MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin mà ở đó khối
lượng tri thức của loài người tăng lên với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Người
ta tính được sau 10 năm thì lượng tri thức tăng lên gấp đôi. Đứng trước thực
tế này, GD nhà trường đã có những thay đổi căn bản: từ quan niệm học tập
chỉ trong một thời gian nhất định bằng quan niệm: “học thường xuyên, học
liên tục, học suốt đời”. Để có thể học tập suốt đời đạt hiệu quả, đương nhiên
mỗi người phải lựa chọn cho mình một cách phù hợp nhất, lấy tự học làm nền
tảng.
Việt nam đang bước vào giai đoạn CNH – HĐH với mục tiêu đến năm
2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc CNH – HĐH là con người là nguồn lực người Việt Nam được phát triển
về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm
được điều này giáo dục Việt Nam đang phải đứng trước một bài toán: phải đổi
mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp và phương
tiện dạy học. Về PPDH, nghị quyết TW2 khóa WIII (12/1996) đã chỉ rõ:
“phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD – ĐT, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học
(QTDH), đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết
vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, …”
Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong quá trình dạy học các môn học ở nhà
trường, bên cạnh việc đổi mới nội dung, vận dụng các phương pháp dạy học
mới cần bồi dưỡng cho sinh viên kỹ năng tự học, tự nghiên cứu góp phần
nâng cao chất lượng dạy học. Bởi tự học là con đường phát triển nội lực của
mỗi cá nhân, là động lực chính của quá trình giáo dục và đào tạo.
Ở nhà trường sư phạm, Giáo dục học là môn khoa học (cũng là môn
nghiệp vụ) quan trọng giúp sinh viên rèn luyện nghiệp vụ của người giáo
viên, những kỹ năng sư phạm, hình thành ý thức đạo đức và tình cảm nghề
nghiệp. song việc giảng dạy môn giáo dục học trong nhà trường sư phạm còn
nhiều bất cập như nặng về lý thuyết nhẹ thực hành, nặng kiến thức nhẹ về kỹ
năng. Do vậy, cần phải đổi mới phương pháp dạy học để sinh viên không
những nắm chắc kiến thức mà còn vận dụng vào trong quá trình học tập và
công tác sau này.
Thực tế việc tự học môn Giáo dục học của sinh viên người dân tộc hiện
nay ở trường CĐSP Gia Lai là, sinh viên chưa chủ động trong học tập, ít đọc
sách, chưa chịu khó tìm tòi, chưa quan tâm đến việc vận dụng kiến thức hình
thành kỹ năng nói chung là các em chưa thấy được ý nghĩa, vai trò của môn
giáo dục học đối với thực tiễn nghề nghiệp sau này. Đây là tình trạng phổ biến
không chỉ đối với sinh viên người dân tộc, lý do là họ chưa có kỹ năng tự học,
phương pháp tự học ở bậc học chuyên nghiệp. Vì vậy, kết quả đạt được là rất
thấp.
Đây là điều rất được quan tâm của tổ bộ môn tâm lý giáo dục trường
CĐSP Gia Lai hơn nữa chưa có tác giả nào nghiên cứu hoạt động tự học trên
đối tượng là sinh viên người dân tộc, vì vậy tôi nhận thấy đây vẫn là vấn đề
cấp thiết nên mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu là: “Biện pháp nâng cao chất
lượng tự học môn giáo dục học cho sinh viên người dân tộc trường CĐSP
Gia lai” với mong muốn là tìm ra biện pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất
lượng tự học của sinh viên người dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động tự học môn GDH
của sinh viên người dân tộc trường CĐSP Gia Lai, tôi đưa ra biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng tự học môn GDH cho sinh viên người dân tộc ở trường
CĐSP Gia Lai.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Hoạt động tự học môn GDH cho sinh viên ở trường CĐSP Gia Lai.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học môn GDH
cho sinh viên người dân tộc trường CĐSP Gia Lai.
4. Giả thuyết khoa học.
Hiện nay chất lượng tự học môn GDH của SV người dân tộc ở trường
CĐSP Gia Lai còn thấp. Nếu trong quá trình dạy học, giảng viên sử dụng một
cách đồng bộ, toàn diện, có hệ thống các biện pháp tổ chức tự học trên lớp
cho sinh viên như lập kế hoạch bài dạy, tổ chức thực hiện bài dạy trên lớp
theo quy trình hợp lý, có kế hoạch và công cụ kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập phù hợp với đối tượng và bồi dưỡng rèn luyện cho sinh viên những kỹ
năng tự học cơ bản (nhất là kỹ năng đọc sách ở nhà) thì chất lượng tự học
môn GDH của SV người dân tộc trường CĐSP Gia Lai sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động tự học của học sinh, sinh viên.
5.2. Nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học môn GDH của snh viên
người dân tộc ở trường CĐSP Gia Lai .
5.3. Đề ra biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học môn GDH cho
sinh viên người dân tộc ở trường CĐSP Gia Lai.
6. Phạm vi nghiên cứu.
Vì điều khách quan cũng như trình độ của bản thân nên đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu hoạt động tự học môn GDH của sinh viên người dân tộc
trường CĐSP Gia Lai.
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Trong đề tài này tôi sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa, hệ thống hóa các nguồn tài liệu để nhằm mục đích xây dựng cơ
sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
Quan sát hoạt động học tập của sinh viên trong mối quan hệ với hoạt
động giảng dạy của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên (khu ký túc
xá) để tìm hiểu hoạt động tự học của sinh viên ( cách đọc sách, cách học, lập
kế hoạch, trao đổi với bạn…)
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
Nghiên cứu kết quả học tập của sinh viên thông qua điểm, vở ghi chép,
bài kiểm tra, vở bài tập ở nhà…
- Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện.
Tiến hành trao đổi, trò chuyện và phỏng vấn để thu thập thông tin phục
vụ cho đề tài.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
Thu thập các ý kiến của các chuyên gia về vấn đề tự học.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp thực nghiên sư phạm (đây là phương pháp chính của đề
tài).
7.3. Phương pháp thống kê toán học.
Sử dụng thống kê toán học để xử lý, thu thập số liệu thu được.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ TỰ HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tự học.
