Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐỀ TÀI: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.06 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ N02
NHÓM 10

ĐỀ TÀI:
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
– NHẬT BẢN: THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
Danh sách thành viên: Giáo viên hướng dẫn:
Huế, tháng 11 năm 2012
LỜI NÓI ĐẦU

Từ những năm đầu của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập và hợp
tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã mang
lại cho mỗi thành viên tham gia những lợi ích kinh tế mà không một quốc gia nào
có thể phủ nhận. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Để đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa và các quan hệ kinh tế quốc
tế, lấy mục tiêu vì hòa bình và phát triển làm tiêu chuẩn và phương châm cho mọi
hoạt động đối ngoại. Thêm vào đó, trong bối cảnh phân công lao động quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác kinh tế quốc tế đã và đang trở thành cách tốt
nhất để các quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của mình, có con đường phát triển
một cách chuyên nghiệp và đầy hiệu quả. Không nằm ngoài xu thế trên, cả Việt
Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở nhau những điều kiện thuận lợi cũng như lợi
ích kinh tế của bản thân mỗi nươc khi xây dựng, phát triển và củng cố mối quan hệ
hợp tác song phương giữa hai nước. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt
được, trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản vẫn tồn tại một số hạn
chế cần khắc phục nhằm phát triển hơn nữa để tương xứng với tiềm năng của hai
nước, đưa mối quan hệ này lên một tầm cao mới.


I. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật Bản.
Tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển trên nền
tảng quan hệ hữu nghị giữa hai nước phát triển tốt đẹp, bền vững.
Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba và là thị trường xuất khẩu lớn thứ
hai của Việt Nam. Năm 2011, kim ngạch thương mại song phương đạt trên 21 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt gần 11 tỷ
USD, tăng 39% so với năm trước đó. Kim ngạch thương mại song phương 7 tháng
đầu năm 2012 đạt trên 14 tỷ USD, trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường Nhật Bản đạt xấp xỉ 7,6 tỷ USD, tăng 39,31% so với cùng kỳ năm
2011 và nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản đạt trên 6 tỷ USD cơ cấu hàng hóa xuất
nhập khẩu:
Trong 7 tháng đầu năm 2012, dầu thô là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn
nhất sang Nhật Bản, với trị giá hơn 1,6 tỷ USD, chiếm 21,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu; đứng thứ hai là hàng dệt may, với trị giá 1,05 tỷ USD, chiếm 13,9%.
Số liệu xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản 7 tháng năm 2012
Mặt hàng ĐVT Tháng 7/2012 7Tháng/2012
Lượng Trị giá Lượng Trị giá
Tổng USD 1.058.366.886 7.568.853.699
Dầu thô Tấn 217.866 168.896.115 1.791.845 1.638.113.366
Hàng dệt
may
USD 176.390.189 1.058.190.947
Phương tiện
vận tải và
phụ tùng
142.447.057 976.721.162
Máy móc,
thiết bị,
dụng cụ phụ

tùng khác
98.558.243 700.128.930
Hàng thuỷ USD 92882566 594.667.579
sản
Gỗ và sp gỗ USD 56.313.925 366.568.662
Thuỷ tinh
và các sp từ
thuỷ tinh
USD 7.275.045 308.213.268
Sp từ chất
dẻo
USD 31.572.666 201.071.734
Máy vi tính,
sp điện tử
và linh kiện
USD 29.202.134 196.258.598
Giày dép
các loại
USD 25.303.730 184.329.516
Cà phê Tấn 6349 14.266.222 51799 116.514.231
Dây điện và
dây cáp
điện
19.952.695 108.918.564
Than đá Tấn 53043 8.487.190 610625 102.099.363
Tuí xách,
ví, vali, mũ
và ôdù
USD 15.320.946 101.005.522
Sp từ sắt

thép
USD 14.693.471 85.625.488
Hoá chất USD 11.642.236 83.087.165
Sp hoá chất USD 9.863.907 81.211.431
Điện thoại
các loại và
linh kiện
USD 10.078.097 63.267.286
Kim loại
thường khác
và sp
USD 6.281.712 47.009.771
Giấy và các
sp từ giấy
USD 6.847.112 45.025.550
Máy ảnh,
máy quay
phim và
linh kiện
USD 4.466.910 43.150.323
Sp gốm sứ USD 4.831.118 38.082.786
Sp từ cao suUSD 4.736.381 33.518.971
Hàng rau
quả
USD 5.222.446 30.304.548
Xăng dầu
các loại
Tấn 24.898 25.764.090
Đá quý, kim
loại quý và

