 4: Lập luận, trao đổi xung quanh các kết quả nghiên cứu đã thu được
Theo phương pháp LAMAP, “Chuẩn bị cho trẻ vào cuộc sống dân chủ, tức là
cho trẻ cái ham thích tham gia tranh luận, dạy cho các em cách phát biểu ý kiến của
mình, đối chiếu với quan điểm của người khác” [7]. Trong pha này, học sinh làm
việc chung cả lớp, trao đổi ý kiến đi đến kết quả chung dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Chính quá trình này giúp cho học sinh tiếp thu được kiến thức một cách tự
nhiên. Qua quá trình trao đổi còn giúp cho học sinh rèn luyện ngôn ngữ nói, các kĩ
năng giao tiếp, khả năng ứng xử.
Pha 5: Tổng hợp kết quả
Học sinh tiếp nhận kiến thức mới và nhập nó vào hệ thống kiến thức đã có.
Việc vận hành kiến thức thu được giúp cho người học làm chủ kiến thức và kĩ năng
mới, nhưng qua đó lại có thể nảy sinh vấn đề mới, bắt đầu cho tiến trình nghiên cứu
mới.
Tóm lại dạy học theo phương pháp LAMAP người học luôn được đặt vào
những tình huống rất thật trong đời sống khiến cho họ luôn khao khát tìm hiểu và
giải quyết. Và như vậy sự tiếp nhận kiến thức cũng diễn ra hết sức tự nhiên. Bên
cạnh mục tiêu về kiến thức thì mục tiêu về rèn luyện kĩ năng khác cũng đồng thời
được tiếp nhận.
1.2.8. Khả năng vận dụng phương pháp LAMAP ở trường phổ thông
24
* Dạy học theo phương pháp LAMAP ở trường phổ thông sẽ đạt hiệu quả khi đảm
bảo các điều kiện sau đây:
+ Lựa chọn nội dung bài học phù hợp với phương pháp LAMAP. Các môn

khoa học thực nghiệm: như môn Sinh, môn Hóa, môn Lí đều có thể tổ chức học
theo phương pháp này.
+ Hình thức tổ chức dạy học phù hợp: Có thể vận dụng phương pháp
LAMAP để dạy chính khóa hoặc tổ chức hoạt động ngoại khóa. Khi dạy chính khóa
để vẫn đảm bảo dạy và học theo phân phối chương trình, giáo viên căn cứ vào nội
dung kiến thức cần xây dựng, từ đó có thể thiết kế tiến trình dạy học theo phương
pháp LAMAP cho nội dung cả bài hoặc có thể chỉ một đơn vị kiến thức trọng tâm
nào đó của bài. Với hoạt động ngoại khóa thì không bị hạn chế về thời gian.
+ Điều kiện dạy học:
- Giáo viên: Giáo viên nhiệt tình, tích cực, có năng lực về chuyên môn, năng lực
tổ chức dạy học tích cực và khả năng tổ chức dạy học theo phương pháp LAMAP.
- Học sinh: Say mê học tập, chịu khó, sáng tạo có khả năng làm việc độc lập
và không nản chí khi gặp thất bại.
1.2.9. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng phương pháp LAMAP
* Thuận lợi.
- Việc học tập có thể diễn ra cả ở trong và ngoài không gian lớp học.
- Không hạn chế về mặt thời gian.
- Gia đình và địa phương cũng có thể giúp các hoạt động của lớp theo khả
năng của mình.
- Đồ dùng thí nghiệm để thực hiện việc dạy- học đơn giản, có thể tự chế tạo được.
* Khó khăn:
- Cần nhiều thời gian trong khi phân phối chương trình của môn học rất khắt khe.
- Giáo viên phải biết lựa chọn vấn đề sao cho gần gũi với cuộc sống thực.
- Cần có sự thay đổi trong cách đánh giá người học (cần sự đánh giá trong
cả quá trình học và nên thay đổi theo hướng kiểm tra kĩ năng, kiểm tra năng lực
nhận thức hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức).
25

×