Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Quản lý công tác tư vấn hướng nghiệp cho cho học sinh trung học phổ thông tại Trung tâm GDTX huyện Yên Phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.34 KB, 99 trang )

ĐẠI
HỌC THÁI
NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM


VĂN
MẠNH
QUẢN LÝ CÔNG TÁC TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ
THÔNG TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN YÊN
PHONG
LUẬN
VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO
DỤC
THÁI
NGUYÊN -
2011
ĐẠI
HỌC THÁI
NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM


VĂN
MẠNH
QUẢN LÝ CÔNG TÁC TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO


HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ
THÔNG TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN YÊN
PHONG
Chuyên ngành: Quản lý giáo
dục
Mã số:
60.14.05
LUẬN
VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO
DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thành
Hưng
THÁI
NGUYÊN -
2011
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu,
các thầy cô trong Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo Sau Đại học Trường
Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã giảng dạy và quan tâm giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo huyện Yên Phong, phòng
Giáo dục Thường xuyên - Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Ninh, lãnh đạo
Trung tâm GDTX huyện Yên Phong, lãnh đạo các Trung tâm GDTX cấp
Huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và các cán bộ, giáo viên trong Trung tâm đã
tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đặng Thành
Hưng, người thầy đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá
trình triển khai và hoàn thành đề tài.

Mặc dù đã rất cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Kính mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2011
Tác giả luận văn
Tô Văn Mạnh
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Cao đẳng CĐ
Công nghiệp hóa CNH
Công nhân kỹ thuật CNKT
Dạy nghề DN
Đại học ĐH
Giáo dục và đào tạo GD&ĐT
Giáo dục thường xuyên GDTX
Giáo viên GV
Hướng nghiệp HN
Học sinh HS Học
sinh phổ thông HSPT
Hiên đại hóa HĐH
Khoa học-kỹ thuật KHKT
Kinh tế-xã hội KT-XH
Kỹ thuật tổng hợp KTTH
Lao động LĐ
Nghề phổ thông NPT
Trung học cơ sở THCS
Trung học chuyên nghiệp THCN
Trung học phổ thông THPT
Kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp TTKTTH-HN
Tư vấn TV
Tư vấn nghề TVN

Tư vấn hướng nghiệp TVHN
1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
MỞ ĐẦU
Nguồn nhân lực là tài sản quý giá của mỗi quốc gia. Giáo dục phổ
thông - một bộ phận quan trọng trong hệ thông giáo dục quốc dân có vai trò là
cơ sở ban đầu, đặc nền tảng cho sự phát triển nguồn nhân lực.
Mỗi con người có những phẩm chất, đặc điểm tâm sinh lý tương đối ổn
định phù hợp với nhứng nhóm nghề nhất định. Nếu con người chọn được
nghề phù hợp với năng lực bản thân và nhu cầu của xã hội, họ sẽ có khả năng
phát huy năng lực của mình và công hiến được nhiều cho đất nước. Tuy nhiên
không phải ai cũng nhận ra điều đó, nhất là lứa tuổi học sinh. Hơn nữa đất
nước ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập với nền
kinh tế thế giới, giai đoan cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc
cách mạng công nghệ thông tin phát triển nhu vũ bão. Cơ cấu kinh tế có sự
thay đổi, xuất hiện nhiều nhành nghề mới, yêu cầu về phẩm chất và năng lực
người lao động trong điều kiện mới cũng thay đổi. Việc chọn nghề của học
sinh phổ thông sao cho phù hợp với năng lực bản thân nhu cầu của xã hội là
khó khăn. TVHN cho học sinh phổ thông có nhiệm vụ hướng dẫn cho học
sinh cách thức lựa chọn nghề nghiệp tương lai một cách khoa học, trên cơ sở
hình thành những hứng thú ngề nghiệp vững chắc phù hợp với những phẩm
chất, năng lực của cá nhân và yêu cầu của ngề cũng như nhu cầu của xã hội.
Song để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, việc đầu tiên là phải
phân luồng học sinh để đào tạo, phát triển. Vì thế, TVHN có ý nghĩa giáo dục,
ý nghĩa kinh tế - xã hội , nhân văn và ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nó góp phần
vào việc phát triển kinh tế xã hội bên vững của đất nước.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, công tác giáo dục hướng nghiệp nói
chung và TVHN nói riêng cho học sinh phổ thông, nhũng năm qua, Đảng và
Nhà nước đã hết sức coi trọng, khuyến khích đẩy mạnh hoạt động GDHN từ
2