sp
USD 3.138.557 20.876.024
Sp mây, tre,
cói và thảm
USD 2.259.471 20.353.890
Quặng và
khoáng sản
khác
Tấn 1078 2.028.800 25.259 19.243.835
Cao su Tấn 757 2.516.601 5.064 18.321.293
Bánh kẹo và
các sp từ
ngũ cốc
USD 2.320.666 15229987
Xơ, sợi dệt
các loại
Tấn 1.830.812 1.853 13.665.747
Chất dẻo
nguyên liệu
Tấn 454 1.599.897 3.698 10.100.712
Hạt tiêu Tấn 137 1.172.512 900 8.125.196
Hạt điều Tấn 128 926.830 719 4.934.409
Sắt thép các
loại
Tấn 795 739.692 2674 3.870.037
Sắn và các
sp từ sắn
Tấn 730 319.903 9.138 2.925.051
II. Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam.


Nhật Bản vẫn là 1 trong 3 đối tác chính nhập khẩu hàng thuỷ sản. Trong
năm 2011 xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản đạt 1,02 tỷ USD, tăng 13,6% so
với năm 2010. Nhật bản là đối tác chính của Việt Nam trong nhập khẩu hàng dệt
may. Cụ thể Nhật Bản nhập 249 triệu USD, tăng 44,7%…thép xuất sang Nhật Bản
đạt 122 triệu USD, tăng 24,7% Lượng cà phê Nhật Bản nhập là 50,7 nghìn
tấn(2011), Việt Nam nhập khẩu sắt thép trong năm 2011 chủ yếu có xuất xứ từ
Nhật Bản với 1,93 triệu tấn, tăng 10,6% so với năm 2010.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá hàng hoá xuất
nhập khẩu của Việt Nam trong tháng 7/2012 đạt 19,8 tỷ USD, tăng 2% so với
tháng trước; trong đó, xuất khẩu đạt 10,19 tỷ USD, tăng 3% và nhập khẩu là 9,61
tỷ USD, tăng 0,8%.
Tính đến hết tháng 7/2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả
nước đạt 127,01 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: xuất
khẩu đạt 63,55 tỷ USD, tăng 20,2% và nhập khẩu là 63,46 tỷ USD, tăng 8,1%. Kết
quả này đã đưa cán cân thương mại của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2012
chuyển sang trạng thái thặng dư 88 triệu USD.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính sang Nhật Bản năm 2012
Hàng dệt may: xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 1,06 tỷ USD, tăng 23,4%
(tương ứng tăng hơn 200 triệu USD).
Giày dép các loại: xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 184 triệu USD, tăng 24%.
Phương tiện vận tải & phụ tùng: Nhật Bản là đối tác lớn nhất nhập khẩu
nhóm hàng này của Việt Nam trong 7 tháng qua với 977 triệu USD.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: xuất khẩu sang Nhật Bản: 700
triệu USD, tăng 48,4%; sang Hoa Kỳ: 569 triệu USD, tăng 91,4%.
Hàng thủy sản: xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 595 triệu USD, tăng 27,1%.
Với mức tăng 35,43% so với cùng kỳ 2011, Nhật Bản trở thành thị trường
tiêu thụ thủy sản tăng trưởng cao nhất trong năm 5 tháng đầu 2012; tỷ trọng giá trị
xuất thủy sản cũng tăng từ mức 14,4% lên 17,5%.
Theo số liệu vừa công bố của Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 5 tháng đầu
năm, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 2,3 tỷ USD, tăng 11,6% so với