Qua việc tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới về tự học, tôi có nhận xét
như sau: Tự học không phải là mảnh đất mới chưa được “cày xới” mà tự học
là vấn đề được các nhà giáo dục trên thế giới quan tâm đến từ ngàn xưa dưới
nhiều góc độ và mức độ khác nhau: Phát huy tính tích cực, tính độc lập tính tự
giác, tính sáng tạo của người học như các nhà giáo dục nổi tiếng Xôcơrat,
Khổng Tử, Cômenxki, Đixtecvec [22] [31] [30].
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc của Hy Lạp như Xôcrát
(469 – 390 TCN), Arixtốt (384 – 322 TCN) cũng như nhiều nhà giáo dục nổi
tiếng khác ở Phương Đông như Khổng Tử (551 – 479 TCN), Mạnh Tử (372 –
289 TCN), Tuân Tử (289 – 238 TCN) … đã nhận thấy và đánh giá cao vai trò
của tự học , tự tu dưỡng. Trong dạy học các ông đều muốn tìm ra các phương
pháp phù hợp để giúp cho người học tự tìm ra chân lý. Theo Khổng Tử: Thầy
giáo chỉ cho trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác học trò từ đó mà tìm
ra, thầy giáo không được làm thay hết cho học trò. Ông cũng từng nói với học
sinh của mình rằng: “Không giận thì không muốn biết vì không gợi mở cho,
không bực vì không bày vẽ thì không bày vẽ cho, một vật có bốn góc bảo cho
biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa [22; tr 60]
Từ những năm trước công nguyên, Xôcơrat(469 – 390 TCN) đã đưa ra
quan niệm nổi tiếng của mình: giáo dục phải giúp cho con người khẳng định
chính mình. Dựa vào quan điểm đó vào trong dạy học, ông cho rằng cần phải
để cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, giúp cho người học tự thấy cái sai
lầm của mình và tự khắc phục cái sai lầm đó. [22]
Cho đến mãi thế kỷ 17, ông tổ của nền giáo dục Cận đại –
J.A.Cômenxki (1592 – 1670) đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì
không trở thành nhân tài”. Theo ông thì dạy học phải làm thế nào để người
học tự tìm tòi, suy nghĩ từ đó mà nắm lấy bản chất của sự vật hiện tượng. Ông
cũng nghiên cứu về vấn đề quan điểm giáo dục “đánh thức năng lực nhạy
cảm, phán đoán của người học”, tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng
ít hơn, học sinh học tập, làm việc nhiều hơn. Ông đề ra một số nguyên tắc dạy
học mà ngày nay vẫn có nhiều tác dụng nhằm phát huy tính tích cực học tập
của học sinh: Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học; Nguyên tắc
tôn trọng đặc điểm đối tượng; Nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng… [1].
Dựa vào thành tự này của ông mà ngày nay được nhiều nhà giáo dục học xây
dựng thành hệ thống các nguyên tắc dạy học: Đảm bảo tính vững chắc của tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và tình mềm dẻo của tư duy; Đảm bảo tính vừa sức
chung và vừa sức riêng trong dạy học; Đảm bảo tình thống nhất giữa cái cụ
thể và cái trừu tượng trong dạy học…
Các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ) cũng có nhiều công trình nghiên
cứu về tự học như: N.A.RuBaKin (1862 – 1946) trong tác phẩm “ tự học như
thế nào” đã phân tích rõ mối quan hệ giữa “Tự học và đặc tính riêng của từng
người” đồng thời vạch ra các yếu tố giúp người học vượt qua khó khăn trong
quá trình học tập đó là phải có ý chí, có lòng đam mê học tập và đặc biệt là
phải có phương pháp tự học tốt.
Ngoài việc chỉ ra nguyên nhân dẫn đến người học gặp khó khăn trong
việc học tập, nghiên cứu như: thiếu kiên trì, thiếu phương pháp học tập khoa
học và hợp lý…H.M.Hecboc, Smitman đã đề cập tới vấn đề phương pháp học
tập và nghiên cứu trong quá trình tự học trong cuốn “nghiên cứu tự học như
thế nào? Như: tự học như thế nào cho đúng, cần học tập hợp lý theo kế hoạch
và chương trình riêng, phương pháp làm việc với sách…
Trong cuốn “Tổ chức công việc tự học của sinh viên đại học” của
A.A.Goroxepxki và Lubixuna – Trường đại học tổng hợp Lêningrat, các tác
giả cũng tổng kết kinh nghiệm công tác cá nhân của mình trong các trường
đại học và đưa ra một số đề nghị về phương pháp học tập của sinh viên Đại
học, qua việc nhấn mạnh một số cặp kỹ năng: nghe và ghi bài giảng; đọc và
ghi tài liệu; chuẩn bị xêmina; làm bài tập nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp;
chuẩn bị kiểm tra và thi; tổ chức lao động trí óc và kế hoạch làm việc. [26].
Đó là những cách thức tự học mà ngày nay sinh viên trong các trường đại học
vẫn đang thực hiện.
Cuốn sách “Học tập hợp lý” của nước CHDC Đức (cũ) do giáo sư
Réttxke chủ biên đã viết về vấn đề bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu
cho sinh viên đại học mới được tuyển vào hệ tập trung của các trường đại học.
Cuốn sách nhấn nhạnh: “Học tập ở đại học là một quá trình phát triển con
người, quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố …” và “việc hoàn thành có
kết quả những nhiệm vụ học tập đòi hỏi phải đấu tranh với với bản thân và tập
thể một cách có phê phán và đầy sáng tạo trong quá trình học tập”. Cuốn sách
gợi hướng giải quyết cho SV từ các vấn đề mắc mớ trong tâm tư của mình đối
với nhiệm vụ học tập đến những điểm có tính chất quyết định đối với việc
học tập ở đại học trên con đường dẫn đến thành công trong học tập. [26].