chủ trương, đường lối chính sách dến các biện pháp thực hiện. Ngày
19/3/1981 Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định 126/CP về “ công tác hướng
nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh các cấp PTCS
và PTTH tốt nghiệp ra trường ”. Ngày 17/11/1981, Bộ giáo dục đã ra Thông
tư số 33/TT hướng dẫn các cơ quan, các trường trong ngành thực hiện quyết
định này. Sau đó, ngày 27/4/1982 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã
kịp thời ban hành thông tư số 48/BT quy định rõ nhiệm vụ của các ngành, các
cấp và Bộ giáo dục trong việc thực hiên quyết định 126/CP. Văn kiện Đại hội
Đảng IX, Nghị quyết 40/2000/QH10, Chiến lược phát triển giáo dục 2001-
2010, Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT và Luật giáo dục năm 2005 đều nhấn
mạnh đến yêu cầu tăng cường giáo dục hướng nghiệp nhằm góp phần tích cực
và có hiệu quả vào việc phân luồng học sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào
cuộc sống lao động hoặc tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực bản thân và
nhu cầu về nhân lực của xã hội.
Tuy nhiên, công tác hướng nghiệp nói chung và TVHN nói riêng ở
nước ta chưa được quan tâm đúng mức. Ngành giáo dục còn thiếu những văn
bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác TVHN. Nhiều tỉnh chưa triển khai công tác TVHN
hoặc triển khai nhưng hiệu quả còn hạn chế ro chưa được đầu tư đúng mức.
Vì vậy, học sinh chưa được chuẩn bị chu đáo những kiến thức về nghề
nghiệp. Hầu hết học sinh tốt nghiệp THPT đều muốn vào ĐH, CĐ. Trong khi
đó, các loại hình đào tạo khác như trường THCN, trường dạy nghề ít được
học sinh quan tâm.
Đối với địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung và Huyện Yên Phong nói
riêng công tác TVHN cho học sinh THPT vô cùng quan trọng. Cùng với sự
phát triển chung của cả nước, Yên Phong phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở
thành một huyện công nghiệp. Yên Phong là một huyện tuy nhỏ nhưng có
3
nhiều làng nghề truyền thống, có nhiều các khu công nghiệp mới hình thành
đang cần rất nhiều nhân lực đặc biệt là lao động kỹ thuật. Song, nguồn nhân

lực của huyện Yên Phong chưa đáp ứng cho tiến trình công nghiệp hóa, hiên
đại hóa. Nhiều lao động chưa qua đào tạo, còn thiếu trầm trọng lao động có
chuyên môn kỹ thuật có trình độ cao. Trong khi đó, học sinh phổ thông ở Yên
Phong hầu như không quan tâm đến nhu cầu lao động ở địa phương. Vì vậy,
việc tư vấn để định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông phù hợp với
nhu cầu xã hội và của địa phương là việc làm rất cần thiết.
Bước đầu, Yên Phong mới triển khai thực hiện công tác TVHN, kết quả
đã được ghi nhận, song số học sinh được tư vấn chưa đáng kể, chất lượng của
công tác TVHN còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được vai trò trong việc
phân luồng học sinh để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho
huyện. Nguyên nhân khách quan vì đây là lĩnh vực mới, phức tạp, song cũng
có nguyên nhân chủ quan thuộc về công tác quản lý, trong đó các cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục huyện Yên Phong chưa quan tâm đầy đủ về vấn
đề này, nên chưa thực sự quan tâm chỉ đạo. Việc tổ chức TVHN thực hiện
chưa đồng bộ trên địa bàn toàn huyện. Trung tâm GDTX huyện Yên Phong
mới được thành lập, nên công tác TVHN chưa có kinh nghiệm, cơ sở vật chất,
trang thiết bị còn thiếu, kinh phí hoạt động hạn hẹp, chất lượng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của độ ngũ cán bộ, giáo viên làm công tác TVHN còn
yếu kém.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý công tác

vấn hướng nghiệp cho cho học sinh trung học phổ thông tại Trung tâm
GDTX huyện Yên Phong” với hy vọng đóng góp một phần nào vào việc
phát triển nguồn nhân lực của huyện nhà.
4
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất các biện pháp quản lí công tác tư vấn hướng nghiệp nhằm đẩy
mạnh các hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh THPT tại TTGDTX
huyện Yên Phong, góp phần vào sự phát triển nguồn nhân lực của địa phương
trong giai đoạn hiện nay.

3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác TVHN cho học sinh ở TT GDTX cấp huyện
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác TVHN cho học sinh THPT tại TT GDTX huyện Yên Phong ở
tỉnh Bắc Ninh
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Các giải pháp quản lí tư vấn hướng nghiệp sẽ có tác dụng đẩy mạnh
hoạt động giáo dục hướng nghiệp và nâng cao kết quả đào tạo ở Trung tâm
giáo dục thường xuyên nếu chúng đồng thời tác động vào nhận thức về nghề
nghiệp của học sinh, định hướng các em lựa chọn được nghề phù hợp với bản
thân, giúp các em có nhu cầu rèn luyện kĩ năng phù hợp với nhu cầu nghề
nghiệp của địa phương và xã hội.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý công tác TVHN cho học
sinh THPT.
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý công tác TVHN cho học sinh
THPT tại Trung tâm GDTX huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác TVHN tại
Trung tâm GDTX huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh.
5
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đánh giá thực trạng được tiến hành trong khuôn khổ công tác giáo dục
hướng nghiệp tại Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Yên Phong tỉnh
Bắc Ninh. Sử dụng dữ liệu để nghiên cứu thực trạng trong khoảng thời gian từ
năm 2005 đến 2010.
7.
PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn kiện của

Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước, sách, tài liệu và các báo cáo khoa
học trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm
phương
pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra thực tế TVHN
- Quan sát sư phạm
- Tổng kết kinh nghiệm
- Lấy ý kiến chuyên gia, đặc biệt về mức độ cần thiết và tính khả thi
của các giải pháp đề xuất
7.3.
Phương
pháp xử lý số liệu thống kê
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Khuyến nghị và Tài liệu tham khảo,
Luận văn có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của quản lý công tác TVHN cho học sinh
THPT tại Trung tâm GDTX cấp Huyện.
Chương II: Thực trạng quản lý công tác TVHN cho học sinh THPT tại
Trung tâm GDTX huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.
Chương III: Giải pháp quản lý công tác TVHN cho học sinh THPT tại
Trung tâm GDTX huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh
6
CHƯƠNG
I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC

VẤN
HƯỚNG
NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TẠI

TRUNG TÂM GDTX CẤP HUYỆN
1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
- Do nhu cầu xã hội, nhu cầu dạy nghề phổ thông trong nhà trường,
công tác tư vấn nghề đã được đưa vào trong nhà trường phổ thông từ khá lâu.
- Khởi đầu năm 1975- 1976, theo yêu cầu của Bộ Lao động thương
binh xã hội, ông Phạm Tất Dong và ông Phan Huy Thụ, Phạm Ngọc
Luận( Ban Tâm lý, Viện khoa học Giáo dục) phối hợp với ông Lê Ninh (
Bộ Lao động) xây dựng nội dung và phương pháp tư vấn nghề cho số thương
binh liệt tuỷ sống để hướng họ học nghề phù hợp. Sau 2 năm đi thực tế ở
một số nhà máy, cơ sở sản xuất, nông trường … nhóm công tác đã phác
thảo được 12 hoạ đồ nghề, và tiến hành tư vấn nghề cho hơn 300 thương
binh.
- Dựa trên kết quả khởi đầu đáng khích lệ đó, lại bắt nhịp được yêu cầu
cải cách giáo dục, lãnh đạo ban Tâm lý học đã chấp thuận đề án thực nghiệm
đưa công tác hướng nghiệp trong đó có nội dung tư vấn nghề vào trong nhà
trường phổ thông. Thực nghiệm được tiến hành từ năm 1977 đến năm 1980 ở
trường phổ thông cấp III Thanh Oai, trường cấp II Hồng Dương, trường Bổ
túc văn hoá vừa học vừa làm cấp III Phú Lãm( đều thuộc huyện Thanh Oai –
Hà Tây), trường cấp II Bắc Lý( Nam Hà), sau đó mở rộng đến trường cấp III
Trưng Vương Hà Nội. Thực nghiệm đạt kết quả tốt nên năm học 1980- 1981,
nhóm thực nghiệm lập đề án trình Bộ Giáo dục, sau đó Bộ trình Uỷ ban cải
cách giáo dục Trung ương để mở rộng, đưa công tác hướng nghiệp vào các
trường phổ thông.
7
- Dựa trên các công trình nghiên cứu, các thực nghiệm đã tiến hành
nhóm tác giả Phạm Tất Dong, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Thế Quảng, Nguyễn
Trọng Bảo, Đoàn Chi đã tích cực xây dựng đề án “ Hướng nghiệp và sử dụng
hợp lí học sinh ra trường”.
- Ngày 19-3-1981, Chính phủ đã ban hành quyết định số 126CP “ về
công tác hướng nghiệp và sử dụng hợp lý học sinh các cấp THCS, THPT tốt

nghiệp ra trường”
- Từ năm 1981- 1986 Ban giáo dục hướng nghiệp Bộ giáo dục, đã tổ
chức biên soạn tài liệu sinh hoạt hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp PTCS,
PTTH, trong đó có đề cập đậm nét đến vấn đề tư vấn nghề.
- Từ năm 1979 - 1981 tại Viện khoa học dạy nghề Tổng cục dạy
nghề(cũ) nhóm tác giả Đặng Danh ánh, Phạm Đắc Quang, Đỗ Thị Hà, Phan
Ngọc Anh đã nghiên cứu các đề tài; " nguyện vọng học nghề của HS phổ
thông''; " hứng thú nghề và tư vấn nghề cho HS học nghề".
- Tiếp theo từ năm 1982-1986 các tác giả trên đã nghiên cứu đề tài "Mô
tả, phân tích các đặc điểm nghề đào tạo" nhằm mục đích hướng nghiệp. Kết
quả thu được trên 70 bản mô tả nghề(họa đồ nghề), được xuất bản thành 2
cuốn sách
- " Tuổi trẻ và nghề nghiệp tập 1" (năm 1985); "Tuổi trẻ và nghề nghiệp
tập 2" (năm 1986). Sản phẩm này vừa là tài liệu tuyên truyền hướng nghiệp,
vừa là những bản mô tả vạch ra yêu cầu của nghề phục vụ cho tư vấn nghề.
- Năm 1985 Ban Tâm lý Viện khoa học Giáo dục Việt Nam đã thành
lập trung tâm chẩn đoán- tư vấn giáo dục đặt tại phòng giáo dục quận Hoàn
Kiếm - Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của tác giả Lê Đức Phúc trung tâm đã tiến
hành chẩn đoán và tư vấn giáo dục cho hàng ngàn học sinh.
- Tháng 3/ 1991, trước yêu cầu của thực tiễn Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ra quyết định thành lập trung tâm Lao động- Hướng nghiệp trực thuộc Bộ
8
Giáo dục và Đào tạo. Chỉ sau một thời gian hoạt động, trung tâm Lao động-
hướng nghiệp đã tiến hành công tác tư vấn nghề cho rất nhiều học sinh phổ
thông và đã biên soạn, xuất bản được tập tài liệu“ tư vấn nghề cho học sinh
phổ thông”.
- Một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác cũng đã đề cập
đến vấn đề hướng nghiệp, dạy nghề, tư vấn nghề cho học sinh như công trình
của tác giả Đặng Danh ánh “ Tư vấn nghề và phân luồng học sinh sau trung
học ”, tác giả Nguyễn Như Ất, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn

Văn Lê….
- Nhìn chung những công trình nghiên cứu trên đã có những tác động
nhất định đối với lĩnh vực tư vấn nghề cho học sinh trong nhà trường phổ
thông ở các cấp độ, các bình diện khác nhau, nhưng vẫn còn thiếu những công
trình, những đề án đi sâu vào quản lý công tác tư vấn nghề cho học sinh trong
nhà trường THPT nói chung và trong trung tâm Giáo dục Thường xuyên nói
chung trong giai đoạn nền kinh tế thị trường hiện nay nhất là trong một vùng
quê đang chuyển mình theo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước như huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh. Đó cũng là một trong những lý
do để tác giả nghiên cứu đề tài “ Quản lý công tác Tư vấn Hướng nghiệp
cho học sinh THPT ở trung tâm Giáo dục Thường xuyên huyện Yên
Phong - tỉnh Bắc Ninh” .
1.2. LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TU VẤN
HƯỚNG
NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hướng nghiệp và hướng nghiệp cho học sinh THPT
* Khái niệm hướng nghiệp:
- Có rất nhiều cách hiểu khái niệm hướng nghiệp khác nhau với tiêu
chí, mục tiêu quan sát và góc độ chuyên môn khác nhau, cụ thể là:
- Các nhà Giáo dục học cho rằng: “Hướng nghiệp là một họat động
của các tập thể sư phạm, của các cán bộ thuộc các cơ quan nhà máy khác nhau,
được
tiến hành với mục đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn phù hợp với năng
lực,

9
thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu cầu kinh tế xã hội. Hướng nghiệp là
một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục – học tập trong nhà trường”.
- Các nhà Tâm lý học lại coi “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
tâm lý sư phạm và y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu

của xã hội và năng lực của bản thân”.
- Các nhà Luật gia thì hiểu hướng nghiệp là: “các phương tiện y học,
giáo dục và tổ chức pháp quyền nhằm xác định cho mỗi công dân có nghề và
nơi làm việc. Nội dung gồm vạch rõ các yếu tố ảnh hưởng tới việc chọn nghề,
hình thành tổ chức và hình thức công tác hướng nghiệp, thể chế hoá quá trình
hướng nghiệp”.
- Các nhà Kinh tế lại coi hướng nghiệp là: “Những mối quan hệ kinh tế
giúp cho mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực lao động và đưa họ vào
một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với sự phân bổ lực lượng lao động xã
hội”.
- Trong cuốn tra cứu nghề nghiệp của Mỹ cũng đưa ra định nghĩa:
Hướng nghiệp là một quá trình giúp cho cá nhân tìm hiểu nghề và những
phẩm chất của mình trên cơ sở đó lựa chọn lấy một nghề phù hợp.
- Tháng 10/ 1980 , Hội nghị lần thứ IX những người đứng đầu cơ quan
giáo dục nghề nghiệp các nước xã hội chủ nghĩa họp tại Lahabana thủ đô Cu
Ba thống nhất về khái niệm hướng nghiệp như sau: “Hướng nghiệp là hệ
thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều
khoa học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội,
đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng thích hợp với những năng lực, sở
trường và điều kiện tâm, sinh lý cá nhân nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử
dụng có hiệu quả nhất lực lượng dự trữ có sẵn của đất nước.”
- Theo từ điển Tiếng Việt: Hướng nghiệp là thi hành những biện pháp
nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực, thể lực)
nội dung theo nghành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lí ngành nghề.
10
- Theo từ điển Giáo dục học: Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với
nguyện vọng năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực
tế khách quan của xã hội . Công tác hướng nghiệp có ý nghĩa kinh tế xã hội
rất lớn giúp cho thanh niên có cơ hội phát huy được năng lực nâng cao được

