Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CÁC TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA DU LỊCH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.75 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

BÁO CÁO MÔN: TỔNG QUAN DU LỊCH

CÁC TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA DU
LỊCH
Danh sách nhóm “Hải đường”

I.

1. Nguyễn Văn Chiến
10157022
DH10DL
2. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
10157057
DH10DL
3. Võ Châu Việt Khuê
10157080
DH10DL
4. Nguyễn Thị Cẩm Lệ
10157085
DH10DL
5. Bùi Hữu Long
10157095
DH10DL
6. Lê Thị Kim Ngân
10157119
DH10DL
7. Lê Thị Mỹ Nhung
10157137


DH10DL
8. Nguyễn Thị Thu Thân
10157175
DH10DL
9. Huỳnh Thị Huyền Trân
10157212
DH10DL
TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH ĐẾN KINH TẾ-XÃ HỘI.

A. VỀ MẶT KINH TẾ.
1.Đối với du lịch nội địa :
- Du lịch tham gia tích cực vào qúa trình tạo nên thu nhập quốc dân( sản xuất ra đồ lưu
niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kĩ thuật…) làm tăng tổng sản
phẩm quốc nội.


- Tham gia tích cực vào q trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng.
- Bên cạnh đó, du lịch nội địa phát triển tốt sẽ củng cố sức khỏe cho nhân dân lao động và
do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội. Ngoài ra du lịch nội địa giúp cho
việc sử dụng cơ sở vật chất kĩ thuật của du lịch quốc tế được hiệu quả hơn.
2. Đối với du lịch quốc tế chủ động:
a - Du lịch tham gia tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại
tệ, đóng góp vai trị to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Dịch vụ du lịch có giá trị xuất khẩu cao và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong
các hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc biệt là theo góc độ thu ngoại tệ và thu hút lao động,
tạo công ăn việc làm. Xuất nhập khẩu dịch vụ có ảnh hưởng lớn đến cán cân thanh tốn
của tồn bộ nền kinh tế. Để đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ nhằm giảm dần nhập siêu
và tiến tới cải thiện cán cân dịch vụ trong thập niên này.
Trong những năm qua, số lượng khách nước ngoài đến Việt Nam tăng cao, từ
250.000 lượt khách năm 1990 lên đến gần 3.6 triệu lượt người năm 2006, tăng trung bình

20%/ năm. Trong 9 tháng đầu năm 2007, lượng khách quốc tế ước tính là 3.171.763,
tăng 18.5% so với cùng kỳ năm 2006. Doanh thu từ du lịch là 1.6 tỷ USD năm 2004, hơn
1.7 tỷ USD năm 2005, 3 tỷ USD năm 2006. Năm 2010, Việt Nam dự kiến sẽ có từ 6 – 6.5
triệu lượt khách quốc tế, nâng tổng doanh thu lên 4 – 5 tỷ USD. Thống kê của Tổng cục
Du lịch cho biết, trung bình mỗi khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chi tiêu hơn
900USD đã góp phần đẩy doanh thu « xuất khẩu tại chỗ » năm 2005 lên 3 tỷ USD
Tuy nhiên, hầu hết khách du lịch quốc tế vào Việt Nam chủ yếu qua đường tour, do các
công ty lữ hành trong nước tổ chức. Các cơng ty nước ngồi đảm nhận chi phí vé máy
bay hoặc chi phí vận tải khách đến Việt Nam. Các hãng điều hành tour của Việt Nam thu
chi phí các khoản dịch vụ liên quan đến đi lại, ăn ở, tham quan... tại Việt Nam. Nếu
chúng ta tổ chức các tour ngay từ nước ngồi thì phần thu ngoại tệ sẽ cao hơn nữa .
b - Du lịch là hoạt đợng x́t khẩu có hiệu quả cao nhất
Tính hiệu quả trong kinh doanh du lịch được thể hiện ở chỗ, du lịch là một mặt
hàng “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa cơng nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ cơng mỹ
nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản... theo giá bán lẻ cao hơn do người bán sẽ không tốn
kém nhiều chi phí giao hàng, vận chuyển, bảo hiểm, thuế xuất nhập khẩu, có khả năng
thu hồi vốn nhanh và lãi cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp cần khả năng thanh
toán. “Kim ngạch” của ngành này mang lại chính là doanh thu hàng hố và dịch vụ mà du
khách sử dụng khi đến Việt Nam. Năm 2000, Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu tại chỗ
ước gần 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD. Con số này trong năm 2004 là 1.6 tỷ
USD, tăng khoảng gần 25.000 tỷ. Do đó, hoạt động du lịch được đẩy mạnh sẽ đem lại
một hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế.


c - Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngồi.
Ngành du lịch Việt Nam ước tính đã thu hút được 190 đối tác đầu tư trực tiếp nước
ngoài với tổng số vốn là 4.64 tỷ USD. Năm 2006, ngành này thu hút được tổng số vốn
đầu tư là 609 triệu USD, cao nhất trong giai đoạn 1999 – 2006. Trong quý I/2007, tổng
vốn đầu tư vào du lịch và khách sạn vào gần 406 triệu USD, chiếm khoảng 1/5 tổng vốn
được cấp của tất cả các ngành kinh tế (2.75 tỷ). Hàng loạt các dự án đầu tư xây dựng

