Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Ứng dụng Stress Test trong việc đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro kinh tế của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH





CÔNG TRÌNH DỰ THI

GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2012”



Tên công trình






ỨNG DỤNG STRESS TEST TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ KHẢ
NĂNG CHỊU ĐỰNG RỦI RO KINH TẾ CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


















THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
Ứng dụng stress test trong việc đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro
kinh tế của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam




Lý do chọn đề tài

Hệ thống ngân hàng giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống tài chính của một quốc
gia, do vị trí trung gian của nó trong việc điều hòa vốn của nền kinh tế, đồng thời là
một công cụ thực thi chính sách tiền tệ một nước. Vì vậy, việc đảm bảo tính an toàn,
ổn định và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng là một trong những ưu tiên hàng đầu
trong chính sách kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng toàn cầu và khủng hoảng nợ công Châu Âu, tình hình kinh tế Việt Nam liên
tục bất ổn khiến hoạt động của hệ thống ngân hàng gặp phải rất nhiều khó khăn.
Một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để các tổ chức tài chính có thể hấp thụ các
cú sốc bất ngờ và hồi phục sau những biến động vĩ mô bất lợi đến nay vẫn chưa
được giải quyết. Sử dụng công cụ Stress Test, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu vấn đề

này cho các định chế tài chính trên thế giới. Đặc biệt, đề tài sẽ vẽ nên một bức tranh
tổng thể tình hình hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các kiến nghị
cho từng ngân hàng cụ thể cũng như cho toàn hệ thống. Vì lý do đó, tác giả đã chọn
và thực hiện đề tài:

“Ứng dụng Stress Test trong việc đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro kinh tế của
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”


Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây

Tháng 4 năm 1995, Ủy ban Basel đề xuất phương pháp tiếp cận mô hình nội bộ theo

đó các ngân hàng cần phải thực hiện Stress Test để gia tăng vốn cần thiết.

Berkowitz (1999), cung cấp cách tiếp cận lý thuyết Stress Test áp dụng cho lĩnh vực
tài chính như là một thay thế cho phương pháp tiếp cận VaR khi mà phương pháp
này không xét đến tác nhân làm thay đổi rủi ro hiện tại. Mô hình Stress Test được
phát triển bởi Berkowitz (1999) gợi ý một cách ước tính rủi ro danh mục tiềm ẩn
của các ngân hàng bằng cách kết hợp các biến động lịch sử của các hành vi kinh tế
vĩ mô vào mô hình.

Lee (2007) xem xét tác động của quy định về vốn lên sự ổn định cấu trúc tài chính ở
Hàn Quốc. Cụ thể, Lee (2007) xem xét mối quan hệ thực nghiệm giữa quy định về
vốn và các rủi ro kinh tế vĩ mô và thấy rằng mức vốn ngân hàng hiện tại đóng một
vai trò hạn chế trong việc hấp thụ các cú sốc kinh tế vĩ mô. Lee chứng minh tầm
quan trọng của việc nâng cao các tiêu chuẩn quy định đối với vốn ngân hàng ở cả
cấp độ vi mô và vĩ mô.

Nghiên cứu thực nghiệm của Renzo và các tác giả khác (2006) xem xét rủi ro vỡ nợ

của ngân hàng bằng cách dùng CDS (Credit Default Swap) như là một đại diện để
đo lường rủi ro tín dụng. Cho thấy rằng các rủi ro kinh tế vĩ mô trong lĩnh vực ngân
hàng nên được coi là một trong những rủi ro chính đe dọa khả năng thanh khoản của
ngân hàng.

Tiếp đó, tháng 1 năm 2009, Ủy ban Basel xuất bản tài liệu tư vấn về Stress Test. Tài
liệu này nhấn mạnh tầm quan trọng Stress Test trong việc xác định mức vốn cần
thiết để hấp thụ các tổn thất khi các cú sốc xảy ra. Thêm vào đó, Ủy ban Basel yêu
cầu các tính toán về rủi ro thị trường đi kèm với Stress Test chặt chẽ và toàn diện
hơn.


Mục tiêu nghiên cứu

Thông qua kinh nghiệm từ các nước, Stress Test được chứng minh có khả năng giúp
khôi phục lòng tin cho hệ thống tài chính, làm tăng tính minh bạch và giảm thiểu
các rủi ro không chắc chắn cho thị trường trong thời kì khủng hoảng. Mục tiêu của
phương pháp nghiên cứu này là giúp cho các nhà điều hành chính sách và NHNN có
thể xác định được nguồn gốc tiềm ẩn của các rủi ro hệ thống, đồng thời đo lường
các khoản lỗ có thể phát sinh khi rủi ro xảy ra đối với các tổ chức tài chính nòng
cốt. Từ đó đưa ra hướng giải quyết thích hợp nhằm nâng cao chất lượng của hệ
thống tài chính trong mối quan hệ với các chính sách vĩ mô khác.


Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài vận dụng các phương pháp:
- Phương pháp đánh giá kiểm soát vốn SCAP: được sử dụng để đo lường giá trị
tổn thất trong tương lai của các ngân hàng khi theo diễn biến của tình hình kinh
tế vĩ mô.

- Phương pháp toán kinh tế - thống kê mô tả: Dựa vào các số liệu thu thập được và
diễn dịch thông qua hình vẽ, biểu đồ để đưa ra các nhận xét và kết luận ban đầu
về vấn đề cần được rút ra. Trên cơ sở đó, tạo nền tảng cho phân tích định lượng
sâu hơn, cụ thể là chương trình đánh giá kiểm soát vốn.
- Phương pháp duy vật biện chứng: Các đối tượng nghiên cứu sẽ được đặt trong
mối quan hệ nhân quả, tác động lẫn nhau. Mọi vấn đề sau khi được giải quyết sẽ
được tổng kết hoặc mô hình hóa một cách tổng quan.