hiệu quả lao động say mê sáng tạo trong nghề nghiệp mặt khác giúp tránh
thay đổi nghề nghiệp nhiều lần hạn chế các hậu quả xấu do nghề nghiệp
không phù hợp mang lại. Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông cần
tiến hành qua các môn học các giờ lao động, các sinh hoạt ngoại khoá, các
buổi tham quan sản xuất, các cuộc gặp gỡ trao đổi với những người tiêu biểu
của các ngành nghề thông qua phim ảnh, sách báo…để phát hiện nắm bắt
được đặc điểm tâm lý xu hướng nghề nghiệp của từng học sinh rồi từ đó có
những gợi ý, hướng dẫn, động viên, khuyến khích, giúp các em xác định
tương lai nghề nghiệp của mình. Ngoài trường phổ thông ra công tác hướng
nghiệp còn được thực hiện tại các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, tại nhà
máy, làng nghề, trang trại để thanh niên chưa có nghề hoặc muốn chuyển
nghề làm quen, thử sức và lựa chọn.
- Theo tác giả Phạm Tất Dong: “Hướng nghiệp như là một hệ thống tác
động của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ
chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường
của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân”[5].
- Như vậy qua hàng loạt các định nghĩa trên ta hiểu hướng nghiệp là
toàn bộ những tác động để giúp con người định hướng đến một nghề hay một
số nghề nhất định đảm bảo được sự phù hợp giữa khả năng, yêu cầu của cá
nhân với yêu cầu của xã hội. Đây là công việc mà toàn xã hội phải có trách
nhiệm tham gia. Trẻ em cần được hướng nghiệp liên tục, thường xuyên, bằng
11
nhiều hình thức, nhiều con đường (như đài, báo, câu lạc bộ…) để hướng dẫn
nghề nghiệp cho các em, phải coi công tác hướng nghiệp là quyền trẻ em,
chúng ta cần phấn đấu để thế hệ trẻ chọn nghề theo hứng thú, sở thích và cũng
mong muốn học sinh ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu
nhân lực mà xã hội đặt ra. Do đó hướng nghiệp phải được cả xã hội quan tâm
đặc biệt, không nên để cho trẻ chọn nghề một cách tự phát và cũng không nên
để cho số phận nghề của học sinh phụ thuộc vào những gì hết sức ngẫu nhiên.

Hướng nghiệp là dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, giúp họ phát
huy được hết năng lực trong thế giới đó và có được cuộc sống thoả mãn với
lao động nghề nghiệp.
- Dưới góc độ giáo dục phổ thông, tác giả luận văn quan niệm: “Hướng
nghiệp là sự tác động của một hệ thống những biện pháp tác động của gia
đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm
hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành
nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với
hứng thú, năng lực của cá nhân” .
- Với khái niệm này chúng ta cần hiểu hướng nghiệp trong nhà trường
phổ thông là công việc của tất cả tập thể sư phạm (của hiệu trưởng, hiệu phó,
đoàn thanh niên, cán bộ giáo viên trong trường…). Là hoạt động dạy của
thầy, học của trò, nhằm giúp các em lĩnh hội được những thông tin về nghề
nghiệp trong xã hội, ở từng địa phương, từ đó giúp các em có kỹ năng tự đối
chiếu những năng lực phẩm chất, những đặc điểm tâm, sinh lý của mình với
hệ thống yêu cầu của nghề nghiệp đang đặt ra cho người lao động. Công tác
hướng nghiệp trong trường phổ thông cần được thống nhất chặt chẽ với công
tác hướng nghiệp trong xã hội, hai bộ phận này quan hệ mật thiết bổ sung hỗ
trợ cho nhau mới đem lại hiệu quả cao cho công tác hướng nghiệp.
12
- Theo quan điểm mới[1] giáo dục hướng nghiệp được phát triển qua 4
giai đoạn bao gồm: định hướng nghề, tư vấn nghề, tuyển chọn nghề, thích ứng
nghề.
- Thực hiện 2 giai đoạn đầu( định hướng nghề; tư vấn nghề) là nhà
trường phổ thông , thực hiện 2 giai đoạn cuối( tuyển chọn nghề và thích ứng
nghề) là trách nhiệm của các trường chuyên nghiệp và các doanh nghiệp.
*
Hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông:
Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông (HSPT) là một hoạt động giáo

dục trong nhà trường phổ thông nhằm giúp cho học sinh có những hiểu biết
thông thường về nghề nghiệp để có định hướng phát triển, lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp với hứng thú cá nhân, năng lực bản thân và nhu cầu xã hội.
Trong cơ sở đó, các em tiếp tục học tập, rèn luyện để có thể phát triển trong
hoạt động nghề nghiệp tương lai.
Hướng nghiệp cho HSPT góp phần vào việc phân luồng học sinh cấp
trung học, là bước khởi đầu của quá trình phát triển nguồng nhân lực của xã
hội.
Trong trường phổ thông, thực chất công tác hướng nghiệp là quá trình
giáo dục nhằm điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp của thế hệ trẻ nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, mối quan hệ giữa cá nhân với
nghề, giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có ý thức nhằm đảm bảo cho con
người hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp và đạt năng suất lao động cao.
Như vậy, “Hướng nghiệp cho HSPT là một hệ thống biện pháp tác
động của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường đóng vai trò
chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tâm thế và kỹ năng để
các em có thể sẵn sàng đi vào lao động hoặc tự tạo việc làm ở các ngành nghề
mà xã hội đang phát triển, đồng thời phù hợp với hứng thú và năng lực cá
nhân”.[34.29]
1.2.2.Tư vấn hướng nghiệp.
1.2.2.1. Tư vấn:
Trong thực tế chúng ta thường thấy xuất hiện các cụm từ có liên quan
đến tư vấn như: Tư vấn học đường, tư vấn hôn nhân và gia đình, tư vấn việc