khách sạn, khu du lịch có quy mô và chất lượng cao tại các trung tâm du lịch lớn của
nước ta đã được cấp phép như dự án khu nghỉ mát đa năng Đan Kia - Suối Vàng thuộc
thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng do bốn tập đoàn đầu tư lớn của Nhật Bản là Mitsui,
Mitsubishi, Sumitomo và Limtec liên doanh đầu tư. Đây là dự án rất lớn với số vốn đầu
tư lên tới 1,2 tỷ USD; dự án của tập đoàn Rockingham (Hoa Kỳ) đầu tư vào đảo Phú
Quốc với tổng số vốn đầu tư 1 tỷ USD; tập đoàn Keangnam (Hàn Quốc) triển khai thực
hiện xây dựng tổ hợp khách sạn 5 sao, trung tâm thương mại, văn phòng, căn hộ cao cấp
trên diện tích 4.6ha tại khu Cầu Giấy; tập đồn Riviera (Nhật Bản) đầu tư xây dựng
khách sạn 5 sao tại vị trí sát trung tâm Hội Nghị Quốc Gia. Tại khu vực miền Trung, tập
đoàn Banyan Tree (Singapo) đã nhận giấy phép đầu tư 276 triệu USD xây dựng khách
sạn 5 sao, nhà hàng, sân golf tại khu kinh tế Chân Mây ( Thừa Thiên Huế); tập đoàn
Indochina Capital đầu tư xây dựng khu du lịch biển 5 sao Ngũ Hành Sơn với 250 phòng,
150 căn hộ cao cấp và 40 biệt thự cùng nhiều dịch vụ giải trí cao cấp khác với tổng số
vốn đầu tư 80 triệu USD trên diện tích 20ha ; Tập đồn Winvest LLC (Mỹ) cũng đã nhận
giấy phép đầu tư khu du lịch 5 sao Saigon Atlantic tại Vũng Tàu với số vốn đầu tư 300
triệu USD. Cũng tại Vũng Tàu, tập đoàn Plantium Dragon Empire đang khảo sát để đầu
tư dự án khu du lịch vui chơi giải trí với số vốn lên đến 550 triệu USD…Điều này đã góp
phần giải quyết tình trạng thiếu phòng khách sạn cao cấp ở các trung tâm du lịch lớn như
Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt vào mùa cao điểm trong năm (điển hình như năm
APEC 2006). Năm 2006, Hà Nội đã đón hơn 3 triệu lượt khách quốc tế, tăng hơn 100%
so với năm 2000 nhưng số lượng phòng khách sạn so với năm 2000 chỉ tăng 35% (9.207
phòng lên 12.425 phòng). Hiện nay, Hà Nội còn 8 khách sạn 5 sao với 2.361 phòng, 6
khách sạn 4 sao với 992 phòng, 21 khách sạn 3 sao với 1.363 phòng.
Bên cạnh việc các tập đồn nước ngồi đầu tư trực tiếp thì làn sóng đầu tư gián
tiếp vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ cũng rất sôi động. Quĩ VinaLand đã mua 70% cổ phần
của Sofitel Metropole, khách sạn lâu đời, sang trọng và đắt khách nhất Hà Nội hiện nay.
Còn Quỹ VinaCapital cũng không chịu thua kém khi mua 52,5% cổ phần của khách sạn 5
sao Hilton Hà Nội vào tháng 7/2006, nâng tổng số cổ phần của Quỹ tại khách sạn này lên
tới 70%. Vinaland Fund cũng đầu tư thêm 43 triệu USD vào lĩnh vực khách sạn và du
lịch của Hà Nội, đầu tư 31 triệu USD vào sân golf và khu vực nghỉ mát rộng 260 hecta tại

thành phố Đà Nẵng. Vào tháng 4/2006, công ty xây dựng LaiSun đã vượt qua British


Virgin Islands trong cuộc đấu thầu mua 63% cổ phần tại khu nghỉ mát Furama – Đà
Nẵng.
Trong điều kiện lạc hậu nghèo nàn và thiếu vốn đầu tư, Việt Nam rất cần hiện đại
hoá nền kinh tế. Bên cạnh các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi, các hình thức liên
doanh, liên kết với các nước ngoài trong kinh doanh du lịch cũng đã đem lại lợi nhuận
kinh tế cao. Hầu hết các khách sạn 5 sao ở Hà Nội đều là kết quả của hoạt động liên kết
giữa Việt Nam với một số nước châu Á. Ví dụ như : Khách sạn Sofitel Metroôle là liên
kết giữa Việt Nam và Singapo, Sheraton là của Việt Nam và Indonexia, Sofitel plaza là
liên kết giữa Việt Nam và Malaysia, Melia Hà Nội là liên kết giữa Việt Nam và Thái Lan.
d – Du lịch góp phần củng cớ và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế
giới.
Việt Nam đã ký 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước, có quan hệ bạn hàng
với 800 hãng của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Nước ta đã thiết lập và mở rộng quan hệ
hợp tác du lịch với Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN, trở thành thành
viên chính thức của hiệp hội Du lịch Đông Nam á ( ASEANTA ); khôi phục quan hệ hợp
tác du lịch truyền thống với liên bang Nga; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với Pháp;
bước đầu xây dựng quan hệ hợp tác du lịch với Hoa Kỳ.
e - Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đường lối giao thông quốc tế .
Một ngành kinh tế lớn, ngành du lịch, có liên quan trực tiếp tới văn hóa. Những di
sản văn hóa trên lãnh thổ một quốc gia là một chủ bài lớn để thu hút du khách nước
ngoài, và từ đó nảy nở những mối giao thương khác. Mặt khác, khi bạn bè hay đối tác
nước ngoài tới tìm hiểu đất nước ta, tìm hiểu con người, xã hội và các cơ hội làm ăn với
Việt Nam, dĩ nhiên điều tối thiểu là họ phải được tiếp đón với những chuẩn mực văn
minh hiện đại. Nhưng như thế chưa đủ. Những ứng xử, những sản phẩm có tính văn hóa
cao ngồi việc thu hút và giữ chân du khách, tranh thủ cảm tình của họ, cịn góp phần
quảng bá hình ảnh Việt Nam tới những nhà đầu tư tiềm năng dù đôi khi miếng bánh lợi
nhuận chưa đủ hấp dẫn...