Với I.F.Kharamôv [11] [12] nghiên cứu việc tự học dưới góc độ tìm ra
những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh bằng cách:
Tăng cường việc tự nghiên cứu với sách, với tài liệu học tập, dạy học nêu vấn
đề, cải tiến công tác tự lực học tập…vậy là việc phát huy năng lực tự học của
học sinh dưới góc độ làm việc độc lập với sách và tài liệu tham khảo được tác
giả nghiên cứu kỹ càng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Tây Âu và Mỹ đã quan tâm
tới việc tìm ra phương pháp giáo dục mới dựa trên cơ sở tiếp cận “Lấy học
sinh làm trung tâm” mong muốn nhằm phát huy năng lực nội tâm và sáng tạo
của người học. Đại diện cho tư tưởng tiến bộ này là J.Dewey (1859 – 1925)
đã đề xướng “học sinh là mặt trời, xung quanh có quy tụ mọi phương tiện
giáo dục”. Từ đó mà một loạt các phương pháp đã được thực nghiệm theo tư
tưởng này là: Phương pháp hợp tác, phương pháp cá thể hóa và phương pháp
tích cực. Từ việc sử dụng các phương pháp dạy học này trên lớp mà vai trò
của giáo viên đã có bước thay đổi căn bản, họ trở thành người điều khiển,
trọng tài, tổ chức làm việc, giúp đỡ học sinh biết cách làm và cách học.
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, T.Makiguchi (1871 – 1944) nhà sư
phạm xuất sắc Nhật Bản trong tác phẩm nổi tiếng của mình “giáo dục vì cuộc
sống sáng tạo”. Ông cho rằng: “giáo dục có thể coi là quá trình hướng dẫn tự
học mà động lực của nó là: Kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới
hạnh phúc của bản thân và cộng đồng”. [23; tr 19].
Năm 1986, hai nhà giáo dục Ấn Độ S.D.Sharma và Shakti R.Almed
trong tác phẩm “ dạy học ở đại học” đã nêu: Hoạt động tự học của sinh viên là
nội dung chính là quá trình điều khiển quá trình hoạt động tự học của sinh
viên một cách gián tiếp thông qua các nhiệm vụ nhận thức được thiết kế để
hoàn thành mục đích, nhiệm vụ dạy học được xác định. [21; tr79, 123].
Năm 1991 R.Roysinngh [20], Tác giả đã nghiên cứu vai trò của năng
lực tự học trong việc học tập thường xuyên và học tập suốt đời, đề cao vai trò
chuyên gia cố vấn của người thầy trong việc học tập thường xuyên, học tập
suốt đời trong việc hình thành phát triển năng lực tự học của người học.
Như vậy, vấn đề tự học trong lịch sử giáo dục đã được quan tâm, đề cập
và nghiên cứu từ lâu với nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau, song tựu
trung đều nhấn mạnh vai trò to lớn của tự học, tự nghiên cứu trong hoạt động
học tập của học sinh, sinh viên và nó vẫn là vấn đề được các nhà giáo dục
ngày nay đặc biệt quan tâm và nghiên cứu.
Ở Việt nam, hoạt động tự học cũng đã được quan tâm song vấn đề này
chỉ được quan tâm, nghiên cứu một cách khoa học dưới nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ Tich Hồ Chí Minh: Học phải suốt đời
ngay cả khi đã đi làm việc với phương châm “ Về cách học phải lấy tự học
làm gốc, “Về cách dạy phải tránh lối dạy nhồi sọ…Về học tập tránh lối học
vẹt”. [13; tr 444, 319]
Bác động viên toàn dân “Phải tự nguyện, tự giác, coi việc học tập là
nhiệm vụ của người cách mạng phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, do dó mà
tích cực , tự hoàn thành kế hoạch học tập
Để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước, các nhà giáo dục học
nước ta rất quan tâm đến vấn đề tự học và đã đi sâu nghiên cứu dưới nhiều
góc độ.
Hướng thứ nhất: Tự học là một hoạt động độc lập diễn ra không hoặc ít
có sự điều khiển của thầy (Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn )
Hướng thứ hai: Tự học là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động của
người học dưới vai trò chủ đạo của thầy (các tác giả Nguyễn Ngọc Quang
[15], [16] Đặng Vũ Hoạt [8], Nguyễn Ngọc Bảo [2], Trịnh Quang Từ [ 28] ,
Nguyễn Thị Tính [24]).
Hướng thứ Ba: Coi tự học như là một hình thức tổ chức ngoài giờ lên
lớp, phối hợp với các hình thức dạy học khác (Phạm Hồng Quang [18]).
Một hướng khác: Ngoài ra theo Nguyễn Cảnh Toàn – Lê Khánh Bằng
[26] Thì tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm
vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ do chính bản thân người học tiến
hành ở trên lớp hoặc ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách
giáo khoa đã được ấn định, tùy theo hứng thú khoa học và nghề nghiệp, tùy
theo trình độ nhận thức về nhiệm vụ và trách nhiệm, tùy theo đặc điểm, thói
quen làm việc riêng của từng người.
Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình của các nhà giáo dục nghiên
cứu về tự học như: như: Nguyễn Cảnh Toàn “Luận bàn về kinh nghiệm tự
học”, Phan Trọng Luận “Tự học – một chìa khóa vàng của giáo dục”, Trần Bá
Hoành “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy học, giáo dục và đào
tạo”, Nguyễn Hiến Lê “Tự học một nhu cầu tất yếu của thời đại”…Bên cạnh
đó còn rất nhiều các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp
dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, các nhà khoa học trong khoa Tâm lý
giáo dục thuộc trường ĐHSP Hà nội và các nhà khoa học thuộc Viện khoa
học giáo dục Việt Nam.
Tất cả các công trình, nghiên cứu trên đều nhấn mạnh, khẳng định một
cách dứt khoát rằng tự học có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người, là nhân tố trọng yếu nâng
cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và hình thành thái độ mới.