13
làm…Đồng thời cũng tồn tại những tổ chức dịch vụ tư vấn hiện có như :
Trung tâm tư vấn và xúc tiến việc làm, trung tâm tư vấn hôn nhân và gia đình,
trung tâm tư vấn nghề….
Vậy tư vấn là gì?. Có thể hiểu tư vấn là một hoạt động thông tin, trong
đó nhà tư vấn đưa ra những lời khuyên hoặc các gợi ý giúp đối tượng cần tư

vấn có được những thông tin và những tri thức cần thiết về những vấn đề mà
họ quan tâm.
Nói cách khác, tư vấn là việc đưa ra lời khuyên, giải pháp kỹ thuật
được tiến hành bởi nhà tư vấn, giúp cho người có nhu cầu( khách hàng) thực
hiện được một công việc hay một chuyên môn cho trước. Còn nhà tư vấn là
những người hiểu biết, có năng lực chuyên môn phù hợp, có khả năng đưa ra
lời khuyên hoặc giải pháp kỹ thuật mang tính khả thi cho những người có nhu
cầu, nhằm giúp họ giải quyết một vấn đề chuyên môn hay một nhiệm vụ thực
tế xác định.
Như vậy xét một cách tổng quát ta có thể thấy, tư vấn là một dịch vụ trí
tuệ, một hoạt động “chất xám” cung ứng cho khách hàng những lời khuyên
đúng đắn về chiến lược, biện pháp hành động và giúp đỡ, hướng dẫn khách
hàng thực hiện những lời khuyên đó, kể cả tiến hành những nghiên cứu soạn
thảo dự án và giám sát quá trình thực thi dự án đạt hiệu quả.
Tư vấn là một hoạt động có đối tượng, trong đó chủ thể là một cá nhân
hay một tổ chức có kinh nghiệm nắm vững một lĩnh vực hoạt động nào đó.
Chủ thể tư vấn thu nhận, sàng lọc, chuyển tải thông tin và có khả năng ứng xử
với đối tượng để thoả mãn nhu cầu của đối tượng tư vấn ở mức độ cần thiết.
Do tính phức tạp về nhu cầu của đối tượng tư vấn mà chủ thể tư vấn thường
gồm những chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Xã hội học, Tâm lý
học, Y học, Thươmg mại, Khoa học kỹ thuật, Văn hoá, Mỹ thuật…
14
Đối tượng tư vấn có thể là bất cứ học sinh nào, nhóm học sinh, cha mẹ
học sinh nào nếu họ có nhu cầu tư vấn.
- Vai trò, chức năng của tư vấn
Với vị trí độc lập và trên cơ sở kiến thức, với kinh nghiệm phong phú
của mình, nhà tư vấn đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn, xúc tác, đạo diễn và
thực hiện chức năng “tham mưu đốc chiến” cho các loại khách hành theo từng
lĩnh vực nghề nghiệp, chuyên môn .
Nhà tư vấn không trực tiếp chỉ đạo, điều hành công việc của khách

hàng, chỉ chịu trách nhiệm về chất lượng của dịch vụ tư vấn mà không phải
chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của công việc do khách hàng và bộ
máy tổ chức của khách hàng thực hiện.
Mối quan hệ giữa chủ thể tư vấn và đối tượng tư vấn là mối quan hệ tác
động, cải biến, trong đó chủ thể tư vấn ở vị trí tạo nên sự tác động nhờ việc
chuyển tải thông tin, phân tích, khuyên nhủ. Đối tượng tư vấn ở vị trí của
những người được cải biến nhờ việc tiếp nhận những thông tin chưa rõ ràng
hoặc thiếu hụt. Kết quả cuối cùng của tư vấn có thể là sự chuyển biến về nhận
thức và cũng có thể là sự thay đổi những quyết định lớn trong cuộc đời. Song
nếu thông tin thiếu toàn diện, ứng xử của chủ thể chưa thấu tình đạt lý, có thể
dẫn đối tượng tư vấn tới những nhận thức hoặc việc làm vô bổ, sự cải biến
diễn ra theo chiều hướng xấu. Hiệu quả quyết định của đối tượng tư vấn phụ
thuộc vào năng lực nhận thức, nguồn thông tin, khả năng tiếp nhận và xử lý
thông tin của đối tượng.
- Phân loại tư vấn
Căn cứ vào những dấu hiệu khác nhau của hoạt động tư vấn, nếu đem
nhóm họp những cuộc tư vấn có chung một dấu hiệu cùng loại, ta có thể nhận
được một số loại tư vấn sau:
15
Dựa trên mục đích tư vấn chúng ta có : tư vấn giáo dục và tư vấn kinh
doanh, tư vấn pháp luật, tư vấn khoa học công nghệ, tư vấn phản biện, tư vấn
giám định xã hội( có liên quan đến chính sách cụ thể)
Dựa trên thành phần tuổi tác, giới tính, ta có các loại tư vấn như: Tư
vấn cho trẻ em, tư vấn cho thanh niên, tư vấn cho phụ nữ, tư vấn cho những
nguời khuyết tật…
Dựa vào nội dung tư vấn, ta có các loại tư vấn như: Tư vấn nghề
nghiệp, tư vấn việc làm, tư vấn giá cả, tư vấn y học, tư vấn hôn nhân, tư vấn
gia đình…
Dựa vào khoảng cách không gian giữa chủ thể và đối tượng tư vấn có
tư vấn trực tiếp, hoặc tư vấn gián tiếp.