f - Du lịch như đầu mối “xuất nhập khẩu” ngoại tệ, phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.
Hoạt động du lịch được đẩy mạnh và rộng khắp đã đem lại một hiệu quả thiết thực
về kinh tế. Chỉ tính riêng trong 9 tháng của năm 2000, Chương trình đã thực hiện xuất
khẩu tại chỗ ước đạt trên 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD.
3. Đối với du lịch quốc tế thụ động.
Khác với du lịch quốc tế chủ động, du lịch quốc tế thụ động là một hình thức nhập
khẩu đối với đất nước có khách đi ra nước ngồi. Cái mà họ nhận được đó chính là các
“lợi ích vơ hình”. Đó là nâng cao hiểu biết, học hỏi kỹ thuật mới, củng cố sức khỏe…của


người dân. Nhưng nếu đi với mục đích kinh doanh, du lịch quốc tế thụ động có tác động
gián tiếp đến nền kinh tế bởi nó là hình thức đem tiền đi tiêu nhưng họ có thể thu về là
bản hợp đồng đầu tư thu lợi nhuận ….
4. Các tác động khác về mặt kinh tế của việc phát triển hoạt động kinh doanh du lịch
nói chung :
a – Khu vực du lịch đã mang lại cho Việt nam cơ hội to lớn trong quá trình chuyển đổi từ
một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dựa vào dịch
vụ :
Nhiều gia đình dân tộc nghèo khó trước kia chỉ sống bằng nơng nghiệp nay đã
được cải thiện đời sống nhờ du lịch. Cụ thể như, người dân tộc Hmông Sapa trước đây là
một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của Hmông ở Sapa gồm 3 bộ
phận cấu thành là trồng trọt (lúa, ngô, thảo quả), hái lượm và nghề thủ cơng, trong đó chủ
yếu là trồng trọt. Hầu hết mức sống, nguồn thu nhập của người làm nhờ vào trồng trọt và
chăn ni, cịn nghề thủ cơng chỉ đóng vai trị phụ và ln phụ thuộc vào trồng trọt nên
cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ. Điều kiện trồng trọt lại khó khăn, địi hỏi phải có nhiều
lao động. Sapa lại khơng có điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp. Nhưng du
lịch phát triển, các làng Hmơng có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hóa trở thành
những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó, đời sống kinh tế của người Hmơng được cải thiện.
Họ chuyển sang sản xuất hàng thổ cẩm, đồ trang sức, dẫn khách du lịch...thay vì làm
nơng nghiệp như trước đây. Hiện nay, tỉ lệ gia đình người Hmơng tham gia hoạt động du

lịch chiếm hơn 90%. Hay như ở bản Lác, một bản của người dân tộc Thái ở Mai Châu –
Hịa Bình. Từ một làng dân tộc bình thường, do nhận thấy tiềm năng và có định hướng
phát triển đúng đắn nên giờ đây bản Lác và một số bản xung quanh đã trở thành làng du
lịch. Đời sống dân bản được nâng cao,giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn người lao
động tại đây. Khách du lịch đến đây được sống trong nhà sàn, ăn thịt thú rừng, học cách
dệt vải của người Thái… nét văn hóa truyền thống khơng chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà
cịn được giới thiệu cả trong và ngồi nước.
b – Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch, tham
gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân và phân phối lại thu nhập quốc dân
giữa các vùng :
Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn ngân sách cho các địa phương từ các
khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa
phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa
bàn. Ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để
phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các


du khách đến thăm quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức
xuất khẩu.
c - Du lịch phát triển thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo :
Trước hết, đây là hoạt động kinh doanh cần nhiều sự hỗ trợ liên ngành. Nhiều khu
vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các
doanh nghiệp du lịch, như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu
trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Như vậy, có thể khái qt các vấn đề về
chính sách du lịch bao trùm một chuỗi lớn các lĩnh vực và lợi ích. Giá trị gia tăng của
ngành dịch vụ tăng cao hơn mức tăng GDP và cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ
năm 2006, đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Các ngành dịch vụ
có giá trị cao như ngân hàng, hàng khơng, bưu chính viễn thơng, du lịch… được khai thác
và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.
d - Đối với nền sản xuất xã hội, du lịch mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa :

Như đã nói ở trên, du lịch giúp củng cố và phát triển quan hệ quốc tế, do đó đã mở
rộng thị trường, tăng thêm bạn hàng đối với các ngành tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Việc loại hình du lịch cơng vụ ngày càng phát triển góp phần đem về cho đất nước các
khoản đầu tư, hợp đồng liên kết kinh doanh,… Thị trường trong nước tiếp tục được mở
rộng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2006.
e - Tận dụng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác :
Hoạt động du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của một số ngành sản xuất, do đó phát triển du
lịch sẽ mở mang và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó cịn tận
dụng nguồn lực, điều kiện vật chất kỹ thuật để bổ sung cho nhu cầu cần thiết nhưng chưa
được đáp ứng của ngành. Ở những vùng phát triển du lịch, do nhu cầu đi lại, ăn uống,
nghỉ ngơi vui chơi, thông tin liên lạc, vận chuyển nên mạng lưới giao thông, cầu cống,
điện nước được hoàn thiện phục vụ nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Ví dụ: để thuận tiện
cho việc đi lại và mở thêm tuyến đường giao thông nối giữa các tỉnh, nhà nước đã đầu tư
xây dựng cầu Yên Lệnh nối giữa Hưng Yên và Hà Nam. Ngoài việc đảm bảo an tồn, nó
cịn giúp cho sự giao lưu buôn bán dễ dàng hơn, đi lại thuận tiện giúp cho hoạt động du
lịch hai tỉnh ngày càng tăng bên cạnh sự phát triển ngành giao thông vận tải.
B. VỀ MẶT XÃ HỘI
1. Du lịch góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân điạ phương:
Du lịch với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn
mà không cần phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và


chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hiện nay tỷ lệ hộ kinh tế làm dịch vụ trong nông
thôn mới chỉ chiếm 11,2%. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp
cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát
triển kết cấu hạ tầng nơng thơn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông
thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một thực tế nữa là, ở nước ta trên 3/4 số các khu di tích văn hóa, lịch sử, khu du