Nội dung nghiên cứu

Bài nghiên cứu dưới đây bước đầu sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về công cụ ưu
việt này. Từ thực tiễn số liệu có được từ các ngân hàng, bài nghiên cứu sẽ đo lường
khả năng hấp thụ các giá trị rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt trong mối tương quan
với kế hoạch thực hiện của Chính phủ. Cuối cùng dựa vào kinh nghiệm của các
nước để xây dựng nên một lộ trình thực hiện Stress Test cho tình hình cụ thể Việt
Nam.

Để trả lời câu hỏi trên, bài nghiên cứu sẽ đi qua các phần sau:

- Chương 1: Khái quát công cụ đánh giá rủi ro - Stress Test cho hệ thống ngân

hàng

- Chương 2: Đo lường khả năng chịu đựng rủi ro kinh tế của các ngân hàng
thương mại Việt Nam
- Chương 3: Đề xuất lộ trình áp dụng Stress Test vào thực tiễn Việt Nam và giải
pháp nhằm nâng cao khả năng chịu đựng rủi ro kinh tế cho các ngân hàng
thương mại trong thực tế

Đóng góp của đề tài


Stress Test là thuật ngữ còn khá mới đối với Việt Nam hiện nay. Qua các chương
được nghiên cứu, đề tài đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về công cụ quản trị rủi
ro Stress Test, cách thực tiến hành Stress Test cho toàn hệ thống ngân hàng ở các
nước, từ đó cô đọng hóa thành các bước thực hiện để có thể dễ dàng áp dụng cho
Việt Nam.

Sau đó dựa vào báo cáo tài chính của các ngân hàng được công bố vào thời điểm
thực hiện nghiên cứu, đề tài đã vận dụng các phương pháp và bước thực hiện được
đề cập ở trên để tiến hành đo lường các giá trị rủi ro và khả năng chịu đựng của các
ngân hàng.

Cuối cùng, để chương trình đánh giá kiểm soát vốn thật sự hiệu quả, bài nghiên cứu
đã xây dựng lộ trình áp dụng chương trình Stress Test vào thực tiễn Việt Nam, mô
tả các bước thực hiện và chuẩn bị một cách chi tiết. Đồng thời bài nghiên cứu còn
đề xuất các giải pháp giúp nâng cao khả năng chịu đựng các rủi ro và cú sốc kinh tế
trong bối cảnh hiện nay.


Hướng phát triển của đề tài

Do hạn chế về mặt thời gian và khả năng tiếp cận số liệu, bài nghiên cứu vẫn còn
hạn chế trong việc phân tích một cách toàn diện về khả năng chịu đựng của toàn bộ
hệ thống ngân hàng cũng như các rủi ro được đề cập trong phương pháp thực hiện.
Vì vậy bài nghiên cứu bước đầu tạo nền tảng về công cụ quản trị rủi ro Stress Test
để các bài nghiên cứu tiếp theo có thể tiến hành phân tích sâu hơn và chi tiết hơn
cho từng đối tượng cụ thể.

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ RỦI RO – STRESS TEST

CHO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 3

1.1 Tổng quan về phương pháp Stress Test 3

1.1.1 Khái niệm Stress Test 3
1.1.2 Vai trò của Stress Test 3
1.1.2.1 Nắm bắt được các tác động lên ngân hàng khi các sự kiện không thường

xuyên xảy ra và gây nên tổn thất lớn 4

1.1.2.2 Xác định và kiểm soát rủi ro 4
1.1.2.4 Đưa ra quyết định về mức độ chịu đựng rủi ro và phân bổ nguồn lực 5
1.1.3 Phân loại Stress Test 6
1.1.3.1 Theo mức độ kiểm định 6
1.1.3.2 Theo phương pháp kiểm định 7
1.2 Mô hình thực hiện Stress Test vĩ mô cho hệ thống ngân hàng 9

1.2.1 Mô tả thử nghiệm chương trình Stress Test 9

1.2.2 Các bước thực hiện 12
1.2.2.1 Bước thứ nhất, xây dựng kịch bản vĩ mô 12
1.2.2.2 Bước thứ hai, tính tốc độ tăng trưởng NPLs và tổng dư nợ 13

1.2.2.3 Bước thứ ba, đánh giá các khoản lỗ tín dụng và khoản lỗ thị trường mà
ngân hàng gánh chịu 17

1.2.2.4 Bước thứ tư, ước tính tác động liên ngân hàng 26
1.2.2.5 Bước thứ năm, xác định mức vốn yêu cầu tối thiểu đối với các ngân hàng
sau khi trừ đi các khoản lỗ ước tính 29

1.2.3 Đặc tính vượt trội của chương trình đánh giá kiểm soát vốn 29

CHƯƠNG 2 - ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG CHỊU ĐỰNG RỦI RO KINH TẾ CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 34

2.1 Mục đích đo lường 34

2.2 Đo lường thực trạng chịu đựng rủi ro kinh tế của các NHTM Việt Nam 35

2.2.1 Xác định và dự báo các biến vĩ mô 36
2.2.1.1 Xác định các biến vĩ mô được dự báo 36
2.2.1.2 Xây dựng kịch bản 38
2.2.2 Đo lường giá trị tổn thất và khả năng hấp thụ của các ngân hàng 46

2.3 Nhận xét kết quả 54

CHƯƠNG 3 - ĐỀ XUẤT LỘ TRÌNH ÁP DỤNG STRESS TEST VÀO THỰC
TIỄN VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CHỊU
ĐỰNG RỦI RO KINH TẾ CHO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
THỰC TẾ 58

3.1 Kiến nghị lộ trình thực hiện Stress Test cho hệ thống ngân hàng Việt Nam . 58


3.1.1 Mục đích thực hiện 59

3.1.2 Đối tượng thực hiện 59

3.1.3 Phương pháp thực hiện và cách thức tiến hành Stress Test 60
3.1.3.1 Khái quát về chương trình thực hiện 60
3.1.3.2 Các bước tiến hành Stress Test thường niên 61
3.1.4 Các hành động sau khi có kết quả Stress Test 64