cùng kỳ năm 2011. Trong đó, giá trị xuất khẩu sang các khối/nước thị trường lớn
tăng trưởng khá mạnh, ngoại trừ sự sụt giảm của thị trường Châu Âu.
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam/ Vasep. Đvt: Triệu USD
Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 3 của Việt Nam. 5
tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang Nhật đã có bước phát triển khá mạnh khi
tăng trưởng chung đạt mức cao nhất 35,4%, tỷ trọng giá trị xuất khẩu 5 tháng đã
tăng lên 17,5% so với mức 14,4% của 5 tháng đầu năm 2011. Trong đó tôm là mặt
hàng được xuất sang Nhật lớn nhất.
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam/ Vasep. Đvt: Triệu USD
Mặc dù xuất khẩu thủy sản sang EU 5 tháng đầu năm sụt giảm so với cùng
kỳ, nhưng xét trong 5 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường
này đã tăng trở lại trong tháng 5. Ngoài ra, 2 mặt hàng chủ lực là tôm và cá tra,
ngoại trừ giá trị xuất khẩu cá tra giảm, tôm vẫn tăng.
Dầu thô: Dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Nhật Bản:
1,79 triệu tấn, tăng 122,8%.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng
này chủ yếu từ Nhật Bản: 1,97 tỷ USD, tăng 28,5%.
Nguyên vật liệu cho ngành dệt may da giày: nhập khẩu từ Nhật Bản: 463
triệu USD, tăng 20%; … so với cùng kỳ năm 2011.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: từ Nhật Bản: 890 triệu
USD, tăng 65,1%.
Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện theo tháng
năm 2010-2011 và 10 tháng năm 2012.

Nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc: 2,67 tỷ
USD, tăng 45,9%; Hàn Quốc: 2,67 tỷ USD, tăng 79,7%; Nhật Bản: 1,38 tỷ USD,
tăng 55,4%; Hoa Kỳ: 861 triệu USD, tăng 2 lần; Singapore: 842 triệu USD, tăng
162%; Malaixia: 502 triệu USD, tăng 38,3%; … so với cùng kỳ năm 2011.
Sắt thép các loại: 1,17 triệu tấn, tăng 5,6%.

Lượng nhập khẩu sắt thép từ 3 thị trường chính Trung Quốc, Nhật Bản và
Nga 7 tháng giai đoạn 2008-2011.
III. Nhận xét về tình hình thương mại của Việt Nam-Nhật Bản.
1.Kết quả và thuận lợi:
Trong những năm qua tình hình thương mại của 2 nước khá phát triển,
Việt Nam và Nhật Bản có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ thương
mại và đầu tư. Từ đó thúc đẩy sự phát triển trên những lĩnh vực khác như chính trị,
văn hóa…
Với nền chính trị ổn định, thị trường tiềm năng và lợi thế về nguồn lao
động, Việt Nam là một trong những điểm đến hàng đầu của các doanh nghiệp Nhật
Bản những năm qua. Bên cạnh đó ngày càng có nhiều nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư
vào Việt Nam. Triển vọng trong tương lai Nhật Bản sẽ hợp tác với Việt Nam trên
các lĩnh vực: điện tử, phần mềm, tài chính - ngân hàng, truyền thông, chế tạo, sản
xuất linh kiện - phụ tùng, khai khoáng, xây dựng, vận tải, nông nghiệp, khí đốt,
dược phẩm…6 tháng đầu năm 2012, kim ngạch thương mại 2 chiều Việt Nam -
Nhật Bản đạt gần 12 tỷ USD.
Việt Nam - Nhật Bản đặt mục tiêu kim ngạch thương mại đạt 30 tỷ USD
vào năm 2015.
2. Khó khăn và thách thức:
Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thời gian qua đã gặt hái
được nhiều thành công to lớn,góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của cả 2 nước.
Tuy nhiên trong quá trình giao lưu thương mại cũng xuất hiện những vấn đề khá
phức tạp:
• Quy mô buôn bán còn quá nhỏ giữa 2 nước: kim ngạch buôn bán giữa Việt
Nam-Nhật Bản trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản là không
đáng kể. Có nghĩa là quan hệ song phương của 2 nước phụ thuộc nhiều vào
Nhật Bản. Nếu như có sự thay đổi trong chính sách của Nhật Bản sẽ tác
động lớn đến Việt Nam.
• Cơ cấu hàng hóa trao đổi còn nhiều bất cập: Việt Nam xuất sang Nhật Bản
chủ yếu là những hàng công nghiệp nhẹ,khoáng sản,hải sản,hàng thủ công