lịch sinh thái, nghỉ dưỡng của đất nước đều nằm tại các vùng nông thôn, miền núi và
vùng hải đảo. Song thu nhập hiện từ du lịch mới tập trung chủ yếu ở hai thành phố du
lịch lớn của đất nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 62% tổng doanh thu),
vì thế phát triển du lịch ở các vùng miền nông thôn không những sẽ đánh thức những
tiềm năng trên để phát triển kinh tế nông thơn, xây dựng nơng thơn mới theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà cịn làm tăng thêm thu nhập cho đông đảo người dân sống ở
nông thôn.
Du lịch là ngành tạo ra nhiều việc làm thứ hai, sau nông nghiệp, ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Đến nay, ngành du lịch đã tạo việc làm cho khoảng
150.000 lao động trực tiếp trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, chưa kể đến 30
vạn lao động gián tiếp có thêm việc làm như sản xuất hàng lưu niệm, bán hàng, các dịch
vụ bổ trợ...Năm 1998 đã có trên 130 nghìn lao động, tăng trung bình hàng năm khoảng
25% năm.Tuy nhiên, do phát triển nhanh, các doanh nghiệp du lịch, các khách sạn, nhà
hàng đã thu hút lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng u cầu; mới có
7% đạt trình độ đại học, 50% được đào tạo qua các trướng dạy nghề, các khố bồi dưỡng
ngắn hạn, cịn lại chưa qua đào tạo. Tỷ lệ lao động nữ trong ngành du lịch Việt Nam
chiếm 58%. Tồn ngành có khoảng trên 27.000 lao động nữ là cán bộ quản lý. Năng lực
làm việc cao, chất lượng và hiệu quả làm việc của lao động nữ đóng vai trị quyết định
đến chất lượng dịch vụ du lịch.
Du lịch là một ngành kinh tế không chỉ mang lại việc làm cho nhiều phụ nữ mà
cịn mang lại nhiều cơ hội to lớn vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Ngành Du lịch Việt Nam có đặc thù là tỷ lệ lao động nữ chiếm đa số. Hiện tại,
ngành Du lịch có trên 235.000 lao động làm việc trực tiếp, trong đó lao động nữ chiếm
58%, tương đương trên 136.300 người và số lượng lao động gián tiếp trên 600.000 người.
Lao động nữ tập trung đông vào các nghề như: phục vụ khách sạn, nhà hàng, đại lý du
lịch, thơng tin, dịch vụ giải trí. Trong đó, tỷ lệ lao động nữ trong khối nhà hàng khách
chiếm trên 71%; phục vụ buồng, chăm sóc sắc đẹp chiếm trên 95%. Tỷ lệ lao động nữ
trong ngành Du lịch giữ cương vị lãnh đạo ngày một tăng cao. Đến nay, tồn Ngành có
khoảng trên 27.000 lao động nữ là cán bộ quản lý. Lãnh đạo điều hành từ cấp phòng trở
lên cho tới quản đốc, giám sát, giám đốc doanh nghiệp chiếm 11% trong tổng số lao động



và chiếm 19% trong tổng số lao động nữ. Tỷ lệ lao động nữ là lãnh đạo trong các cơ quan
quản lý Nhà nước về Du lịch cũng dần được nâng lên. Phần đông lao động nữ trong
Ngành ở độ tuổi còn trẻ từ 25 – 35 tuổi. Đây được coi là một thế mạnh, tiềm năng lớn đối
với sự phát triển của ngành Du lịch. Có thể khẳng định, đối tượng lao động nữ trong
ngành Du lịch có trình độ chuyên môn, năng lực làm việc cao, chất lượng và hiệu quả
làm việc của lao động nữ đóng vai trò quyết định đến chất lượng dịch vụ du lịch” 1, một
trong những biện pháp cạnh tranh thu hút nguồn khách du lịch lớn để phát triển du lịch
2. Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa ở các nước có nền kinh tế phát triển:
Hiện nay tốc độ đơ thị hóa tại các nước phát triển là rất lớn. Do công nghiệp là thế
mạnh, là ngành kinh tế đem lại hiệu quả cao nhất cho đất nước nên việc xây dựng các
khu công nghiệp, cơ sở hạ tàng hiện đại cho phù hợp với sự phát triển đó là điều tất yếu.
Bên cạnh những điểm tích cực, quá trình đơ thị hóa đã đem lại nhiều hậu quả cho xã hội.
Dân cư tập trung đông dúc tại các thành phố lớn gây ra sự quá tải còn ở các vùng quê,
miến núi lại không đủ lực lượng lao động tham gia sản xuất. Chính vì thế mà gây ra sự
mất cân đối giữa các vùng kinh tế. Nhưng khi du lịch đã được sự quan tâm phát triển của
địa phương thì sự tập trung dân cư khơng đồng đều được giảm hẳn. Do tài nguyên du lịch
thường tập trung ở những vùng đồng quê hay miền núi, vì vậy để khai thác nguồn và phát
triển hiệu quả cần đầu tư về mọi mặt: giao thông, thông tin liên lạc, văn hóa, xã hội… Du
lịch phát triển làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội các vùng miền.
3. Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả
Khơng chỉ quảng cáo hàng hóa nội địa ra nước ngồi thơng qua các du khách mà
du lịch cịn là phương thức hiệu quả nhất, mang hình ảnh đất nước, con người, truyền
thống, văn hóa Việt Nam giới triệu với bạn bè năm châu. Đến Với Việt Nam, du khách
được làm quen với các mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp nổi tiếng như gốm sứ, dệt
thổ cẩm, dệt lụa… Như vậy, du lịch đã góp phần đánh thức và bảo tồn các ngành nghề
thủ công mỹ nghệ cổ truyền
4. Du lịch làm tăng tầm hiểu biết chung về văn hóa – xã hội
Du lịch nội địa và quốc tế đến nay là một trong những phương tiện hàng đầu để

trao đổi văn hoá, tạo cơ hội cho mỗi con người được trải nghiệm. Du lịch ngày càng được
thừa nhận rộng rãi là một động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản thiên nhiên văn hoá.
Du lịch có thể nắm bắt các đặc trưng về kinh tế của di sản và sử dụng chúng vào việc bảo
vệ bằng cách gây quỹ, giáo dục cộng đồng và tác động đến chính sách. Đây là một bộ
phận chủ yếu của nhiều nền kinh tế quốc gia và khu vực và có thể là một nhân tố quan
trọng trong phát triển, khi được quản lý hữu hiệu.