Các tác giả rất coi trọng tới phương pháp tự học, kỹ năng tự học và việc
hình thành kỹ năng tự học cho học sinh, sinh viên vì nó được xem xét như là
nhân tố bên trong quan trọng để người học hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Môi trường tự học cũng được coi là yếu tố bên ngoài tạo điều kiện quan
trọng giúp cho việc tự học đạt kết quả cao…
Như vậy vấn đề tự học đã được quan tâm tự rất lâu trong lịch sử giáo
dục và được nghiên cứu ở nhiều góc độ, cấp độ khác nhau cả trong và ngoài
nước đều khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa và bản chất của hoạt động tự học
của học sinh, sinh viên và đưa ra các biện pháp để nâng cao chất lượng tự
học. Song trong thực tế thì việc tự học của học sinh, sinh viên chưa đáp ứng
được mong đợi của các nhà khoa học, các thầy cô giáo, các bậc làm cha mẹ
và đây đang là mối lo hàng đầu trong các trường học, cơ sở đào tạo và nhất là
các trường sư phạm Hơn nữa chưa có tác giả nào nghiên cứu về biện pháp
nâng cao chất lương hoạt động tự học cho sinh viên người dân tộc ở trường
CĐSP Gia Lai. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao
chất tự học cho sinh viên dân tộc thiểu số trong trường sư phạm là việc rất cần
thiết.
1.2. Khái niệm về hoạt động tự học.
Với việc tìm hiểu, sưu tầm, tìm tòi và bằng kinh nghiệm học hỏi của bản
thân, tôi thấy rằng có rất nhiều tài liệu, sách của các tác giả đã đưa ra các định
nghĩa khác nhau về tự học:
- Tự học (Seft – learning) là quá trình người học tự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức
bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định.
- R.Retke chủ biên cuốn “Học tập hợp lý” coi “Tự học là việc hoàn thành các
nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” [ 19; tr 97]
- Theo nguyên PGS. TSKH Nguyễn Văn Hộ trong cuốn “Lý luận dạy học” thì
“Tự học là hoạt động diễn ra dười sự điều khiển gián tiếp của giáo viên, học
sinh tự mình sắp xếp kế hoạch, sử dụng điều kiện sẵn có trong gia đình, tài
liệu, củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh tri thức hoàn thành cá nhiệm vụ
học tập đã được giáo viên giao và hướng dẫn sơ bộ cách thức thực hiện”[10;
tr 126]
- Với Nguyễn Hiến Lê trong cuốn “Tự học – một nhu cầu của thời đại” thì
cho rằng: Tự học là không ai bắt buộc tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết
thêm. Có thầy hay không có thầy ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn
làm chủ mình, muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được, đó
mới là điều quan trọng.
- Theo Thái Duy Tuyên thì: Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo … và kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung của
chính bản thân người học.
- Theo Nguyễn Cảnh Toàn – Lê Khánh Bằng trong cuốn “Phương pháp dạy
và học đại học” thì cho rằng “Thì tự học là một hình thức hoạt động nhận thức
của cá nhân nhằm nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ do chính bản
thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ngoài lớp, theo hoặc không theo
chương trình và sách giáo khoa đã dược ấn định, tùy theo hứng thú khoa học
và nghề nghiệp, tùy theo trình độ nhận thức về nhiệm vụ và trách nhiệm, tùy
theo đặc điểm, thói quen làm việc riêng của từng người” [26; tr 319].
- Cũng theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp ) và có khi
cả cơ bắp (khi sử dụng dụng cụ) và các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có
chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa
học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi…) để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình” [25; tr 59, 60]
- Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại học”
thì “Tự học là một hình thức tổ chức cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức
hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ
năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp , hoặc
không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định” [9; tr 174].
- Theo Phan Thị Hồng Vinh trong cuốn “Phương pháp dạy học Giáo dục học”
thì “Tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của sinh viên do sinh viên
tự thực hiện trong thời gian tự học trên lớp hay ngoài lớp” [32tr 170].
- Theo Trịnh Quang Từ: “Tự học là quá trình độc lập, nỗ lực tìm tòi, khám
phá tri thức của sinh viên dưới sự tổ chức và điều khiển gián tiếp của giáo
viên nhằm củng cố, mở rộng, đào sâu những tri thức đã lĩnh hội qua các hình
thức lên lớp có giáo viên điều khiển trực tiếp…” [28; tr 23].
- Theo Nguyễn Thị Tính: “Tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ
đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, phán
đoán…) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng
học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí …của người học để
vượt qua chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích lũy kiến thức
cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến kinh nghiệm
này thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học” [24; tr 17].
Từ những nghiên cứu, công trình khoa học trên của các tác giả, nhà
khoa học cho thấy hoạt động tự học được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau song tựu chung các tác giả đều có nhìn nhận chung về hoạt động tự học
với bản chất là quá trình nhận thức tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho chính người học.
Từ đó chúng tôi đi đến định nghĩa về hoạt động tự học như sau: Tự học
là quá trình dưới vai trò chủ đạo của giáo viên, người học tự giác, tích cực,
chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho chinh bản
thân mình thông qua các hoạt động trí tuệ và thực hành. Trong quá trình
đó người học thực sự là chủ thể nhận thức, vượt qua các khó khăn, trở
ngại cả về tâm lý lẫn thể chất để hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao
phó và xác định.
Qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn của bản thân, tôi cho thấy rằng
hoạt động tự học có những hình thức như sau:
Hình thức thứ nhất: Hoạt động tự học của sinh viên diễn ra dưới điều
khiển trực tiếp của giáo viên và phương tiện kỹ thuật ở trên lớp, ở hình thức
này sinh viên phải tự phát huy các phẩm chất và năng lực của mình như: khả
năng chú ý, óc phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa…để tiếp
thu, lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người dạy định thướng.
Hình thức thứ hai: Hoạt động tự học của sinh viên diễn ra dưới sự
điều khiển gián tiếp của giáo viên, lúc này sinh viên phải tự mình sắp xếp kế
hoạch, sử dụng các điều kiện vật chất nhất là huy động năng lực của bản thân
để ôn tập, củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh tri thức, hoàn thành
nhiệm vụ do giáo viên giao, đồng thời lĩnh hội tri thức mới. Như vậy, sinh
viên tự học dưới sự điều khiển gián tiếp của giáo viên nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ dạy học và chương trình đào tạo của nhà trường quy định.
Hình thức thứ ba: Hoạt động tự học của sinh viên diễn ra mà không có
sự hướng dẫn trực tiếp và gián tiếp của giáo viên. Người học tự tìm kiếm tri
thức để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mình bằng cách tự tìm tài liệu, tự rút
kinh nghiệm, tự phê bình, tự tìm phương pháp, tự sắp xếp thời gian.