3.2 Khảo sát khả năng đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vốn và các phương pháp nâng
cao nguồn vốn và chất lượng hoạt động cho các NHTM Việt Nam 65
3.2.1 Quy định Hiệp ước Basel III và thực trạng đáp ứng của NHTM Việt

Nam 65

3.2.2 Các phương pháp nâng cao nguồn vốn và chất lượng hoạt động cho các
NHTM Việt Nam 68

3.2.2.1 Một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP 69
3.2.2.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTMCP 73
KẾT LUẬN 78

PHỤ LỤC 1 - KHUYẾN NGHỊ CỦA BASEL NHẰM TĂNG HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG STRESS TEST i

PHỤ LỤC 2 - GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM iv

PHỤ LỤC 3 - ĐO LƯỜNG TƯƠNG QUAN HỒI QUY CỦA TỶ SỐ NPL VỚI
CÁC BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ xii


PHỤ LỤC 4 - ĐO LƯỜNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM xvii

TÀI LIỆU THAM KHẢO xix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ALLL
Dự phòng cho khoản cho vay và cho thuê
CAR
Hệ số an toàn vốn
EAD
Tổng dư nợ của khách hàng thời điểm khách hàng không trả được nợ
EL
Tồn thất có thể ước tính
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
LGD
Tỷ trọng tổn thất ước tính
MCAR
Tỷ lệ vốn tối thiểu bắt buộc
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN
Ngân hàng thương mại nhà nước
NPL

Nợ xấu của ngân hàng
npl
Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng
PD
Xác suất khách hàng không trả được nợ
PPNR
Doanh thu thuần trước khi được điều chỉnh bởi khoản dự phòng
RR
Rủi ro
RWA
Tài sản tính theo rủi ro gia quyền
SCAP
Chương trình đánh giá kiểm soát vốn
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Các biến dùng trong mô hình hồi quy

Bảng 1.2: Tác động của lãi suất đối với giá trị của ngân hàng
Bảng 1.3: CAR của ngân hàng tương ứng với PD
Bảng 2.1: Kịch bản vĩ mô

Bảng 2.2: Giá trị rủi ro tỷ giá của các ngân hàng theo từng kịch bản
Bảng 2.3: Giá trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng theo từng kịch bản
Bảng 2.4: Giá trị rủi ro còn lại sau khi đã hấp thụ bởi lợi nhuận ròng của các ngân

hàng

Bảng 2.5: Hệ số CAR các ngân hàng theo thống kê gần nhất

Bảng 3.1: Tổng quan về chương trình thực hiện Stress Test định kỳ

Bảng 3.2: Lộ trình thực thi các quy định của hiệp ước Basel III
Bảng 3.3: Chỉ số CAR của BIDV qua các năm 2005 – 2009
DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Stress Test và các sự kiện bất ngờ có tầm ảnh hưởng lớn

Hình 1.2: Sự phân bổ và xác định nguồn lực

Hình 1.3: Bảng tính thu nhập ròng và vốn bắt buộc của ngân hàng

Hình 1.4: Khuôn khổ của Stress Test

Hình 2.1: Biến động chỉ số giá tiêu dùng (trái) và CPI theo các nhóm ngành (phải)

Hình 2.2: Biến động tăng trưởng chỉ số kinh tế chung (trái) và tăng trưởng GDP các
nước (phải)

Hình 2.3: Đường cong lãi suất tiền gửi danh nghĩa khối NHTMNN và khối

NHTMCP (30/06/2007 – 2011)
Hình 2.4: Biến động lãi suất thực và danh nghĩa
Hình 2.5: Tỷ giá VND/USD theo ngày và biên độ (2008 – 2011)

Hình 2.6: Lợi nhuận thuần của một số ngân hàng thương mại năm 2006 - 2011
1



LỜI MỞ ĐẦU


“Tái cấu trúc kinh tế” là thuật ngữ thường thấy khi nhắc đến kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây. Sự mất cân đối sẵn có của thị trường tài chính cộng thêm
hệ lụy từ cuộc khủng hoảng toàn cầu và khủng hoảng nợ công Châu Âu khiến cho
tình hình ngày càng nghiêm trọng. Từ thực trạng đó, tại kỳ họp thứ hai của Quốc
Hội khóa XIII, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu tương lai là xây dựng mô hình đổi
mới, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả cạnh tranh.
Để thực hiện được mục tiêu trên, một trong ba trọng tâm cần được giải quyết đó là
cải cách hệ thống ngân hàng.

Hệ thống ngân hàng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia do
vị thế trung gian trong việc kết nối các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn. Mọi hoạt
động của định chế này đều có ảnh hưởng truyền dẫn trực tiếp đến sức khỏe của
toàn bộ hệ thống tài chính cũng như là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của
NHNN. Từ khi ra đời vào năm 1951 cho đến nay, ngành ngân hàng không ngừng
phát triển về quy mô và chất lượng hoạt động. Đặc biệt, năm 2007 đánh dấu sự gia
tăng vượt bậc về số lượng các ngân hàng mới được thành lập và cũng chính là thời
điểm mà những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống bắt đầu được bộc lộ và đi theo chiều
hướng mất kiểm soát. Để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng việc đầu tiên là phải xây
dựng các chỉ tiêu để giám sát an toàn, đánh giá mức độ lành mạnh, tính hiệu quả
trong hoạt động, từ đó phân loại các ngân hàng thành từng nhóm tương thích để có
thể áp dụng chính sách phù hợp cho từng nhóm. Tuy nhiên, đây là một thách thức
lớn vì trong điều kiện hệ thống ngân hàng chịu tác động liên tục từ môi trường vĩ
mô bên ngoài, chẳng hạn như các chính sách quản lý và giám sát của nhà nước,
khủng hoảng tài chính thế giới, khủng hoảng nợ công… thì hệ thống tiêu chuẩn này
không thể đo lường được tính hiệu quả và an toàn của các ngân hàng cũng như hỗ
trợ các nhà quản trị ngân hàng trong việc ra quyết định. Như vậy, đòi hỏi cần phải
có một hệ thống đo lường khác, một mô hình khác ưu việt hơn nhằm đánh giá hợp
lý nhất sức khỏe của hệ thống ngân hàng trong từng điều kiện kinh tế khác nhau,
giải pháp này chính là Stress Test - mô hình này từng được Chính phủ Mỹ thực hiện
đầu năm 2009 bởi sự dẫn dắt của Bộ trưởng Timothy Geithner.