Thương mại hoá các di sản văn hoá. Du lịch là sự tìm kiếm của khánh du lịch đối
với cái đẹp của các giá trị vật chất và tinh thần. Hoạt động du lịch phải thật sự đạt tới mục
tiêu bền vững. Tác dụng tích cực của du lịch đối với môi trường thường gắn với công tác
bảo tồn. Việc Chính phủ thành lập các khu bảo tồn và bảo vệ động vật hoang dã, các khu
du lịch lịch sử văn hoá đã tạo nên những địa bàn quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên
du lịch. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển như nước ta. Ở
môi trường nông thôn ven biển, du lịch nơng thơn có thể phát triển các trang trại, làng du
lịch sinh thái mang lại nhiều thu nhập hỗ trợ cho dân sẽ ngăn chặn được tình trạng hoang
hố đất đai. Những du khách nhận thức được đa dạng sinh học và các giá trị của tự nhiên
và văn hố cũng có thể thúc đẩy được nhận thức mơi trường cho cộng đồng dân cư địa
phương.
Trong năm nay, ngành Du lịch đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại các tỉnh như:
Điện Biên, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Trà Vinh về các chủ đề “Du lịch với xố đói, giảm
nghèo” và “Phát triển du lịch cộng đồng” đã thu hút đông đảo các tầng lớp tham gia. Các
cuộc hội thảo này có mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển du
lịch, một trong những biện pháp quan trọng để xố đói, giảm nghèo và mang lại những cơ
hội phát triển cho phụ nữ thông qua việc trực tiếp cũng như gián tiếp phục vụ khách du
lịch.
Du lịch cũng tác động trở lại văn hóa thơng qua việc xây dựng và cải tạo mơi
trường văn hóa, xã hội, làm cho môi trường này khởi sắc, tươi mới, làm cho các hoạt
động văn hóa năng động và linh hoạt hơn trong cơ chế thị trường. Hoạt động du lịch góp
phần khơi dậy các tiềm năng văn hóa giàu có và phong phú đang cịn ẩn chứa khắp nơi

trên đất nước ta, "đánh thức nàng tiên ngủ trong rừng" để cả xã hội chiêm ngưỡng,
thưởng thức cái đẹp, không để cái đẹp ấy bị che phủ, mai một và lãng qn. Nhờ có du
lịch, hằng năm trung bình từ hai đến ba triệu du khách quốc tế đến nước ta tham quan, họ
được hiểu sâu hơn về đất nước, con người Việt Nam, được tận mắt chứng kiến sự thay da,
đổi thịt tươi mới và tốt đẹp đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội Việt
Nam.
Trong khi nguồn vốn của chương trình mục tiêu văn hóa dành cho việc bảo tồn,
tơn tạo các di tích lịch sử rất hạn hẹp, thì ngành Du lịch đã hỗ trợ kinh phí đầu tư, tu bổ,
nâng cấp một số di tích trọng điểm tại các địa phương, góp phần làm cho những di tích ấy
trường tồn với thời gian và trở thành "điểm sáng" văn hóa tại địa phương, được nhân dân
mến mộ, cảm kích. Ngồi ra, bằng các hoạt động của mình, du lịch đã góp phần hỗ trợ và
mở ra biên độ rộng lớn cho hoạt động giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa quốc tế; trong
năm 2006, chúng ta đã cử 389 đoàn với 1.501 người ra nước ngồi và đón 168 đồn nước
ngoài với 1.514 người vào nước ta làm việc theo các văn bản hợp tác.


Trong kinh tế thị trường, do điều kiện khách quan, hoạt động du lịch thích ứng
nhanh hơn và trong chừng mực nhất định, chính hoạt động du lịch đã đi trước một bước,
đảm nhiệm vai trị "kích cầu" các hoạt động văn hóa đi nhanh và mạnh hơn. Kinh doanh
văn hóa du lịch đã đem lại nguồn thu khơng nhỏ. Mấy năm trước, tại lễ hội 110 năm Sa
Pa đã thu hút năm vạn người tham dự và tổng doanh thu của lễ hội này đạt hơn năm tỷ
đồng.
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, văn hóa ngày càng mở
rộng, cả hoạt động văn hóa và du lịch đều có tác dụng lớn và rất quan trọng trong sự
nghiệp CNH, HÐH đất nước. Văn hóa thể hiện vai trị là "mục tiêu và động lực" ở chỗ
tập trung xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ở chỗ chăm lo vun
đắp, bồi dưỡng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm hồn, tình cảm,
đồng thời tạo lập mơi trường văn hóa, xã hội vui tươi, lành mạnh, phục vụ đắc lực công
việc sản xuất, lao động, học tập của nhân dân. Tất nhiên, với ưu thế là các loại hình nghệ
thuật phong phú, đa dạng, các hoạt động văn hóa đã và đang góp phần không nhỏ đấu

tranh với tệ nạn xã hội, với lối sống và tập quán lạc hậu, phê phán bài trừ các khuynh
hướng tư tưởng và quan điểm sai trái.
Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát
triển bền vững. Ở Cốsta Rica và Vênêxuêla, một số chủ trang trại chăn ni đã bảo vệ
nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó
thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời
tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du
lịch sinh thái tại đảo Galápagó để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam
Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người
da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động
du lịch sinh thái. Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần
đây đã thiết lập một số vùng Thiên nhiên-và-Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác
bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia.
 Một số tác động tiêu cực do du lịch gây ra:

Bên cạnh các lợi ích to lớn của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của
nước ta thì du lịch vẫn cịn tồn tại những điểm tiêu cực như:
- Phát triển du lịch quốc tế thụ động quá tải dẫn đến việc làm mất thăng bằng cán
cân thanh toán quốc tế, gây áp lực cho lạm phát.
- Ngành du lịch là ngành dịch vụ nên việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào
các yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc đảm bảo doanh thu và phát triển
ổn định của ngành du lịch là khó khăn hơn so với các ngành sản xuất khác.
- Tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong một số ngành.