Trong các hình thức tự học trên thì hình thức thứ ba ở mức độ cao nhất,
khó khăn nhất, khắc nghiệt nhất. Tuy nhiên trong các trường Cao đẳng, đại
học thì hoạt động tự học của sinh viên dù ở hình thức nào, mức dộ nào cũng
đều có tầm quan trọng riêng. Vấn đề là ở chỗ cần nắm được và rèn luyện cho
mình các hình thức tự học. chính điều này sẽ quyết định trực tiếp tới chất
lượng và hiệu quả của của quá trình học tập của bản thân hay quá trình trình
đào tạo của nhà trường. Mọi tác động về nội dung, phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học đều hướng vào mục đích là làm sao để phát huy nỗ lực, năng
lực nội sinh của mỗi người học thì mới đem lại hiệu quả. Sinh viên không
những là đối tượng tác động của giáo viên mà còn là chủ thể tích cực, sáng
tạo trong quá trình dạy học – đó chính là sự nhận thức độc đáo có tính chất
nghiên cứu của sinh viên bậc đại học. Chính việc chủ động, tích cực, sáng tạo,
độc lập của mình, sinh viên sẽ giải quyết được mâu thuẫn bên trong cơ bản
của quá trình dạy học luôn đặt ra. Mâu thuẫn luôn đặt ra, học sinh không
ngừng giải quyết từ đó mà tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực nhận thức …
của sinh viên không ngừng được nâng lên và hoàn thiện, nhờ vậy mà sinh
viên không ngừng thích ứng được với những đòi hỏi không ngừng của xã hội.
Tự học còn là hình thức hoạt động có tính chất cá nhân, do bản thân
người học nỗ lực thực hiện ở trên lớp hay ngoài lớp hoặc diễn ra khi học sinh
còn ngồi trên ghế nhà trường hay trong suốt cuộc đời. Cho nên “tự học là hoạt
động độc lập của học sinh - sinh viên diễn ra song song với quá trình dạy
học, có liên hệ mật thiết với quá trình này. Có lúc không bám sát chương trình
hay sách giáo khoa, tự đề thêm nhiệm vụ, sử dụng thêm tài liệu lý luận và
thực tiễn tùy theo hứng thú khoa học và nghề nghiệp, tùy theo hứng thú và
khả năng, tùy theo trình độ nhận thức của bản thân về nhiệm vụ, cuối cùng
tùy theo thói quen làm việc của mỗi cá nhân.
1.3. Vai trò, vị trí của hoạt động tự học.
Ở bất kỳ hoạt động học nào thì giáo viên luôn giữ một vai trò quan
trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là: Người tổ chức, điều khiển, hướng
dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên. Qua thực tế cho thấy, dù giáo
viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy
nhưng học sinh lại không đầu tư thời gian, công sức lao động cá nhân, không
có niềm khao khát, say mê với tri thức, không có kế hoạch và phương pháp
học tập hợp lý, không có sự tự giác, tích cực học tập thì việc học tập chẳng
thể đạt được kết quả như mong muốn.
Vì vậy có thể khẳng định hoạt động học tập luôn giữ một vị trí, vai trò
rất quan trọng trong hoạt động học tập của học sinh – sinh viên, đây là yếu tố
quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập nói chung.
Nguyên Tổng Bí Thư Đỗ Mười đã phát biểu về vai trò và ý nghĩa của
họa động tự học như sau: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát tiển suốt
cuộc đời của mỗi con người, trong điều kiện kinh tế, xã hội nước ta như hiện
nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của con người Việt Nam
và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo
ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục
thành tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào tự học”
(Trích thư gửi hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/1/1998)
Trong quá trình học tập ở trường Cao đẳng, Đại học đòi hỏi sinh viên
phải tiếp thu một khối lượng kiến thức lớn và khó, cho nên ngoài thời gian
học tập trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu thêm ngoài giờ
lên lớp để mở rộng, đào sâu tri thức.
Như vậy, hoạt động tự học có vai trò rất quan trọng đối với kết quả học
tập và nó càng trở nên thiết thực hơn đối với sinh viên đang học ở bậc đại
học, bởi sinh viên trong môi trường này có nét đặc thù riêng so với bậc học
phổ thông. Điều này thể hiện hoạt động nhận thức của sinh viên ở mức độ cao
hơn, mang tính chất độc lập, tự lực, tự giác sáng tạo trong việc tiếp thu lĩnh
hội tri thức cũng như việc vận dụng tri thứ vào tình huống cụ thể. Phương
pháp học tập của sinh viên cũng khác, phần nhiều là mang tính chất tự nghiên
cứu, nhưng điều đó không có nghĩa là thiếu vai trò của giáo viên. Do đó có
thể nói hoạt động tự học là một khâu của quá trình giáo dục, là một quá trình
gia công, chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục qui định.
Nhờ có tự học và bằng con đường tự học, người học mới nắm vững tri
thức, thông hiểu tri thức, bổ sung, hoàn thiện tri thức cũng như hình thành
những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được K.Đ.Usinxki khẳng
định: “Chỉ có công tự học của người học mới tạo điều kiện cho việc thông
hiểu tri thức” [29; tr 100]. Như vậy, chính hoạt động tự học sẽ trang bị tri thức
cho người học phục vụ cho quá trình học tập.
- Tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nghề nghiệp
trong tương lai. Chính trong quá trình tự học mà giúp sinh viên từng bước
biến vốn hiểu biết, kinh nghiệm của loài người thành vốn hiểu biết, kinh
nghiệm riêng của cá nhân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên
hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố và ghi nhớ vững chắc tri thức,
biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập.
- Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được
hứng thú, thói quen và phương pháp tự học thường xuyên để làm phong phú
thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của bản thân. Giúp họ tránh được sự lạc
hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại
ngày nay.
- Tự học, thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ không chỉ giúp
sinh viên mở rộng, đào sâu kiến thức mà còn giúp họ hình thành nên những
phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và
làm việc một cách khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc
phê phán, lòng say mê nghiên cứu khoa học.