2



Khái niệm Stress Test đã được đề cập vào đầu năm 1990, nhưng đến năm 2008
sau khi ngân hàng Lehman Bros sụp đổ kéo theo cuộc khủng hoảng toàn cầu thì
Stress Test mới được sử dụng hiệu quả để giúp các ngân hàng đưa ra quy định đổi
mới và phòng ngừa rủi ro. Một trong các đặc tính vượt trội của Stress Test là giúp
các nhà điều hành đưa các giả định của mình vào mô hình, thử nghiệm với từng
kịch bản, từ đó đưa ra quyết định chính xác hơn với tình hình hiện tại và tiềm lực
riêng của mỗi tổ chức. Đây không chỉ là công cụ giúp các nhà điều hành chính sách
quản lý hệ thống tài chính của mình mà còn là công cụ quản lý rủi ro của từng ngân
hàng.

Bài nghiên cứu dưới đây bước đầu sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về công cụ ưu
việt này. Từ thực tiễn số liệu có được từ các ngân hàng, bài nghiên cứu sẽ đo lường
khả năng hấp thụ các giá trị rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt trong mối tương quan
với kế hoạch thực hiện của Chính phủ. Cuối cùng dựa vào kinh nghiệm của các
nước để xây dựng nên một lộ trình thực hiện Stress Test cho tình hình cụ thể Việt
Nam.
3



CHƯƠNG 1


KHÁI QUÁT CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ RỦI RO – STRESS TEST

CHO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG







1.1 Tổng quan về phương pháp Stress Test

1.1.1 Khái niệm Stress Test

Theo định nghĩa chung, Stress Test là khái niệm dùng để chỉ công cụ mô tả mức
độ biến động của danh mục khi có sự xuất hiện đột ngột của các biến cố vĩ mô có
tầm ảnh hưởng lớn. Stress Test được xem là một công cụ hữu dụng bởi nó cung cấp
các thông tin về sự thay đổi của thị trường dưới tác động của các sự kiện lớn trong
khi hầu hết các tài sản thị trường và các khoản thu nhập trong quá khứ không cho
chúng ta biết về các tín hiệu đó.

Đối với các tổ chức tài chính, Stress Test được sử dụng rộng rãi hơn với vai trò
là một công cụ quản trị rủi ro đo lường tác động của các rủi ro khác nhau, bao gồm
rủi ro thị trường (các khoản lỗ xảy ra khi có sự thay đổi trong giá hay lãi suất), rủi
ro tín dụng (các khoản lỗ xuất hiện khi người đi vay hay người được cấp tín dụng bị
phá sản), rủi ro thanh khoản (sự mất thanh khoản của các tài sản và sự rút vốn ồ ạt
của người cho vay). Dần dần Stress Test được ứng dụng với quy mô rộng hơn, mục
đích để đo lường độ nhạy cảm của một nhóm các tổ chức (như một nhóm các ngân
hàng thương mại) hoặc là toàn bộ hệ thống tài chính dưới tác động của một cú sốc
nào đó.

1.1.2 Vai trò của Stress Test

Stress Test được sử dụng để hỗ trợ các mô hình thống kê như VaR, và chủ yếu là

để bù đắp các khuyết điểm của các phương pháp thống kê khi các phương pháp này
không còn hiệu quả trong trường hợp xảy ra các biến cố lớn, đặc biệt là khủng
hoảng. Mục tiêu của công cụ Stress Test là có thể làm cho các rủi ro được nhận diện
rõ ràng hơn bằng cách đánh giá các khoản lỗ có khả năng xuất hiện của ngân hàng
trong điều kiện nền kinh tế không bình thường, từ đó đưa ra các quyết định quản trị
4



ở các lĩnh vực khác nhau. Theo các cuộc khảo sát và thảo luận về Stress Test cho
thấy rằng Stress Test có khả năng ứng dụng rất cao, các ứng dụng này sẽ được làm
rõ dưới đây.

1.1.2.1 Nắm bắt được các tác động lên ngân hàng khi các sự kiện không
thường xuyên xảy ra và gây nên tổn thất lớn

Công dụng đầu tiên của Stress Test là mô phỏng lại tình hình của các ngân hàng
khi thị trường có các biến động bất thường. Với công cụ thống kê VaR được biết
trước đó, chúng ta có thể phản ánh được sự biến động của giá cả thị trường hằng
ngày do những số liệu trong quá khứ được sử dụng để làm cơ sở dự đoán các biến
động trong tương lai, tuy nhiên đó cũng là khuyết điểm bởi các xu hướng trong quá
khứ có thể không được lặp lại. Với Stress Test chúng ta sẽ có thể đưa các biến động
bất ngờ có khả năng xảy ra trong quá khứ để dự đoán các thay đổi đột ngột sẽ xuất
hiện trong tương lai vào mô hình, do đó không bị ràng buộc bởi những sự kiện trong
quá khứ.