Ngành du lịch mang tính thời vụ. Do đó, ảnh hưởng rất lớn tới việc sử dụng lao
động. Đây cũng là bài toán khó cho các nhà quản lý.
- Du lịch làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến tài nguyên của đất nước do
khai thác quá mức hoặc khơng hợp lý .
Sự phát triển “nóng” về du lịch trên toàn bộ dải ven biển và hải đảo cũng đang

đứng trước những thách thức không bền vững nếu không được kiểm soát với mục tiêu
bền vững.
Sức chứa của nhiều địa bàn du lịch đã quá tải. Ô nhiễm nước và khơng khí do nước
thải, tràn dầu, do chất thải, khí thải của phương tiện vận tải như tàu thuyền, ôtô, xe máy,
nuôi trồng thuỷ sản. Từ đó đã ảnh hưởng tới tính đa dạng sinh học. Phá huỷ nơi cư trú
(trên mặt đất hoặc biển) do giải phóng mặt bằng hoặc quy hoạch xây dựng hạ tầng, cơ sở
dịch vụ du lịch. Xáo trộn cuộc sống hoang dã huỷ hoại thực vật do đi lại và phương tiện.
Săn bắt động vật, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, phá huỷ nơi sinh sản do dùng các
phương tiện đánh bắt mang tính huỷ diệt.
Di sản thiên nhiên và văn hố cũng như tính đa dạng của các nền văn hoá đang tồn
tại là những hấp lực to lớn, một kiểu du lịch cực doan hoặc quản lý tồi và sự phát triển
tuỳ thuộc vào du lịch có thể đe doạ tính tồn vẹn của hình thể tự nhiên và ý nghĩa của di
sản.
Sự viếng thăm thường hằng của khách du lịch cũng có thể làm cho hệ sinh thái, văn
hoá và lối sống cộng đồng chủ nhà bị xuống cấp.
Du lịch phải đem lại lợi lộc cho các cộng đồng chủ nhà và tạo cho họ một phương
thức quan trọng và một động lực để chăm nom và duy trì di sản và các tập tục văn hố
của họ. Sự tham gia và hợp tác giữa các cộng đồng địa phương hoặc bản địa đại diện, các
nhà bảo tồn, các điều hành viên du lịch, chủ sở hữu tài sản, các nhà hoạch định chính
sách, các nhà làm kế hoạch phát triển quốc gia và các nhà quản lý di tích là cần thiết để
thực hiện được một ngành kinh doanh du lịch bền vững và nâng cao việc bảo vệ các
nguồn lực của di sản cho các thế hệ tương lai.
Một mặt, du lịch mang lại nguồn ngoại tệ và tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động, trong đó có những cơng việc khơng địi hỏi trình độ học vấn hay trình độ chun
mơn cao và đa phần ở các vùng sâu vùng xa nơi người lao động địa phương vốn rất khó
tìm được việc làm. Mặt khác, du lịch phát triển nhanh nhưng quản lý yếu kém sẽ dẫn tới
những hậu quả nghiêm trọng.Ở Siem Reap, Campuchia, nơi có khu đền Angkor Wat nổi
tiếng thế giới, những tác động tiêu cực của một ngành du lịch phát triển quá nhanh nhưng
được quản lý kém đã bộc lộ rõ. Các khách sạn mọc lên như nấm. Năm 2002, tổng cơng
suất phịng chỉ có 2.500, nay đã tăng lên tới 5.000 phịng. Cuối năm nay, thành phố này

có tới 8.000 phịng. Nguồn điện khơng đủ để cung cấp cho nhu cầu của cư dân địa
phương. Hệ thống xử lý rác thải yếu kém. Dịng sơng bị ơ nhiễm bởi nguồn nước thải
chưa xử lý. Thêm vào đó là mối lo ngại rằng việc tiêu thụ một lượng nước lớn có thể làm
-


cạn kiệt các mạch nước ngầm dẫn đến sụt lở đất và kéo theo việc sụp đổ của các ngôi đền
Angkor Wat. Đây là những vấn đề nghiêm trọng.
- Du lịch gây ra một số tệ nạn xã hội do kinh doanh các loại hình không lành mạnh
Bên cạnh những tác động tích cực làm tăng tầm hiểu biết và ý thức con người đối
với nền văn hóa, một số nhân tố tiêu cực đã làm xấu đi bộ mặt của ngành nghề, gây ra
những ấn tượng khơng tốt. Đó là việc tranh dành, lôi kéo khách hay những hoạt động
bn bán tại các lễ hội, các hình thức vui chơi có thưởng với mục đích lừa đảo hay kinh
doanh cá loại hình khơng lành mạnh trong nhà hàng khách sạn….
- Du lịch phát triển đã làm thay đổi một số nét truyền thống của một dân tộc
VD: ảnh hưởng đến một số thiết chế xã hội của người Hmông ở Sapa
+ Gia đình của người Hmơng ở Sa Pa có sự tác động mạnh mẽ của du lịch và kinh tế thị
trường. Sự tác động này làm biến đổi cả về loại hình gia đình cũng như chức năng, sự
phân cơng lao động vai trị giới trong gia đình. Gia đình người Hmơng Sa Pa trước đây là
một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của người Hmông ở Sa Pa
gồm 3 bộ phận cấu thành là trồng trọt và hái lượm, nghề thủ công. Hiện nay do du lịch
phát triển, các làng Hmông ở gần thị trấn có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hoá trở
thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó du lịch đã tác động làm biến đổi đời sống kinh
tế của các gia đình người Hmơng. Tổng thu nhập bình qn mỗi hộ gia đình người
Hmơng Sa Pa làm nông nghiệp 1 năm từ 8 đến 10 triệu đồng/năm nhưng riêng về du lịch,
mức thấp nhất cũng đạt 10 - 16 triệu VNĐ/năm. Số gia đình làm du lịch có mức thu nhập
gấp từ 2 lần đến 2,5 lần gia đình thuần nơng. Vì vậy cá gia đình đều chuyển sang làm du
lịch.
+ Gia đình người Hmông ở Sa Pa đầu thập kỷ 70 thế kỷ 20 có loại hình gia đình phụ hệ, 3
thế hệ trở lên chiếm tỷ lệ khá cao. Thậm chí ở Sa Pa cịn tồn tại một số gia đình lớn, có từ

30 đến 40 người. Hiện nay, gia đình người Hmơng ở Sa Pa lại chủ yếu là loại hình gia
đình gồm 2 thế hệ. Điều đáng quan tâm là hầu hết các thành viên gia đình mở rộng đều
có nguyện vọng muốn tách hộ. , nhằm để tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tách hộ, gia đình hạt nhân phát triển là do điều kiện
kinh tế đã thay đổi. Trong kinh tế nương rẫy, việc phát rẫy, khai ruộng bậc thang cần
nhiều nhân cơng. Các gia đình có đơng lao động sẽ có mức thu nhập cao hơn. Nhưng
hiện nay với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các dịch vụ xuất hiện làm tăng nguồn thu của
nhiều hộ gia đình, đồng thời lại khơng cần đơng người, khơng cần nhiều sức lao động cơ
bắp. Một gia đình có một người bán hàng rong, chạy xe ôm thu nhập gấp 1,5 đến 2 lần
gia đình thuần nơng.
+ Du lịch tạo ra một loạt ngành nghề mới làm thay đổi mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình.