- Trong quá trình học tập ở bậc đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực
tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được tiềm năng to lớn vốn có trong họ, tạo nên
động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên mọi khó khăn, trở ngại bên
ngoài, khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng
đào tạo.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên
và tập thể học sinh trong nhà trường, các lực lượng này có tác dụng lớn trong
việc động viên, khuyến khích, hướng dẫn sinh viên tự học một cách đúng
hướng và hiệu quả.
Ngoài ra, tự học còn có vai trò trong việc giáo dục tình cảm và những
phẩm chất đạo đức của bản thân người học. Bởi học sinh – sinh viên không
chỉ nâng cao năng lực nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận
dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống mà còn trên cơ sở đó nó lại tác động
định hướng có ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lói sống,
niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như những phẩm chất ý
chí cần thiết cho việc tổ chức lao động, học tập của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó
cũng rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác, độc lập trong học tập đồng
thời rèn luyện thói quen trong các hoạt động khác. Nói cách khác hoạt động
tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách học sinh Mặt
khác hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách, thiết yếu của học
sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường để họ tiếp nhận tri thức, nâng
cao trình độ hiểu biết của bản thân mà còn có ý nghĩa lâu dài trong suốt cuộc
đời mỗi con người, đó là thói quen học tập suốt đời, bởi sau khi ra trường vẫn
phải tiếp tục “ học, học nữa, học mãi”. Sự học tạp khi rời ghế nhà trường còn
quan trọng hơn gấp bội lần sự học khi còn trên ghế nhà trường và hậu quả của
nó, ảnh hưởng của nó đến cá nhân con người và xã hội.
Qua đó, muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, sinh viên
trong các trường Cao đẳng, Đại học thì chúng ta phải quan tâm đúng mức đến
việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nghiệp vụ của mỗi người giáo viên đồng
thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của người học trong hoạt động
học tập, để làm sao khai thác tiệt để những tiềm năng vốn có của họ được
phát lộ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp
CNH – HĐH đất nước.
1.4. Bản chất hoạt động tự học của học sinh – sinh viên
* Hoạt động tự học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh – sinh
viên mang tính chất nghiên cứu.
Như vậy, hoạt động tự học của học sinh – sinh viên là một nhân tố, một
khâu của quá trình dạy học. Đó là quá trình tiếp thu, gia công, lưu giữ thông
tin từ giáo viên để tự mình chế biến, chuyển hóa thành sản phẩm trí tuệ của
bản thân. Đó là sự phản ánh khách quan thông qua chủ quan của người học
trong đó mục đích, nhiệm vụ của quá trình dạy học đã trở thành mục đích,
nhiệm vụ của quá trình tự học đối với người học.
Qúa trình tự học là quá vận động của người học từ chỗ chưa biết đến
chỗ biết và ngày càng đầy đủ, sâu sắc, hoàn thiện hơn. Từ chỗ nắm tri thức
đến chỗ hình thành vững kỹ năng, kỹ xảo ngày càng ở mức độ cao hơn. Từ
chỗ vận dụng những điều đã học vào tình huống quen thuộc đến chỗ vận dụng
dụng chúng vào những tình huống mới trên cơ sở đó ngày càng hoàn thiện các
năng lực và phẩm chất đạo đức, trí tuệ, thế giới quan khoa học và các phẩm
chất đạo đức khác.
Cơ sở có tính chất phương pháp luận của hoạt động tự học là quan điểm
về bản chất hoạt động của con người. Vì theo TLH hoạt động có vai trò quyết
định trực tiếp đến sự hình thành phát triển nhân cách. Điều này đã được
C.Mác khẳng định: “Sự hình thành con người không chỉ là kết quả của những
tác động bên ngoài mà là một quá trình hiện thực khách quan của sự thay đổi
tự chuyển hóa” [15; tr78].
Như vậy, hoạt động tự học tất yếu đòi hỏi phải có sự nỗ lực tích cực và
tự điều chỉnh hành vi của bản thân, hoạt động đó sẽ đem lại hiệu quả cao, khi
tính mục đích trở thành một phẩm chất độc lập của nhân cách gắn liền với
việc xây dựng ý chí, niềm tin của quá trình hoạt động của họ.
Vậy yếu tố nào thúc đẩy hoạt động tự học của học sinh – sinh viên?
Qúa trình tự học cũng giống như quá trình dạy học đều có động lực là kết quả
của việc giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong quá trình tự học của người
học. Trong quá trình đó phải kể đến mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa
một bên là yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo tự học
được đề ra với một bên là trình độ, khả năng hiện có của người học. Giải
quyết được mâu thuẫn này trong quá trình tự học sẽ giúp cho người học phát
triển về mặt nhận thức nói riêng và nhân cách nói chung. Từ đó có thể thấy
thực chất hoạt động tự học của học sinh – sinh viên là quá trình học tập, một
quá trình nhận thức không có sự điều khiển trực tiếp của giáo viên mà chỉ tổ
chức hướng dẫn một cách gián tiếp hoạt động cho học sinh. Đó là một quá
trình học tập vất vả hơn nhiều so với quá trình học tập có sự lãnh đạo, điều
khiển trực tiếp của người giáo viên. Bởi lẽ lúc này người học phải tự đặt ra
cho mình mục đích, nhiệm vụ, phải tự xây dựng cách học, phải sử dụng linh
hoạt, hợp lý các hình thức, điều kiện và phương tiện học tập để đạt được kết
quả cao.
Nhà lý luận dạy học nổi tiếng B.P.Exipôp cũng khẳng định điều đó:
“Công tác tự học của học sinh, được đưa vào quá trình dạy học, là công tác
được thực hiện không có sự tham gia trực tiếp của giáo viên, nhưng theo bài
làm mà giáo viên giao cho trong khoảng thời gian dành riêng cho nhiệm vụ
này. Ở đây học sinh tự giác vươn tới đích đã được vạch ra trong bài làm, biểu
lộ mọi nỗ lực và thể hiện kết quả hoạt động trí tuệ hoặc thể lực của mình
(hoặc cả hai hoạt động) dưới một dạng nào đó. [7; tr15].