Hình 1.1: Stress Test và các sự kiện bất ngờ có tầm ảnh hưởng lớn


Các sự kiện có khả

năng xuất hiện thấp
được nắm bắt bởi
công cụ Stress Test

Rủi ro được thể hiện
bởi VaR đã từng xuất
hiện trong quá khứ











Nhân tố rủi ro


1.1.2.2 Xác định và kiểm soát rủi ro

Công dụng thứ hai của Stress Test là xem xét các rủi ro tiềm tàng mà các ngân
hàng có thể đối mặt, với phương pháp kiểm tra độ nhạy chúng ta có thể tính toán
được mức độ nhạy cảm của từng khoản mục ứng với mỗi rủi ro cụ thể. Từ đó có thể
xem xét tổng thể rủi ro và tác động tổng hợp của chúng, bởi tác động riêng rẽ của
5




mỗi loại rủi ro có thể sẽ không đáng kể nhưng tác động tổng hợp của chúng sẽ có
ảnh hưởng rất lớn đến toàn thể ngân hàng. Hơn nữa nó còn cho các ngân hàng biết
được các vị thế có khả năng bù trừ lẫn nhau nhằm đưa ra các biện pháp giải quyết
có hiệu quả.

Ngoài ra với các rủi ro mà công cụ thống kê VaR gặp khó khăn khi xác định thì
Stress Test một lần nữa thể hiện tính năng vượt trội của mình trong việc xác định
chúng. Ví dụ với các thị trường có biến động trong lịch sử là rất thấp (như tỷ giá hối
đoái được neo cố định) thì Stress Test sẽ giúp thiết lập các giới hạn có thể làm phá
vỡ cấu trúc ổn định trong quá khứ.

1.1.2.3 Đánh giá rủi ro của ngân hàng

Một trong những cải tiến đột phá của công cụ Stress Test là có thể đưa các kế
hoạch riêng của ngân hàng vào mô hình kiểm định.

một số tổ chức, công
cụ Stress Test được xem như là một khung nền, không chỉ bao gồm sự thay đổi giá
trị của các khoản mục trong và ngoài báo cáo tài chính của ngân hàng mà còn xem
xét đến các tác động có nguồn gốc từ các khoản doanh thu trong tương lai. Vì vậy
nó sẽ giúp cho các nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định khi phải đối diện với
các sự kiện không mong muốn, có thể làm giảm giá trị ngân hàng hay không với
các giả định và các mục tiêu mà ngân hàng đang theo đuổi.

1.1.2.4 Đưa ra quyết định về mức độ chịu đựng rủi ro và phân bổ nguồn lực


một số tổ chức, từ các kết quả được tính toán về mức độ thiệt hại có thể
có trong tương lai, các nhà quản lý cấp cao sẽ dùng làm cơ sở đưa ra mức độ chịu

đựng rủi ro của từng bộ phận. Sau đó chúng được liên kết lại và đưa ra quyết định
phân bổ nguồn lực một cách tốt nhất cho toàn ngân hàng. Có hai cách phân bổ
nguồn lực là trực tiếp và gián tiếp:

Phương pháp phân bổ trực tiếp, có hai cách tiếp cận: cách tiếp cận thứ nhất là
xây dựng các kịch bản dựa trên cấu trúc của ngân hàng, sau đó sử dụng các kết quả
tính toán được để hình thành nên quyết định phân bổ nguồn lực (được thể hiện phía
bên phải của hình 1.2); cách tiếp cận thứ hai sẽ xây dựng các kịch bản bất lợi nhất
mà ngân hàng có thể đối mặt trong tương lai, sau đó tùy thuộc vào khả năng xảy ra
6



và mức độ thiệt hại của từng trường hợp mà đưa ra các quyết định phân bổ. Quy
trình này đòi hỏi tính khách quan nhưng rất khó để đạt được bởi sự giới hạn của chu
kỳ cũng như chiều dài của dữ liệu lịch sử.

Phương pháp phân bổ gián tiếp, ngân hàng sẽ sử dụng các phương pháp khác
như VaR để xác lập các giới hạn và phân bổ nguồn lực từ trước, Stress Test sẽ được
sử dụng ở giai đoạn sau để đánh giá mức độ thích hợp của chúng và đảm bảo rằng
việc cân nhắc phân bổ nguồn lực từ trước là đúng (được biểu hiện phía bên phải của
hình 1.2).

Hình 1.2: Sự phân bổ và xác định nguồn lực








Nguồn
lực kinh
tế
VaR

Stress
Test




P/L
kế
hoạch
Rủi ro thị
trường

Rủi ro tín
dụng

Rủi ro tác
nghiệp

Rủi ro
khác

Lãi suất
l


Vốn chủ
sở hữu

Ngoại
hối

Khác







Kết quả
của Stress
Test được
sử dụng để
phân bổ
nguồn lực
thích hợp

1.1.3 Phân loại Stress Test

1.1.3.1 Theo mức độ kiểm định

Stress Test được chia làm hai loại: Stress Test hệ thống (vĩ mô) và Stress Test

danh mục (vi mô). Có một vài khác biệt giữa hai loại Stress Test này.


Thứ nhất, Stress Test hệ thống có mức độ vĩ mô hơn bởi vì các nhà phân tích
thường tìm hiểu sự thay đổi của môi trường kinh tế sẽ tác động như thế nào đến toàn
bộ hệ thống tài chính. Do đó Stress Test hệ thống sẽ xác định các biến động thông
qua các tổ chức và các biến động đó có thể phá vỡ sự ổn định tổng thể của hệ thống
tài chính, còn Stress Test danh mục chỉ xem xét đến các nhân tố riêng của từng danh
mục đầu tư.

Thứ hai, sự khác biệt được thể hiện ở sự phức tạp và mức độ tập hợp. Stress Test

hệ thống thường có mức độ tập hợp hay sự so sánh của nhiều danh mục khác nhau
7



hơn, và thường dựa vào các giả định và các phương pháp tính toán khác nhau. Việc
sử dụng Stress Test hệ thống không phải là để thay thế các thử nghiệm Stress Test
danh mục được thực hiện bởi từng tổ chức tài chính mà thay vào đó nó được thiết
kế để giúp cung cấp một cái nhìn rộng hơn về độ nhạy cảm của toàn bộ hệ thống khi
có sự xuất hiện của các cú sốc khác nhau. Do đó hầu hết các Stress Test hệ thống sử
dụng cùng một kịch bản như nhau cho các tổ chức khác nhau. Ngoài ra nếu các dữ
liệu thu thập được có mức độ đáng tin cậy cao thì các thử nghiệm Stress Test được
tạo ra trên các danh mục tổng hợp hay trên từng danh mục riêng lẻ cũng cung cấp
các thông tin chính xác về sự biến động của hệ thống.