nhưng nhập lại những mặt hàng công nghiệp nặng từ Nhật Bản. Rất có thể
Việt Nam sẽ còn phải nhập khẩu nhiều mặt hàng,thiết bị…trong ngành công
nghiệp nặng của Nhật Bản còn chúng ta lại không có những mặt hàng sử
dụng tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu sang Nhật Bản và cán cân thương
mại thiên về Nhật Bản.
• Các doanh nghiệp Nhật Bản rất coi trọng chữ “tín” trong quan hệ với bạn
hàng và thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong hợp đồng khi đã ký hợp
đồng, doanh nghiệp chưa thật sự hiểu biết thấu đáo về văn hóa, tập quán
kinh doanh của Nhật Bản;từ đó gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam
trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản.
• Nhật Bản rất khắt khe về tiêu chẩn và chất lượng của hàng hóa. Cụ thể, có
rào cản kỹ thuật đối với hàng nông sản, thủy sản. Nhật Bản kiểm tra chất
lượng an toàn thực phẩm 100%.
IV. Giải pháp cho quan hệ thương mại Việt Nam Nhật Bản.
Hiện Nhật Bản là nước viện trợ lớn nhất cho Việt Nam, đồng thời là nước
đầu tư lớn thứ 3 vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư theo cam kết lên tới 4,48 tỉ
USD, trong đó 3,95 tỉ USD đã được giải ngân.
• Quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam và Nhật Bản là một trong
những mối quan hệ lớn, ổn định, lâu dài trong hoạt động kinh doanh
đối ngoại của nước ta. Hơn nữa nước ta nằm trong khu vực châu Á và
là thành viên của khối các nước ASEAN nên chúng ta cùng chịu tác
động chiến lược kinh tế tài chính của Nhật Bản đối với khu vực châu
Á và của khối ASEAN đối với Nhật Bản.
• Tăng cường hợp tác kinh tế với Nhật Bản nhằm tranh thủ các lợi ích
kinh tế có được, phục vụ cho sự nghiệp kinh tế- xã hội, nhưng đồng
thời để giảm tối thiểu sự phụ thuộc kinh tế vào Nhật Bản cũng như tác
động xấu đến chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong thời gian
tới, chúng ta cần xây dựng những chiến lược cụ thể trong quan hệ
kinh tế và quan hệ đối ngoại với Nhật Bản trên quan điểm: Đánh giá
đúng chiến lược kinh tế các nước trong khu vực, các tổ chức quốc tế,

thấy rõ những điểm bất đồng giữa ta và họ, củng cố tăng cường các
điểm chung, không bỏ lỡ thời cơ hợp tác để tránh những bất đồng về
lợi ích giữa các bên.
• Cải tiến hệ thống chính sách thuế khóa và thuế quan phù hợp với tự
do hóa thương mại thế giới:
o Nhanh chóng thực hiện các chương trình về thuế quan trong
chương trình của khối ASEAN để có thể sớm hòa nhập vào thị
trường khu vực và có thể tham gia và có thể tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này sẽ tạo cho chúng ta cơ
hội tham gia vào quá trình hoạt động thương mại với Nhật Bản.
Thông qua việc cung cấp các nguyên- nhiên liệu đầu vào cho
mạng lưới các công ty Nhật Bản, đã và đang được hình thành
trên khu vực châu Á sẽ tăng thêm về mặt số lượng và hiệu quả
kinh tế đối với hàng hóa của ta.
o Song song với chương trình cắt giảm thuế quan , chúng ta cũng
nên mạnh dạn áp dụng các mức thuế ưu đãi đối vơi thu nhập
của các doanh nghiệp trong nước tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thu nhập cao hơn. Để tăng nhanh khối lượng hàng hóa
qua chế biến, cách tốt nhất là chính phủ nên đưa ra các chính
sách tích cực, khuyến khích sự tham gia của các hãng Nhật Bản
trong quá trình sản xuất, chế biến hàng háo xuất khẩu của Việt
Nam. Đây chính là chìa khóa để Việt Nam nâng cao chất lượng
và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và
thị trường các nước khác.
• Ngoài ra, Việt Nam cũng phải có những biện pháp hiệu quả trong việc
chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý để quan hệ thương mại
Việt Nam- Nhật Bản phát triển thực sự với tiềm năng và nhu cầu của
hai nước. Nhất là về phía Việt Nam, chúng ta phải không ngừng đổi
mới, hoàn thiện hệ thống hoạt động ngoại thương, không chỉ dừng lại
trong việc nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng mà ở ngay cả các