Chủ thể của quá trình tự học đó chính là bản thân người học, do đó kết
quả phụ thuộc chủ yếu và phần lớn vào mức độ tích cực, độc lập sáng tạo
trong hoạt động nhận thức của chính người học. Theo Nguyễn Ngọc Bảo:
Tính tích cực nhận thức biẻu hiện ở chỗ huy động ở mức độ cao các chức
năng tâm lý, đặc biệt là chức năng tư duy. Tính tích cực nhận thức là một
phẩm chất của cá nhân, là thái độ của chủ thể (học sinh – sinh viên) đối với
khách thể (hoạt động học tập) thông qua sự huy động ở mức độ cao chức năng
tâm lý để giải quyết nhiệm vụ học tập. Tính tích cực nhận thức vừa là mục
đích của hoạt động, vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để đạt mực đích, vừa
là kết quả của hoạt động.
- Tính tích cực nhận thức tồn tại dưới 2 dạng: Bên trong và bên ngoài.
Bên trong: như là thái độ của chủ thể hoạt động, đó là sự tự nguyện, tự
giác, có nhu cầu, hứng thú đối với việc học tập, có sự nỗ lực cố gắng, kiên trì,
khắc phục khó khăn trong quá trình nắm tri thức, có khả năng định hướng đối
với nhiệm vụ nhận thức.
Bên ngoài: đó là sự huy động cao nhất các chức năng tâm lý để chiếm
lĩnh kiến thức, biểu hiện ra bên ngoài của nó là những trạng thái hoạt động
tích cực như: sự tập trung chú ý, sự căng thẳng trí tuệ, sự tận dụng thời gian
để thực hiện kế hoạch học tập, kả năng giải quyết tình huống một cách sáng
tạo. Tùy theo mức độ huy động các chức năng tâm lý trong quá trình nhận
thức mà có những mức độ khác nhau của tính tích cực, thể hiện từ thấp đến
cao.
Mức độ thấp: thể hiện sự tái hiện, bắt chước.
Mức độ thể hiện sự tìm tòi trong nhận thức.
Mức độ thể hiện sự sáng tạo trong nhận thức.
- Tính độc lập trong nhận thức: Được thể hiện ở khả năng giải quyết vấn đề
một cách tự chủ, độc lập, luôn tìm phương pháp mới để nắm tri thức. Đó là
khả năng vận dụng tri thức đã biết vào những hoàn cảnh mới để nắm tri thức
mới, củng cố và mở rộng kiến thức đã học. Tính độc lập trong quá trình nhận
thức được biểu hiện ở trong suy nghĩ đó là khả năng tự nhận xét, phán đoán,
suy luận trước những ý kiến của người khác tự mình tiến hành các thao tác tư
duy để lĩnh hội tri thức không phụ thuộc vào ý kiến của người khác, diễn đạt
những vấn đề lĩnh hội theo quan điểm của mình và được thể hiện cả trong
hành động.
Như vậy, tính độc lập nhận thức của học sinh là hoạt động có hệ thống
trên lớp và ngoài lớp để tự mình tìm tòi tri thức, nêu ra vấn đề, giải quyết vấn
đề và tự bản thân kiểm tra kết quả, hoàn thành một cách sáng tạo nhiệm vụ
nhận thức.
- Tính sáng tạo trong hoạt động nhận thức: Là mức độ cao của tính tích cực và
tính độc lập. Tính sáng tạo là thái độ tích cực cải tạo của chủ thể đối với
khách thể, là sự thống nhất của quá trình hoạt động trí tuệ, ý chí và tình cảm
của con người nhằm hoàn thiện và sáng tạo ra một hoạt động, một sản phẩm
nào đó. Tính sáng tạo được thể hiện ở nhu cầu khao khát tìm tòi, khám phá
bản chất của sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu, muốn vận dụng những
phương pháp mới để khắc phục khó khăn trong quá trình lĩnh hội tri thức, tìm
ra những giải pháp mới, yếu tố mới trong quá trình hoàn thiện bài học, đảm
bảo chất lượng tối ưu trong quá trình học tập. Tính sáng tạo có liên quan mật
thiết với năng lực tư duy sáng tạo trong quá trình nhận thức, đó là năng lực
tìm thấy vấn đề mới, phát triển cái mới, tự di chuyển tình huống, sáng tạo ra
phương thức giải quyết mới.
* Hoạt động tự học là một quá trình tự điều khiển – quá trình tổ chức lĩnh
hội tri thức.
Qua phân tích trên, chúng ta thấy hoạt động tự học là hoạt động tích
cực, độc lập, sáng tạo của học sinh – sinh viên, nói như vậy không có nghĩa là
thầy giáo truyền thụ một cách máy móc những tri thức có sẵn đến người học
mà đó là quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học
nhằm hình thành cho họ năng lực nhận thức , thái độ, phương pháp học tập, ý
chí để họ tự mình dành lấy tri thức, biến tri thức của nhân loại thành sản phẩm
của bản thân
Nếu trong quá trình dạy học, giáo viên căn cứ vào mục đích dạy học để
lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để truyền đạt tri
thức đến học sinh, người học tiếp thu tri thức và đạt được kết quả học tập
tương ứng. Còn trong quá trình tự học việc điều khiển nhân cách người học
được chuyển hóa thành việc tự điều khiển sự phát triển của chính bản thân họ.
Như vậy, tự học là quá trình tự điều khiển, là quá trình tự tác động nhằm
hướng mọi hoạt động của chủ thể vào một trình tự nhất định để đạt được kết
quả tối ưu.
Theo quan điểm Xibecnetic (điều khiển học): Qúa trình tự học là một
quá trình tự điều khiển quá trình tổ chức chiếm lĩnh tri thức, quá trình thu
nhận, chế biến, xử lý, bảo quản và truyền đạt thông tin nhằm làm tăng sự hiểu
biết của cá nhân, giúp cho người học nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
trong quá trình học tập, đồng thời đó là quá trình chống lại những hoạt động
chủ định lệch tâm hoặc vô thức ngăn cản tiến trình cải tiến hoạt động học tập.