1.1.3.2 Theo phương pháp kiểm định

Theo phương pháp này Stress Test sẽ được chia làm hai loại: Phân tích độ nhạy
và phân tích kịch bản.



Phân tích độ nhạy

Phân tích độ nhạy là loại kiểm định đơn giản nhất, xem xét sự thay đổi của từng
biến rủi ro khi các biến tài chính thay đổi một đơn vị. Loại kiểm định này cho ra kết
quả tương đối nhanh và thường được sử dụng bởi các nhà quản lý cấp cao để có cái
nhìn đầu tiên tương đối khi có sự thay đổi của các biến tài chính. Tác dụng thứ hai
của phân tích độ nhạy là kiểm định sự di chuyển của thị trường trong quá khứ với
nhiều nhân tố khác nhau. Có nhiều cách thực hiện trong ứng dụng này, một trong
những cách đó là xem xét tác động của các yếu tố rủi ro làm thị trường sụt giảm như
thế nào (ví dụ như tác động của lãi suất hay chứng khoán). Tuy nhiên cần phải lưu ý
nếu sự kết hợp các rủi ro không đúng với thực tế có thể cho ra kết quả không chính
xác. Hơn nữa vì sử dụng các dữ liệu trong quá khứ để xác định sự di chuyển của các
nhân tố rủi ro trong tương lai có thể dẫn đến các sai lầm như phương pháp VaR.

So với phân tích kịch bản dưới đây, phân tích độ nhạy chủ yếu dựa vào sự tương
quan của thị trường trong thực tế. Ngoài ra, chúng ta còn có thể sử dụng một biến
thể của kỹ thuật này: ban đầu xác định sự thay đổi của một nhân tố rủi ro sau đó sẽ
thông qua mối tương quan giữa các rủi ro trong từng giai đoạn cụ thể để xác định sự
thay đổi của các nhân tố rủi ro đó. Phương pháp này sẽ hỗ trợ nhiều trong việc đưa
8



ra các quyết định nhưng sẽ có sai lệch nhiều khi cấu trúc tài chính trong tương lai
xảy ra hiện tượng sụp đổ và không giống với quá khứ.


Phân tích kịch bản

Khác với phân tích độ nhạy, phân tích kịch bản phức tạp hơn, nó không xem xét

từng nhân tố rủi ro riêng lẻ khi có sự xuất hiện của các biến cố bất thường mà xem
xét toàn bộ rủi ro ngân hàng có thể gánh chịu cùng một lúc. Có hai cách tiếp cận
theo phương pháp này: cách tiếp cận thứ nhất là tập trung vào danh mục và cách
tiếp cận thứ hai là tập trung vào các sự kiện bất thường có thể diễn ra trong tương
lai.

Với cách tiếp cận thứ nhất, ban đầu các nhà quản lý rủi ro sẽ thảo luận và xác lập
các khoản lỗ có thể có của danh mục đầu tư được xây dựng bởi ngân hàng. Khi các
khoản lỗ này đã được thiết lập, bước tiếp theo là các nhà quản trị rủi ro cần phải xây
dựng các kịch bản ứng với từng khoản lỗ đó. Ví dụ với các ngân hàng xác định các
khoản lỗ có khả năng xảy ra là do sự thay đổi của lãi suất thì Stress Test sẽ được sử
dụng để xác định các khoản lỗ với từng mức thay đổi đó.

Ngược lại, với cách tiếp cận các sự kiện bất thường, thì kịch bản ở đây sẽ dựa vào
các sự kiện đặc biệt có khả năng xảy ra và xem xét các sự kiện này sẽ tác động đến
giá trị tài sản của ngân hàng như thế nào thông qua các nhân tố rủi ro. Các kịch bản
này thường được đưa ra bởi các quản lý cấp cao, thông thường là theo các tin tức
mới nhất ví dụ như sự tăng lên của lãi suất ngắn hạn sẽ ảnh hưởng như thế nào.
Ngoài ra khi xem xét cần phải tìm hiểu xem giữa các tài sản, khoản mục đầu tư có
các mối tương quan ngầm hay không để đảm bảo kết quả không mang quá nhiều
tính chất chủ quan.

Ngoài ra các ngân hàng còn có thể sử dụng phân tích độ nhạy với phân tích kịch bản
để tăng khả năng hữu dụng của kiểm định, ví dụ các ngân hàng có thể đánh giá
được các khoản lỗ (lãi) hiện tại thông qua mối tương quan với sự di chuyển của thị
trường.
9




1.2 Mô hình thực hiện Stress Test vĩ mô cho hệ thống ngân hàng

Như đã đề cập ở trên, Stress Test được chia làm hai loại là Stress Test vi mô cho
từng ngân hàng và Stress Test vĩ mô cho toàn hệ thống. Bài nghiên cứu này sẽ đi
sâu vào Stress Test cho hệ thống ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính
vẫn đang tiếp diễn hiện nay. Thông qua kinh nghiệm từ các nước, Stress Test được
chứng minh có khả năng giúp khôi phục lòng tin cho hệ thống tài chính, làm tăng
tính minh bạch và giảm thiểu các rủi ro không chắc chắn cho thị trường trong thời kì
khủng hoảng. Mục tiêu của phương pháp nghiên cứu này là giúp cho các nhà điều
hành chính sách và NHNN có thể xác định được nguồn gốc tiềm ẩn của các rủi ro
hệ thống, đồng thời đo lường các khoản lỗ có thể phát sinh khi rủi ro xảy ra đối với
các tổ chức tài chính nòng cốt. Ưu điểm của phương pháp top-down này là dễ thực
hiện bởi nó chỉ đòi hỏi các dữ liệu chung và chỉ sử dụng đồng nhất một phương
pháp. Ngoài ra mô hình này áp dụng loại hình phân tích kịch bản bao gồm kịch bản
chuẩn và kịch bản bất lợi hơn để đánh giá.