chính sách thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu, đội ngũ cán bộ công
nhân viên… Hiện tại, để giảm bớt sự trả giá, ngay từ bây giờ cơ cấu
xuất khẩu của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng là: làm giảm và tiến
tới loại bỏ các nguyên, nhiên liệu thô, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu của
những mặt hàng đã qua chế biến. Cơ cấu nhập khẩu cũng phải chuyển
dịch theo hướng ưu tiên nhập khẩu những máy móc công nghệ đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nước. Có nghĩa là
các công nghệ hiện đại sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị nhập khẩu
của Việt Nam, bởi vì Nhật Bản là một nước có tiềm lực khoa học
công nghệ rất phát triển so với các quốc gia khác trên thế giới. Các
mặt hàng tiêu dùng, nếu không phải là thiết yếu thì sẽ không nhập
khẩu hoặc chỉ nhập khẩu với tỷ trọng không đáng kể, ưu tiên dành
mọi nguồn lực cho nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Tình trạng yếu kém trong khả năng tài chính của các công ty Việt
Nam, nhất là các công ty nhà nước, khiến hoạt động xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam – Nhật Bản giảm sút. Do vậy, chính phủ cũng cần có
những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết triệt để những
khoản nợ mà các công ty Việt Nam đang mắc phải( chủ yếu là nợ khó
đòi). Cho phép các công ty mua lại dưới hình thức trả chậm. Chính
phủ Việt Nam cũng cần phải có những biện pháp củng cố, sắp xếp,
điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh
nghiệp nhà nước kể cả những doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Có thể
cho giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong các
lĩnh vực ít phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Đẩy nhanh hơn tiến
trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hơn nữa vai
trò của thị trường chứng khoán trong đời sống kinh tế quốc gia, đồng
thời khuyến khích phát triển đa dạng hóa kinh tế tư bản tư nhân rộng
rãi trong ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm,
đa dạng hóa cả những thành phần kinh tế ngoài 6 thành phần kinh tế

chính.
• Mặt khác, chính phủ cũng cần có biện pháp nghiên cứu tìm hiểu sâu
sắc hơn về cách thức làm ăn của người Nhật, để điều chỉnh lại chính
sách của mình cho phù hợp hơn để tăng cường hiểu biết hơn nữa về
thị trường đối tác của mình. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập các
trung tâm tư vấn chuyên về Nhật Bản thuộc Bộ thương mại nhằm
giảm bớt những thua thiệt không đáng có của các công ty Việt Nam
khi kí hợp đồng gia công, liên doanh… với các công ty Nhật Bản.
• Một vấn đề không kém phần quan trọng đối với hoạt động thương mại
đó là chúng ta phải tích cực đẩy mạnh việc tìm kiếm, mở rộng thị
trường ra các nước trước hết với các nước trong khu vực ASEAN và
thu hút nhiều quốc gia hợp tác để tránh tình trạng phụ thuộc vào các
công ty Nhật Bản trong việc cung cấp sản phẩm đầu tư cũng như tiêu
thụ các sản phẩm đầu ra. Mục đích của việc này, một mặt là để hạn
chế và chia nhỏ những rủi ro cho các nhà xuất khẩu Việt Nam khi các
thị trường truyền thống bị biến động. Mặt khác nâng cao tính cạnh
tranh, vị thế của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, tránh bị
ép giá do mất đầu ra.
• Ngoài ra, cũng cần có các biện pháp triển khai từ cả hai phía Việt
Nam và Nhật Bản. Đó là hai nước cần có trao đổi, bàn bạc cụ thể
trong khuôn khổ song phương để đi đến kí kết hiệp định thương mại
giữa hai nước, trong đó Nhật Bản dành cho Việt Nam quy chế tối huệ
quốc( MFN) đầy đủ. Hiệp định này nếu được kí kết sẽ tạo ra hành
lang pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển hơn
nữa.
o Sớm thành lập cục xúc tiến thương mại để làm cầu nối giữa bộ
Thương mại, thương vụ tại các nước với doanh nghiệp Việt
Nam và nước ngoài trong việc trao đổi, thu thập thông tin về thị
trường cũng như thông tin về hàng hóa nước ngoài.
o Trong tiến trình cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu

hút vốn đầu tư nước ngoài, phía nhà nước Việt Nam cần hết sức
quan tâm tới vốn đầu tư nước ngoài, phía nhà nước Việt Nam
cần hết sức quan tâm tới vốn đầu tư của Nhật Bản vì các nhà
đầu tư Nhật khi chuyển sang sản xuất tại Việt Nam sẽ xuất khẩu
trở lại Nhât Bản một phần, hoặc có thể toàn bộ sản phẩm của
nhà máy họ, góp phân fnaang cao kim ngạch hàng hóa sản xuất
tại Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Đặc biệt các nhà
đầu tư Nhật Bản cũng rất quan tâm đến sự kiện Việt Nam kí
hiệp định thương mại song song với Mỹ ngày 13/7/2000 và sự
kiện Việt Nam đăng cai tổ chức Seagames lần thứ của Đông
Nam Á. Đây là cơ hội cho các cơ sở đầu tư của họ tại Việt Nam
có thể xuất khẩu hàng hóa sang cả thị trường Mỹ và các nước
khác giúp cho việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói
chung và tạo ra một cơ hội cho việc tiếp thị quảng cáo giới
thiệu sản phẩm mới.
• Giải quyết khó khăn cho các nhà đầu tư Nhật Bản:
o Bộ đã tiến hành khảo sát và theo dõi 500 doanh nghiệp Nhật Bản về
thực tiễn hoạt động cũng như các vướng mắc khó khăn gặp phải khi
làm ăn tại Việt Nam. Trong đó, các khía cạnh như việc thực thi các
quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, áp dụng chính sách kế
toán, chính sách lao động, tiền lương, đất đai, xây dựng đều được
nghiên cứu. Kết quả của khảo sát trên sẽ là tiền đề quan trọng để Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, nghiên cứu nhằm cải thiện hệ thống
chính sách, pháp luật để giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp
Nhật Bản.
o Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 20/9/2012,
Nhật Bản có 758 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với
tổng vốn đầu tư đăng ký 28,6 tỷ USD, đứng thứ nhất trên 96 quốc gia
và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Các dự án đầu tư của Nhật
Bản phân bố trên cả 63 tỉnh thành, tuy nhiên tập trung chính ở các

thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội,
Đồng Nai và Bình Dương.
o Hiện quan hệ thương mại - đầu tư giữa hai nước Việt Nam và Nhật
Bản đang có bước phát triển tốt trên nền tảng quan hệ chính trị bền
vững. Điều này thể hiện rõ ở việc trong những năm gần đây ngày càng
có nhiều nhà đầu tư Nhật Bản sang Việt Nam tìm kiếm cơ hội làm ăn,
kinh doanh. Một điểm mới nữa là hiện không chỉ có các nhà đầu tư
lớn, tập đoàn mà ngay đến các doanh nghiệm nhỏ và vừa (SMEs) của
Nhật Bản cũng coi Việt Nam là một thị trường đầu tư đầy tiềm năng,
hứa hẹn, đang có những kế hoạch đầu tư lâu dài. Tuy nhiên, phía Nhật
Bản cũng mong muốn Chính phủ Việt Nam cần có các kế hoạch cụ
thể hơn nữa về cải cách thủ tục hành chính, luật pháp cũng như các
quy định về kế toán, kiểm toán, thuế và các quy định về đầu tư, kinh
doanh để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư Nhật
Bản.
o Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng cho rằng, việc phát triển
quá nhanh các khu công nghiệp trong định hướng phát triển của Chính
phủ Việt Nam đã làm cho không ít các doanh nghiệp Nhật Bản thiếu
hụt nguồn lao động. Điều này dẫn đến việc họ khó có thể sử dụng,
tuyển dụng nguồn nhân lực địa phương, không tìm được lao động đã
qua đào tạo, kỹ sư lành nghề. Các doanh nghiệp Nhật Bản mong
muốn Chính phủ Việt Nam xây dựng các chương trình đào tạo thực
hành theo yêu cầu của các nhóm ngành, nâng cao năng lực của các
trường đào tạo nghề, có chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật phù
hợp với nhu cầu thực tế, chú trọng vấn đề thực hành. Đặc biệt, một
biện pháp có tính khả thi cao từ phía doanh nghiệp Nhật Bản đề xuất
là thành lập các cơ sở đào tạo của mình tại Việt Nam. Thêm vào đó,
các doanh nghiệp Nhật Bản cũng mong muốn có được nguồn cung
cấp điện ổn định, và được nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin, hạ tầng
khu công nghiệp

• Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Nhật Bản: Tổ chức các hội thảo nhằm đánh
giá đúng thực trạng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam – Nhật Bản và
đề ra các giải pháp khả thi để thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác này trong
tương lai trên các lĩnh vực đầu tư phát triển, thương mại, du lịch, giáo dục
đào tạo và giao lưu văn hóa.
• Hơn 30 năm qua, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt
trong giai đoạn từ đầu thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam - Nhật Bản đã có
những bước phát triển mạnh mẽ cả về chính trị và kinh tế. Không những là
đối tác hàng đầu về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và về quan hệ
thương mại, Nhật Bản còn là một trong những quốc gia có vốn đầu tư trực
tiếp (FDI) lớn nhất vào nước ta.
o Để tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản, Việt Nam cần giải quyết
sớm bài toán phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cùng với việc tháo
gỡ các vướng mắc khác đang tồn tại trong ngành này – đây chính là
chìa khóa để Việt Nam có thể đón bắt được làn sóng đầu tư mới của
Nhật Bản. Công nghiệp phụ trợ có vai trò rất quan trọng trong việc thu
hút dòng vốn FDI, bởi vì bản thân các tập đoàn và các công ty lớn về
lắp ráp hiện cũng chỉ giữ lại trong quy trình của mình các khâu nghiên
cứu, phát triển sản phẩm và lắp ráp thay vì tất cả gói gọn trong một
công ty hay nhà máy.
o Trên thực tế, Việt Nam rất có tiềm năng phát triển công nghiệp phụ
trợ như lợi thế về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên. Việc ngày
càng nhiều các doanh nghiệp nước ngoài quan tâm đầu tư vào Việt
Nam đang tạo ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp trong ngành công
nghiệp phụ trợ bởi khi quyết định đầu tư, các doanh nghiệp nước
ngoài đánh giá rất cao sự hỗ trợ của các doanh nghiệp công nghiệp ở
khu vực xung quanh nhằm gia tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Ông
Junichi Mori, chuyên gia UNIDO cho biết, đối với các sản phẩm điện
tử tiêu dùng, chi phí vật liệu và linh phụ kiện chiếm 70% chi phí sản
xuất, phần còn lại bao gồm chi phí về lao động (khoảng 10%), chi phí

chế tạo (18%) và chi phí hậu cần (2%) . Chính vì vậy, việc cắt giảm
chi phí lao động của sản phẩm sẽ không thu được nhiều kết quả so với
việc cắt giảm chi phí theo linh phụ kiện. Điều tra của Ngân hàng hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) cũng cho thấy, khoảng 32% số công ty
Nhật Bản coi Việt Nam là nước tiềm năng để phát triển sản xuất và tỏ
rõ sự quan tâm tới Việt Nam. Ngành công nghiệp chế tạo Nhật Bản
xác định, trong 3 năm tới, trong số các nước có tiềm năng phát triển
sản xuất, Việt Nam được đặt ở vị trí thứ 4 sau Trung Quốc, Thái Lan
và Mỹ.
o Về phía Nhà nước, đứng trước sự yếu kém của ngành công nghiệp
phụ trợ, mũi đột phá là phải tập trung năng lực vật chất để giải quyết.
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ trước hết đòi
hỏi Chính phủ Việt Nam phải có khuôn khổ chính sách phù hợp và sự
hỗ trợ đúng mức từ các đối tác Nhật Bản. Muốn làm được điều đó, tr-
ước hết chúng ta cần phải dựa vào “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật
Bản”. Nhưng điều quan trọng hơn là sự sẵn sàng của các doanh
nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong
phát triển những công nghệ mới phù hợp với nhu cầu về sản phẩm
phụ trợ do đầu tư mới đặt ra. Trước mắt, cần rà soát lại các doanh
nghiệp nhà nước để tìm ra các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp
các bộ phận, linh kiện, phụ kiện với chất lượng và giá thành cạnh
tranh, từ đó tăng cường hỗ trợ về vốn, công nghệ để tiềm năng trở
thành hiện thực. Chính phủ cần phải có chế độ khuyến khích thỏa
đáng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện
thành công việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ
đạt hiệu quả và chất lượng tốt.
o Về phía doanh nghiệp, để có thể trở thành các nhà cung cấp linh, phụ
kiện cho các hãng nước ngoài, cần chú trọng tuân thủ 3 nguyên tắc bất
di bất dịch khi cộng tác với các đối tác nước ngoài: Đảm bảo giao