Dựa vào vùng địa lý, hoạt động tư vấn có thể chỉ giới hạn trong phạm
vi một địa phương, một khu vực, trên toàn quốc hoặc mở rộng trên phạm vi
toàn thế giới. Tuỳ vào khả năng, nội dung và mục đích tư vấn, hoạt động tư
vấn có thể chỉ giới hạn trong một cơ quan, một thành phố, một tỉnh, song
cũng có thể hoạt động tư vấn vươn ra ngoài lãnh thổ quốc gia do các công ty
tư vấn có tên tuổi đảm nhận.
Dựa trên số luợng tham gia vào quá trình tư vấn có tư vấn cá biệt và tư
vấn nhóm.
- Đặc thù của hoạt động tư vấn
Tư vấn là một lĩnh vực hoạt động trí tuệ bao gồm bốn loại hình hoạt
động quan hệ mật thiết, nghiên cứu, xử lý thông tin, đào tạo giúp đỡ kỹ thuật.
Loại hoạt động này bao gồm những chuyên môn tổng hợp mà không do cơ sở
giáo dục nào đào tạo được hoàn chỉnh, đây là loại dịch vụ chất xám điển hình.
Một hoạt động khác của hoạt động tư vấn được thể hiện trong yêu cầu
không ngừng tự học, tự vươn cao của nhà tư vấn. Hơn ai hết, nhà tư vấn phải
học hỏi suốt đời, học trong sách vở, qua thông tin, qua kinh nghiệm thực
16
tiễn Các công ty tư vấn phải lập và thực hiện một chương trình đào tạo nội
bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và xây dựng một lực lượng chuyên gia tư vấn
tinh nhuệ.
Trong quá trình tác nghiệp của nhà tư vấn thì dữ liệu và các yếu tố để
phân tích, thông tin là dữ liệu có bối cảnh, kiến thức là thông tin mang ý
nghĩa, trí không là kiến thức cộng uyên thâm, công tư vấn là chuyển giao trí
khôn. để thành nhà tư vấn thì phải thạo nhiều chuyên môn liên quan.
Cuối cùng, một nhà tư vấn, một đơn vị tư vấn nhất thiết phải tôn trọng
và tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc đạo đức nghề nghiệp – sợi chỉ đỏ xuyên
suốt phân biệt tư vấn chân chính với tư vấn giả hiệu.
1.2.2.2. Tư vấn hướng nghiệp.
Công tác tư vấn hướng nghiệp hay tư vấn nghề cũng giống như định
hướng nghề và tuyển chọn nghề được tiến hành trong những điều kiện kinh tế

xã hội nhất định, có những quy luật phát triển đặc thù, đồng thời được xem là
biện pháp tác động trực tiếp đến con người. Tư vấn nghề là một trong những
nhân tố hình thành ở con người hệ thống thái độ đối với thế giới nghề nghiệp
và đối với bản thân mình.
Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà ở mỗi nước có cách nhìn và cách
gọi khác nhau về tư vấn hướng nghiệp, ví dụ như ở Mỹ, Canada thì gọi là“
Hướng dẫn chọn nghề” hay “ Hướng dẫn con đường mưu sinh”, và họ cho
rằng: “ Hướng dẫn chọn nghề là quá trình giúp đỡ học sinh chọn nghề, là quá
trình chuẩn bị cho học sinh đi làm, cũng tức là quá trình giúp con người có cơ
thành đạt trong nghề”. Ở Liên Xô (cũ) thì gọi là “ Hướng nghiệp”, cho rằng :“
Hướng nghiệp gồm ba khâu là; định hướng nghề, tư vấn nghề và tuyển chọn
nghề, có nhiệm vụ chuẩn bị về tư tưởng và thực tế cho học sinh tốt nghiệp
trung học sẵn sàng tham gia lao động và lựa chọn nghề nghiệp, tức là nhằm
kết hợp con người do nhà trường đào tạo ra với nhu cầu của kinh tế”. Nhật
17
Bản thì gọi là “ Hướng dẫn tiền đồ” tức là hướng dẫn học sinh sau khi tốt
nghiệp hoặc sẽ học lên hoặc bước vào đời. Pháp, Đức, Anh thì gọi là “ Tư vấn
nghề”. Trung Quốc thì gọi là “ Hướng dẫn chọn nghề”, Hồng Kông gọi là “
Phụ đạo nghề”[47].
Theo ý kiến của K.K. Platonov tư vấn nghề là “Hệ thống những hình
thức y học và những hình thức tác động đa dạng khác nhằm phát hiện và
khám phá những khả năng tinh thần và thể lực của học sinh trong lựa chọn.
E.A Klimov cho rằng " Tư vấn nghề là một trong những nhóm( mắt
xích) chỉ đạo sư phạm bằng quá trình định hướng nghề của tuổi trẻ.
Theo P.A Savin thì “ Tư vấn nghề thực hiện chức năng liên kết giúp cho
học sinh đối chiếu hứng thú sở thích và những khả năng vốn có của mìnhvới
nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.
Trong từ điểm tâm lý học của Đức cũng cho rằng tư vấn nghề là “ hoạt
động tư vấn giúp cá nhân, đặc biệt là thanh niên trong quá trình định hướng,
tìm chọn cũng như thay đổi nghề.