Để thực hiện kiểm định Stress Test cho hệ thống ngân hàng, bài nghiên cứu đề
xuất sử dụng phương pháp SCAP hay còn gọi là chương trình đánh giá kiểm soát
vốn được thực hiện đầu tiên ở các ngân hàng Mỹ, đây là đánh giá được thực hiện
bởi hệ thống Dự trữ Liên bang và các giám sát viên để xác định liệu các tổ chức tài
chính Mỹ lớn nhất đã có bộ đệm vốn cần thiết để chịu đựng các suy thoái thị trường
và khủng hoảng tài chính hay không.

1.2.1 Mô tả thử nghiệm chương trình Stress Test

Sau khi đã xây dựng được các kịch bản kinh tế vĩ mô bao gồm kịch bản chuẩn
và kịch bản bất lợi hơn. Dựa trên mối liên hệ giữa nền kinh tế vĩ mô và báo cáo tài
chính, các ngân hàng tham gia Stress Test được chỉ đạo đánh giá các khoản lỗ tiềm
năng trên các khoản cho vay, đầu tư, các danh mục chứng khoán giao dịch, bao gồm
các ràng buộc ngoại bảng, các khoản nợ dự phòng (là các khoản nợ có thể phát sinh

hoặc không phát sinh trong tương lai, bởi nó phụ thuộc vào các sự kiện diễn ra trong
tương lai, trường hợp điển hình của khoản nợ này là các vụ kiện thương mại, khoản
mục này được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán và được đánh giá một cách hợp
lý) và các tài sản có trong tương lai kể từ khi bắt đầu thực hiện Stress Test. Để đánh
10



giá một cách hợp lý, các ngân hàng được cung cấp một thiết kế chung về việc xác
định mức lỗ dự kiến cho các khoản cho vay cụ thể dưới điều kiện của kịch bản
chuẩn và kịch bản bất lợi hơn.

Sau đó các ngân hàng được khảo sát cũng được yêu cầu phải đánh giá nguồn lực
có sẵn để hấp thụ các khoản lỗ trong khoản thời gian hai năm sắp tới dưới hai kịch
bản. Các nguồn lực này bao gồm PPNR (doanh thu thuần trước khi được điều chỉnh
bởi khoản dự phòng) và ALLL (các khoản dự trữ được thiết lập cho các khoản lỗ có
khả năng xảy ra tại thời điểm trước khi thực hiện Stress Test). Theo đó nguồn lực
của ngân hàng bao gồm PPNR và ALLL, kết hợp với nguồn vốn hiện tại cần phải
vượt qua mức vốn tối thiểu theo quy định để có thể hấp thụ các khoản lỗ có khả
năng xảy ra dưới hai kịch bản. Hình dưới đây sẽ mô tả chi tiết các thức xác định thu
nhập ròng và quy định về vốn.

Hình 1.3: Bảng tính thu nhập ròng và vốn bắt buộc của ngân hàng


Thu nhập lãi ròng + Thu nhập ngoài lãi - Chi
phí ngoài lãi

= Doanh thu thuần trước khi được điều
chỉnh bởi khoản dự phòng (PPNR)


PPNR + Doanh thu khác - Các khoản dự phòng -
Tổn thất của chứng khoán sẵn sàng để bán
(AFS) và chứng khoán để đến ngày đáo hạn
(HTM)
= Thu nhập ròng trước thuế

Thu nhập ròng trước thuế - Thuế + Thuế ròng
cho các lợi nhuận hoặc lỗ từ các khoản mục phát
sinh bất thường
= Thu nhập ròng sau thuế


Thu nhập ròng sau thuế - Chi trả cổ tức cho cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, và các khoản
giảm trừ ròng khác liên quan đến vốn chủ sỡ hữu
= Sự thay đổi trong vốn chủ sỡ hữu


Sự thay đổi trong vốn chủ sỡ hữu - Các khoản
giảm trừ vốn bắt buộc + Các khoản tăng thêm
của vốn bắt buộc
= Sự thay đổi trong quy định của nguồn vốn
11



Các chuyên gia và nhà phân tích sẽ xem xét và đánh giá báo cáo của các ngân
hàng. Một số nhóm sẽ chú ý xem xét các loại tài sản, doanh thu, dự trữ và nguồn
vốn, nhóm khác sẽ tập trung hơn cho các ngân hàng đặc biệt. Các ngân hàng đó bị

đòi hỏi cung cấp thêm các thông tin về các rủi ro có thể gánh chịu. Các nhóm khảo
sát cũng sẽ xem xét chất lượng của các phương pháp mà ngân hàng sử dụng để đánh
giá các khoản lỗ và nguồn lực của mình cũng như các giả định được sử dụng. Từ đó
sẽ đưa ra các đánh giá về mức thiệt hại dựa trên các thông tin của từng ngân hàng về
tính chất rủi ro của danh mục đầu tư, phương pháp quản trị rủi ro và bảo hiểm.

Cuối cùng để kết thúc tiến trình cần phải đánh giá các khoản lỗ, doanh thu và sự
thay đổi trong dự trữ cùng với việc đánh giá độ lớn và chất lượng của nguồn vốn mà
mỗi ngân hàng cần phải đảm bảo có được ở cuối giai đoạn thử nghiệm Stress Test.

Tóm lại, quy trình thực hiện chương trình đánh giá kiểm soát vốn của hệ
thống ngân hàng gồm năm bước sau đây:


Bước thứ nhất, xây dựng kịch bản kinh tế vĩ mô.

Bước thứ hai, tính toán tốc độ tăng trưởng của NPLs và tổng dư nợ tín dụng
thông qua các biến số vĩ mô được dự báo.