Trong khi tiến hành hoạt động tự học, học sinh – sinh viên phải sử dụng một
hệ thống các thao tác tư duy nhằm biến nguồn tri thức đã tiếp thu được thành
sản phẩm trí tuệ riêng của bản thân để khi cần có thể sử dụng nó như mộ công
cụ lao động. Trong quá trình đó đòi hỏi học sinh – sinh viên phát huy ở mức
độ cao quá trình tâm lý, các thuộc tính tâm lý của cá nhân từ cảm giác, tri
giác…đến xu hướng, tính cách, tình cảm và các yếu tố tâm lý khác. Nó bắt
đầu từ vệc lập kế hoạch học tập đến việc tổ chức thực hiện kế hoạch (Sử dụng
thời gian, phương pháp, các hình thức tự học cho phù hợp giữa nghe giảng,
ghi chép, đọc sách…tự kiểm tra, đánh giá quá trình đó)
Từ đó có thể nói, Tự học là một quá trình bao gồm các khâu như sau:
- Xây dựng kế hoạch .
Tổ chức hoạt động tự học theo kế hoạch đã đề ra, thể hiện ở sự lựa
chọn, sử dụng những hình thức và phương pháp tự học một cách hợp lý, chú ý
đến tính đặc thù của mô học và đặc điểm tâm lý riêng của mỗi cá nhân người
học. Việc sử dụng các hình thức tự học thể hiện tính chủ động, tính tích cực,
sáng tạo của người học. Ngoài thời gian ở trên lớp, học sinh – sinh viên cần
sử dụng các hình thức tự học khác nhau để hoàn thiện tri thức của mình.
- Khâu cuối cùng của hoạt động tự học, là quá trình tự kiểm tra, đánh giá quá
trình học tập của bản thân. Khâu này có ý nghĩa quan trọng giúp người học
thấy được khả năng nắm tri thức, và qua đó thấy được mặt mạnh, mặt yếu của
bản thân để kịp thời điều chỉnh quy trình học tập cho phù hợp.
Người học thực hiện tốt được những điều kiện trên thì sẽ tận dụng triệt
để thời gian, không ngừng nâng cao tri thức của bản thân, rèn luyện tác phong
làm việc nghiêm túc, khoa học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Như vậy, hoạt động tự học của học sinh – sinh viên tại các trường Cao
đẳng, Đại học thực chất là hoạt động nhận thức thế giới quan có tính chất
nghiên cứu dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giáo viên. Hoạt động đó đòi
hỏi người học phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, chủ động, độc lập,
sáng tạo của bản thân. Có như vậy mới tiếp thu được những kinh nghiệm của
xã hội loài người và như thế nhân cách không ngừng được phát triển.
1.5. Mối quan hệ giữa giáo viên và sinh viên trong quá trình tự học.
Như chúng ta đã biết,quá trình dạy học là quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ
chức, điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, chủ động tích cực tự
tổ chức, tự điều khiển quá trình nhận thức của mình nhằm thực hiện các
nhiệm vụ học tập.
Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
của học sinh là hai hoạt động có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với
nhau, qui định lẫn nhau và cả hai hoạt động ấy đều hướng tới mục đích cuối
cùng là biến đổi nhân cách của chính bản thân người học thông qua việc
người học tích cực nhận thức để chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo. Như vậy hoạt động học, hoạt động tự học của học sinh – sinh viên luôn
có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với hoạt động dạy của giáo viên,
nghĩa là nó không tách rời khỏi vai trò chủ đạo của giáo viên. Tuy nhiên, vai
trò chủ đạo của người giáo viên trong các hình thức tổ chức dạy học khác
không giống như trong hoạt động tự học của học sinh – sinh viên, vì ở hoạt
động tự học người thầy chỉ đạo, điều khiển một cách gián tiếp hoạt động đó
thông qua các nhiệm vụ, bài tập tự học được giao cho học sinh hoàn thành.
Đứng trước nhiệm vụ tự học được giao, sinh viên phải phát hiện được những
vấn đề cần giải quyết, tự lập kế hoạch, huy động mọi năng lực và phương tiện
để giải quyết vấn đề. Qua đó củng cố, mở rộng, đào sâu tri thức. giáo viên có
nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ tự học đồng thời
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả tự học. giáo viên nắm
thông tin ngược từ phía học sinh – sinh viên để kịp thời điều chỉnh quá trình
nhận thức của họ và điều chỉnh hoạt động giảng dạy của chính bản thân. Sự
chỉ đạo của giáo viên như vậy đã thực sự đặt người học vào vị trí chủ thể của
quá trình nhận thức tích cực nhưng điều này không có nghĩa là hạ thấp vai trò
lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên.
Khi điều khiển hoạt động tự học của người học, giáo viên không hoàn
toàn áp đặt về nội dung, phương pháp và nhịp độ tiến hành mà căn cứ vào
mục đích dạy học để thiết kế các nhiệm vụ nhận thức thành các phương án
thực hiện, phân bố mức độ khó theo kiểu phân nhánh nội dung dạy học thành
những mục tiêu bộ phận kế tiếp nhau hướng tới mục tiêu tổng thể đã xác định.
Khi tổ chức, chỉ đạo, điều khiển học sinh tự học, giáo viên không nên làm
thay việc giải quyết mâu thuẫn trong hoạt động nhận thức hoặc phó thác hoàn
toàn cho học sinh, làm như vậy sẽ hạ thấp vai trò của mình, mà phải tổ chức,
hướng dẫn một cách gián tiếp. Cho nên đối với người giáo viên, điều quan
trọng là phải biết lựa chọn và đặt ra cho người học những mục tiêu vừa đảm
bảo cho sự trưởng thành về nhận thức và sự tự tin về mức độ tiến bộ của họ.
J.A.Cômenxki – ông tổ của nền giáo dục cận đại đã khẳng định rằng: “Giảng
dạy không phải chỉ cung cấp cho học sinh những châm ngôn, ý kiến của nhiều
tác phẩm, tác giả mà là khơi dậy ở học sinh lòng ham hiểu biết để như từ một
thân cây đâm ra nhiều cành lá hoa trái sum xuê” . Làm như vậy giáo viên đã
kích thích cho người học hứng thú, nhu cầu tự học, phát triển năng lực sáng