hàng đúng hạn; chất lượng sản phẩm luôn ổn định; và giá cả luôn
cạnh tranh. Đối với các doanh nghiệp FDI, tiêu chuẩn để lựa chọn đối
tác là chỉ những doanh nghiệp nào đáp ứng được đủ các điều kiện về
chất lượng, thời gian giao hàng thì mới được chọn.Các linh kiện chỉ
đạt từ 80-90% chất lượng tiêu chuẩn để lắp ráp vào sản phẩm hoàn
chỉnh sẽ không được chấp nhận.Điều này là thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp trong nước, đặt ra yêu cầu cho các công ty này phải tự
trau dồi để nâng cao năng lực, cải tiến chất lượng. Một số nhà cung
cấp trong nước hiện là đối tác của các công ty liên doanh, công ty vốn
đầu tư nước ngoài đã phải bỏ nhiều công sức tìm hiểu đối tác, nắm bắt
công nghệ và cách quản lý, điều hành của các công ty Nhật, bên cạnh
đó là đầu tư thiết bị, nhà xưởng, cải tạo điều kiện làm việc, áp dụng
các tiêu chuẩn ISO
• Những giải pháp công nghiệp ở địa phương để thu hút công nghiệp hỗ trợ từ
Nhật Bản:
o Xác định tầm nhìn và quy hoạch. Đây là vấn đề cốt lõi xây dựng định
hướng thu hút đầu tư của địa phương. Trên cơ sở quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội của tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, phân tích
các lợi thế so sánh của địa phương để xác định có thu hút phát triển
công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh hay không? Khi đã xác định nhu
cầu cần thiết phải phát triển công nghiệp hỗ trợ, nên rà soát lại quy
hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn. Từ đó căn cứ
vào yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản để xác định bố trí quy hoạch
khu công nghiệp dành riêng cho phát triển công nghiệp hỗ trợ. Vị trí
quy hoạch cần thỏa mãn nhu cầu xây dựng khu công nghiệp kết hợp
với đô thị mới.
o Chuẩn bị các điều kiện về môi trường pháp lý và nhân lực. Cần
nghiên cứu các chính sách khuyến khích, ưu đãi phát triển công
nghiệp hỗ trợ của Nhà nước, vận dụng có hiệu quả vào điều kiện của
địa phương, xây dựng các chính sách khuyến khích ưu đãi riêng của

địa phương nhưng không trái với quy định của pháp luật. Tiếp tục cải
cách thủ tục hành chính, hoàn chỉnh cơ chế “một cửa tại chỗ”, nên có
dịch vụ một cửa bằng tiếng Nhật, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà
đầu tư khi tiến hành các thủ tục hành chính trong đầu tư, nhất là nhà
đầu tư công nghiệp hỗ trợ Nhật Bản. Chú trọng đào tạo các nghề lao
động kỹ thuật liên quan đến ngành công nghiệp hỗ trợ (cơ khí, điện,
điện tử, hàn, cắt gọt kim loại, công nghệ thông tin…) để đạt được
trình độ các doanh nghiệp Nhật Bản yêu cầu. Đặc biệt đào tạo ngoại
ngữ tiếng Nhật và văn hóa, tác phong kỷ luật lao động của người
Nhật.
o Chuẩn bị các điều kiện về hạ tầng cơ sở. Trên cơ sở quy hoạch khu
công nghiệp dành riêng cho công nghiệp hỗ trợ, bố trí nguồn lực và
tiến hành đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu
ngoài hàng rào. Đồng thời kêu gọi thu hút các nhà đầu tư kinh doanh
hạ tầng khu công nghiệp-đô thị đồng bộ. Như trên đã đề cập, đây là
điều kiện cần thiết tuyệt đối để thu hút được các nhà đầu tư công
nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản. Việc xây dựng loại khu công nghiệp-đô
thị này nên kêu gọi các nhà đầu tư hạ tầng từ Nhật Bản góp vốn và
nên thuê các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp từ Nhật Bản.
o Tăng cường xúc tiến đầu tư và đối ngoại nhân dân. Khi đã chuẩn bị cơ
bản các điều kiện, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp xúc tiến đầu tư
tại thị trường Nhật Bản. Có thể phải mở văn phòng giao dịch tại Nhật
Bản để cung cấp thông tin đầu tư và giải quyết ngay các thủ tục đầu tư
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Tận dụng sự giúp đỡ
của các tổ chức xúc tiến đầu tư của Nhật Bản như JICA, JETRO…,

×