Trong gia đình truyền thống, với nền kinh tế nương rẫy, vai trị người chồng,
người chủ gia đình hạt nhân được đề cao. người chồng phải đảm nhiệm toàn bộ công việc
nặng nhọc của nương rẫy (làm đất, cày nương, thu hoạch, khai ruộng bậc thang), làm
nghề rèn đúc, đan lát... Trong gia đình hạt nhân, việc cày nương chỉ có người chồng đảm
nhiệm. . Phụ nữ ít có cơ hội được bàn bạc, quyết định các vấn đề quan trọng.
Nhưng hiện nay, phụ nữ tham gia vào hoạt động dịch vụ du lịch khá đông. người
con gái tham gia sản xuất thổ cẩm, bán hàng rong. Thu nhập của họ khá cao. Phụ nữ tham
gia dẫn khách du lịch. Một người phụ nữ tham gia dịch vụ du lịch có thu nhập bằng hoặc
hơn cả gia đình sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy, vai trị của phụ nữ trong gia đình được
nâng cao. Du lịch góp phần quan trọng vào vấn đề bình đẳng nam nữ.Trong gia đình
người Hmơng trước đây, chỉ có người chồng mới có quyền giữ tiền. Nhưng hiện nay đã
xuất hiện một số trường hợp người vợ quản lý tiền hoặc xu hướng chung là cả vợ và
chồng đều có tiền riêng, đều quản lý tiền.Trong xã hội truyền thống người vợ đóng vai trị
đối nội, đảm đang việc nhà, nội trợ, chăm sóc chồng con. Nhưng hiện nay, người vợ cũng
tham gia các công việc “đối ngoại”:đi họp thôn thay chồng, tiếp khách khi khách đến nhà.
Như vậy, người phụ nữ Hmông tham gia các hoạt động du lịch, mở rộng sự giao tiếp.

hiểu biết đã dần dần thốt khỏi sự đóng khung trong khơng gian hạn hẹp của gia đình mà
đã vươn tới không gian xã hội.
Quan hệ bố mẹ và con cái trong gia đình người Hmơng cũng có sự biến đổi. Hiện
nay, khi gia đình ba thế hệ này giảm nhanh chóng, bố mẹ khó có điều kiện chăm sóc con
cái. người mẹ bên cạnh việc nương rẫy phải mua và bán hàng lưu niệm. người mẹ bán
hàng rong phải đi từ sáng sớm đến tối khuya mới về, thậm chí ở lại thị trấn hàng tuần mới
về nhà một lần. Vì vậy, trẻ em ít được bố mẹ quản lý, các trẻ em bận làm nhiều việc nhà,
tham gia dịch vụ du lịch. Do đó chất lượng học tập của các em rất thấp. Nguyên nhân bỏ
học để có thời gian tham gia các hoạt động du lịch chiếm tỷ lệ khá cao chiếm 51,7%.
Ảnh hưởng của du lịch đến quan hệ dịng họ. Trong xã hội truyền thống người
Hmơng, quan hệ dòng họ được đề cao. Nhưng hiện nay, dưới sự tác động của du lịch,
quan hệ dòng họ đang có sự biến đổi. Trước hết, vai trị của trưởng dịng họ “Hổ Pấu” có
sự thay đổi. Trước kia, người trưởng dòng họ phải là những người nhiều tuổi, có kinh
nghiệm làm ăn, có trách nhiệm cao với dịng họ. Hiện nay, lớp trẻ làm ăn giỏi, thích ứng
với môi trường du lịch hoặc tham gia dịch vụ du lịch ngày càng đông (làm xe ôm, dẫn
khách leo núi, mua đồ lưu niệm...). Có điều kiện kinh tế, giúp đỡ một số thành viên trong
làng, trong dòng họ khi họ khó khăn , nên một số người trẻ tuổi trong dịng họ, trong làng
đã trở thành người có tiếng nói “trọng lượng” trong cơng việc chung của dịng họ. Hiện
nay, việc lựa chọn người làm trưởng dòng họ đã xuất hiện các trường hợp coi trọng người
giỏi làm kinh tế tham gia hoạt động du lịch có thu nhập cao. hiện nay, vai trò của trưởng


họ về kinh tế cũng suy giảm. Chỉ có một số trưởng dòng họ am hiểu về thị trường sản
xuất, tham gia dịch vụ du lịch mới được các gia đình học hỏi, xin ý kiến.
Trong quan hệ dịng họ, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau về mặt kinh tế vẫn cịn
nhưng khơng hẳn là nghĩa vụ của mọi thành viên như trước đây. Do tính chất cạnh tranh
khách hàng, mua bán, trong dòng họ thường xảy ra mâu thuẫn, va chạm, mất đoàn kết
giữa các thành viên hơn thời kỳ sản xuất nông nghiệp thuần tuý. Tất nhiên sự tượng trợ
giúp đỡ trong dòng họ vẫn còn nhưng chuyển sang hình thức mới. Hình thức giúp đỡ
nhau bằng tiền nhiều hơn giúp đỡ nhau bằng hiện vậy. Như vậy sự cố kết dịng họ về mặt