Bước thứ ba, đánh giá giá trị và dữ liệu của báo cáo tài chính để tính toán rủi
ro tín dụng và rủi ro thị trường (là rủi ro tỷ giá hối đoái và rủi ro lãi suất nói
chung) cho mỗi ngân hàng trong khoảng thời gian thực hiện Stress Test. Sau

đó giá trị rủi ro sẽ được trừ ra khỏi nguồn vốn của ngân hàng.


Bước thứ tư, tính các tác động liên ngân hàng.

Bước thứ năm, tỷ lệ vốn CAR sau khi đã trừ đi các khoản lỗ từ cú sốc và từ
sự ảnh hưởng liên ngân hàng sẽ được sử dụng để làm mức vốn yêu cầu tối

thiểu cho các ngân hàng.
12



Hình 1.4: Khuôn khổ của Stress Test








Cú sốc
ban đầu




Hướng
tương tác
của các rủi
ro trong
kịch bản
Thiết lập khả
năng vỡ nợ vào
các tổn thất

Quy trình về khả

năng vỡ nợ của
người đi vay


Thu nhập khu
vực tài chính



Tác
động
lên báo
cáo thu
nhập và
vốn



Các ảnh
hưởng tác
động lại
lên nền
kinh tế,
thị trường



Để hiểu chi tiết hơn về chương trình và cách thức thực hiện chương trình, phần
dưới đây sẽ đi sâu vào từng bước thực hiện như đã nêu.


1.2.2 Các bước thực hiện

1.2.2.1 Bước thứ nhất, xây dựng kịch bản vĩ mô

Bước đầu tiên của Stress Test hệ thống là xác định các rủi ro trọng yếu của hệ
thống tài chính có thể bị tác động khi xảy ra các cú sốc và thu hẹp mức độ tập trung
của thử nghiệm, bởi vì rất khó để có thể thực hiện các thử nghiệm với mỗi nhân tố
rủi ro. Để có thể xác định các đối tượng đó đòi hỏi phải có một kiến thức rộng về
môi trường vĩ mô, từ đó đưa ra một bức tranh rõ ràng hơn về hệ thống tài chính
cũng như dự đoán được nguồn gốc của các cú sốc chính xác hơn.

Sau khi đã xác định được các đối tượng chịu tác động chủ yếu, bước tiếp theo là
xây dựng các kịch bản trọng tâm của thử nghiệm Stress Test. Với mỗi đối tượng
được xác định trước, các nhà phân tích sẽ xác định các biến vĩ mô nào sẽ có tác
động lớn lên các đối tượng này. Các kịch bản có thể được xây dựng dựa trên các dữ
liệu lịch sử hoặc là các giả định. Sự lựa chọn giữa kịch bản quá khứ hay kịch bản
giả định phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm các nhân tố liên quan đến danh
mục đầu tư bị ảnh hưởng như thế nào với các sự kiện đặc biệt trong lịch sử, cũng
như sự khác nhau về các nguồn lực được đưa vào kiểm định.


Kịch bản lịch sử chủ yếu dựa vào các biến động mạnh của thị trường trong lịch
sử, phản ánh các tác động của thị trường đã xảy ra, do đó vai trò của các nhà
13



quản lý rủi ro trong các kịch bản này là không nhiều. Nhưng nhược điểm là
không phản ánh được sự biến động cũng như xu hướng mới của rủi ro tài chính
có khả năng xảy ra.


Kịch bản giả định là đưa vào các sự kiện chưa từng xảy ra trong lịch sử hoặc là

những sự kiện không mang tính chu kỳ. Các kịch bản này được xây dựng dựa
trên quan điểm chủ quan của các nhà quản trị rủi ro, nên sẽ thích hợp với thực
trạng của ngân hàng nhiều hơn, tuy nhiên vì đưa khá nhiều ý kiến chủ quan nên
đòi hỏi các nhà quản lý phải có nhiều kinh nghiệm về các biến động trong thị
trường. Bên cạnh đó còn cần sử dụng các mô hình kinh tế khác để hỗ trợ trong
việc dự báo và xây dựng kịch bản.

Trong thực tế người ta thường sử dụng tổng hợp cả hai loại kịch bản trên, trong
đó kịch bản giả định sẽ được đưa thêm các dữ liệu về sự thay đổi của thị trường
trong quá khứ nhưng không nhất thiết có liên hệ với các cuộc khủng hoảng đặc biệt
đã xảy ra. Việc đưa các dữ liệu quá khứ có thể giúp hỗ trợ điều chỉnh sự thay đổi
của giá và các nhân tố khác khó có thể được thiết lập (như các tác động lên tính
thanh khoản của thị trường).

Vì vậy các kịch bản kinh tế vĩ mô thường được xây dựng bởi các chuyên gia
kinh tế, đối với chương trình được thực hiện ở Mỹ, các biến vĩ mô bao gồm: GDP
thực, tỷ lệ thất nghiệp và giá nhà. Tuy nhiên với mỗi quốc gia cụ thể, các nhà phân
tích sẽ quyết định các nhân tố nào sẽ được sử dụng để đại điện cho nền kinh tế vĩ
mô của quốc gia đó. Thông thường các biến đại diện được lựa chọn là GDP thực,
lạm phát, tỷ giá hối đoái và lãi suất ngắn hạn.

1.2.2.2 Bước thứ hai, tính tốc độ tăng trưởng NPLs và tổng dư nợ

Sau khi xây dựng kịch bản, bước tiếp theo là đưa các kết quả ứng với từng kịch
bản vào bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của các tổ chức tài chính. Khi có
bất kỳ một sự thay đổi nào xuất hiện, rủi ro của ngân hàng tất yếu cũng biến động
theo, đặc biệt là hai rủi ro mà mô hình đang xem xét là rủi ro thị trường và rủi ro tín

dụng. Trong đó rủi ro thị trường sẽ chịu tác động trực tiếp khi biến đại diện vĩ mô
thay đổi. Rủi ro tín dụng không thay đổi một cách lập tức mà trước tiên các khoản
nợ xấu sẽ bị ảnh hưởng, sau đó dẫn tới các khoản lỗ kỳ vọng và các khoản lỗ không

×