* Ở Việt Nam có nhiều định
hướng
khác nhau về TVHN, sau đây là
một số định nghĩa:
- TVHN là hệ thống những biện pháp tâm lý - giáo dục nhằm đánh giá
toàn bộ sở thích, điều kiện, hoàn cảnh, năng lực thể chất và trí tuệ của thanh
thiếu niên, đối chiếu các năng lực đó với những yêu cầu do nghề hay nhóm
nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc tới nhu cầu của xã hội, trên
cơ sở đó cho họ những lời khuyên về chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ
những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề.
- TVHN được hiểu là hệ thống những biện pháp tâm lý - giáo dục và y
học nhằm đánh giá nhân cách của học sinh, giúp các em chon nghề trên cơ sở
khoa học. Nói cách khác, TVHN là việc đối chiếu yêu cầu của thị trường lao
18
động với hứng thú, khuynh hướng của học sinh rồi cho các em lời khuyên nên
học nghề nào phù hợp.
- TVHN là hệ thống những biện pháp y học, tâm lý sư phạm, nhằm phát
triển chuẩn đoán và đánh giá sự phát trienr chủ quan của con người, nhằm
giúp cho thế hệ trẻ có cơ sở khoa học hợp lý khi lựa chọn nghề.
Như vậy, “TVHN là hệ thống những biện pháp tâm lý - giáo dục nhằm
đánh giá toàn bộ về năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu
các năng lực đó với yêu cầu do nghề hay nhóm nghề đặt ra đối với người lao
động, có cân nhắc tới nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội, trên cơ sở
đó cho họ nhứng lời khuyên về chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những
trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề”[33.4]
1.2.3. Mục đích của công tác tư vấn hướng nghiệp
Quá trình phát triển nghề nghiệp của con người với 3 thời kỳ cơ bản:
- Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ chọn nghề. Thời kỳ này sẽ nảy sinh và
hình thành khuynh hướng, động cơ, hứng thú, nguyện vọng nghề nghiệp
dưới ảnh hưởng của gia đình, nhà trường và xã hội. Việc chọn nghề đánh

dấu bước chuyển từ tuổi niên thiếu sang tuổi sắp trưởng thành và đối với học
sinh trong đại đa số các trường hợp thì sự lựa chọn ấy chủ yếu diễn ra ở nhà
trường phổ thông.
- Thời kỳ thứ hai là thời kỳ thích ứng nghề diễn ra ở bất kỳ loại trường
chuyên nghiệp nào (dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học). Các chỉ tiêu
tâm lý của giai đoạn này là tự đánh giá về quyết định của mình đối với nghề
đã chọn, đồng thời biểu thị tinh thần học hỏi, say mê với công việc.
- Thời kỳ thứ ba là thời kỳ phù hợp nghề, nó diễn ra ở nơi làm việc, tại
các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Việc chọn nghề, thích ứng nghề và phù hợp nghề là một quá trình
thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau trong hoạt động của con người.
19
Hình 1.2: Sơ đồ quá trình phát triển nghề nghiệp
Gia đình, trường PT,
trường chuyên nghiệp,
các tổ chức xã hội,
phương tiện thông tin
Cơ sở sản
xuất kinh
doanh
Cơ quan
chuyên môn
Định hướng nghề
chọn nghề(các
hướng đi)
Thích ứng nghề
học nghề(trang bị
kiến thức kỹ
năng)
Phù hợp nghề

hành nghề
Bồi dưỡng
Đào tạo lại
Sự phù hợp nghề của một người bao giờ cũng bộc lộ ở 2 phương diện:
năng lực và phẩm chất trong lao động nghề nghệp theo yêu cầu của nghề đó
đặt ra, chúng luôn thống nhất với nhau, chuyển hóa lẫn nhau.
Theo tác giả Phạm Tất Dong “Giúp bạn chọn nghề” NXB Giáo dục
1989 trang 76-77: một người được coi là phù hợp với một nghề nào đó nếu họ
có những phẩm chất, đặc điểm tâm lý và sinh lý đáp ứng với những yêu cầu
cụ thể của nghề đòi hỏi ở người lao động. Có 3 mức độ phù hợp của nghề:
- Phù hợp hoàn toàn
- Phù hợp có mức độ - bồi dưỡng, cập nhật.
- Không phù hợp – đổi nghề - Đào tạo lại

×