tín ngưỡng, xã hội nổi trội hơn nhiều so với mặt kinh tế. Sự cố kết về kinh tế suy giảm,
chỉ còn ở phạm vi các gia đình có quan hệ họ hàng ruột thịt.
Du lịch tác động đến quan hệ cộng đồng làng về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, xã
hội. Trong xã hội nơng nghiệp, cư dân thuần nơng, vai trị của già làng được đề cao.
Nhưng hiện nay, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, già làng ít có điều kiện tiếp
cận thơng tin mới. Việc tiếp cận thông tin mới hầu hết do lớp trẻ đảm nhiệm. Do đó, vai
trị của già làng trong các làng làm dịch vụ du lịch giảm sút. Lớp trẻ ít tham khảo kinh
nghiệm của người già về kinh tế, chỉ tham khảo các già làng về các vấn đề nếp sống văn
hố, tín ngưỡng. Ngược lại với vai trị của già làng, vai trò của trưởng làng được đề cao
hơn trước rất nhiều. hiện nay, âm hưởng cuộc sống sôi động thường xuyên dội xuống
làng. Nếp sống tĩnh lặng của làng bị phá vỡ. Với việc xây dựng làng thành các điểm du
lịch, với việc thực hiện các dự án làm đường giao thông liên thôn, trồng rừng, lập các tổ
sản xuất phục vụ du lịch... đòi hỏi sự điều hành của trưởng làng, sự tham gia của toàn dân
làng ngày càng lớn. Trưởng làng phải tổ chức các cuộc họp chung dân làng thường xuyên
nhằm bàn bạc phân công dân làng tham gia các chương trình dự án. Đồng thời, trưởng
làng phải thường xuyên kiểm tra đôn đốc các gia đình làm các việc cơng của làng, chấp
hành quy ước chung, quy hoạch lại cửa hàng, khôi phục nghề thủ công sản xuất đồ lưu
niệm, tổ chức các sinh hoạt văn nghệ phục vụ du khách, tăng nguồn thu... Chức năng,
nhiệm vụ của trưởng làng phức tạp, vai trò của trưởng làng được đề cao hơn trước. Do đó
tiêu chuẩn lựa chọn trưởng làng cũng thay đổi. Trưởng làng phải là những người năng
động, có trình độ học vấn nhất định, có khả năng tiếp nhận và phổ biến thơng tin. Tốc độ
cuộc sống đã thay đổi nên yếu tố tuổi cao, giàu kinh nghiệm ít trở thành tiêu chí quan
trọng để chọn trưởng làng, xuất hiện xu hướng trẻ hố trưởng
II.
TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH ĐẾN CHÍNH TRỊ.
1. Những ảnh hưởng tích cực.
- Du lịch là chiếc cầu nối hịa bình giữa các dân tộc trên thế giới.
- Hoạt động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị

văn hóa của đất nước bạn, xây dựng và vun đắp cho tình hữu nghị giữa các dân

tộc với nhau.


2. Những ảnh hưởng tiêu cực.
- Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên

truyền, kích động phá hoại chế độ chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa của quốc gia
mà họ thù ghét, đối đầu. Đội lốt du khách, có những kẻ đã xâm nhập sâu vào nước
đến để móc nối, xây dựng các cơ sở, tổ chức phản động.
- Đồng thời du lịch cũng gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an tồn
xã hội ở các điểm đến du lịch.
III.
TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH ĐẾN MƠI TRƯỜNG.
Tác động đến mơi trường là những ảnh hưởng (xấu hay tốt) do hoạt động phát
triển du lịch gây ra cho môi trường, bao gồm các yếu tố môi trường tự nhiên cũng như
các yếu tố môi trường xã hội - nhân văn. Tác động của du lịch lên các yếu tố sinh thái tự
nhiên có thể là tác động tích cực hoặc tiêu cực.
1. Tác động tích cực:
a)

b)

c)
d)

e)

Bảo tồn thiên nhiên: Du lịch góp phần khẳng định giá trị và góp phần vào việc
bảo tồn các diện tích tự nhiên quan trọng, phát triển các Khu Bảo Tồn và Vườn
Quốc Gia.

Tăng cường chất lượng môi trường: Du lịch có thể cung cấp những sáng kiến
cho việc làm sạch mơi trường thơng qua kiểm sốt chất lượng khơng khí, nước,
đất, ô nhiễm tiếng ồn, thải rác và các vấn đề mơi trường khác thơng qua các
chương trình quy hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng và duy tu bảo dưỡng các
cơng trình kiến trúc.
Ðề cao mơi trường: Việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt có thể đề
cao giá trị các cảnh quan.
Cải thiện hạ tầng cơ sở: Các cơ sở hạ tầng của địa phương như sân bay, đường sá,
hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải, thơng tin liên lạc có thể được cải thiện
thông qua hoạt động du lịch.
Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương thông qua việc
trao đổi và học tập với du khách.

2. Tác động tiêu cực:
a)

b)

Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu
thụ nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh
hoạt của địa phương.
Nước thải: Nếu như khơng có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà
hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận
(sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột,
bệnh ngồi da, bệnh mắt hoặc làm ơ nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và
nuôi trồng thủy sản.


c)


d)

e)
f)
g)

h)

Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Ðây là nguyên
nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy
sinh xung đột xã hội.
Ô nhiễm khơng khí: Tuy được coi là ngành "cơng nghiệp khơng khói", nhưng du
lịch có thể gây ơ nhiễm khí thơng qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu
thuyền, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thơng chính, gây hại cho cây cối,
động vật hoang dại và các cơng trình xây dựng bằng đá vơi và bê tông.
Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường khơng hiệu quả và
lãng phí.
Ơ nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây
phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại.
Ơ nhiễm phong cảnh: Ơ nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà
hàng có kiến trúc xấu xí thơ kệch, vật liệu ốp lát khơng phù hợp, bố trí các dịch vụ
thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện
xấu xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các cơng trình xây dựng
và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt
động gây suy thối mơi trường tệ hại nhất.
Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm sốt có thể
tác động lên đất (xói mịn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe doạ các loài
động thực vật hoang dại (tiếng ồn, săn bắt, cung ứng thịt thú rừng, côn trùng...).
Xây dựng đường giao thông và khu cắm trại gây cản trở động vật hoang dại di
chuyển tìm mồi, kết đôi hoặc sinh sản, phá hoại rạn san hô do khai thác mẫu vật,

cá cảnh hoặc neo đậu tàu thuyền...



×