Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phương hướng giải quyết trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.78 KB, 25 trang )

Lời nói đầu
Trong quá trình đổi mới hiện nay, Đảng ta đà xác định:
Chủ nghĩa Mác - Lênin - phép biƯn chøng duy vËt lµ khoa häc vµ lµ mét
trong những đỉnh cao của trí tuệ loài ngời. Không một ai cã thĨ phđ nhËn r»ng
khi lý ln khoa häc đó đợc quán triệt và vận dung đúng đắn thì nhân dân lao
động thế giới đà làm nên những biến cố lịch sử vĩ đại chủ nghĩa xà hội từ chỗ
còn là bóng ma đà biến thành hiện thực và tån t¹i víi t thÕ mét hƯ thèng hïng
hËu trong hơn nửa thế kỉ. Ngày nay, cho dù chủ nghĩa xà hội có bị tổn thơng,
sụp đổ một mảng lớn, song nó vẫn chứa đựng những khả năng hồi phục, phát
triển và chiến thắng chủ nghĩa t bản cùng tất cả các chế độ có áp bức, bất công
trong tơng lai.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay, Đảng ta
một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của phép biện chứng
duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng.
Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nớc ta cũng là nội dung nghiên cứu của tiểu luận này. Để
hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy
giáo. Do trình độ có hạn, em mong rằng tiếp tục đợc thầy giúp đỡ và uốn nắn và
em hy vọng bài viết sẽ tiến bộ hơn ở các đề tài sau.
Xin kính cảm ơn thầy !

1


A-/ Giới thiệu đề tài
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tác động lên tất cả các quốc
gia. Có thể nói tất cả mọi quốc gia hoặc là đang ở trạng thái này, trình độ này
hoặc là ở trạng thái khác, trình độ khác của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối
với những nớc phát triển, công nghiệp hoá tiếp tục đào tạo ra và nâng cao hơn
nữa năng suất lao động, đẩy nhanh quá trình tăng trởng kinh tế và phát triển xÃ


hội. Đối với những nớc chậm và đang phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
con đờng tất yếu để đa đất nớc thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, từng bớc hội nhập
vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang
là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu hiện nay.
Xuất phát từ kết quả của mời năm đổi mới, từ những tiền đề kinh tế - xÃ
hội đà tạo ra, Đảng ta nhận định rằng đất nớc đà chuyển sang thời kì phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc ta có mục tiêu: Biến nớc
ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức
sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc,
dân giàu nớc mạnh, xà hội công bằng, văn minh.
Để đạt đợc mục tiêu đó điều quyết định là ở con ngời, với trí tuệ và năng
lực cao, và đặc biệt quan trọng là phải có một cơ sở khoa học, một cơ sở lí luận
vững chắc, lấy đó làm cơ sở phơng pháp luận để xây dựng và tổ chức thực hiện
các quyết sách chính trị của chúng ta. Điều này có vai trò quyết định cho thắng
lợi cuối cùng của công cuộc đổi mới ở nớc ta.
Trong tình hình đó, Đảng ta đà khẳng định giá trị khoa học của phép biện
chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời, lấy nó làm kim chỉ nam cho
mọi hành động cách mạng bởi:
Chủ nghÜa duy vËt biƯn chøng lµ khoa häc vµ lµ một trong những đỉnh cao của
trí tuệ loài ngời, không mét ai cã thĨ phđ nhËn r»ng khi lÝ ln khoa học đó đợc quán
triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân lao động thế giới đà làm nên những biến cố
lịch sử vĩ đại, chủ nghĩa xà hội từ chỗ còn là bóng ma đà biến thành hiện thực và
tồn tại với t thế một hệ thống hùng hậu trong hơn nửa thế kỷ, ngày nay, cho dù chủ
nghĩa xà hội có bị tổn thơng, sụp đổ một mảng lớn, song nó vẫn chứa đựng những khả
năng hồi phục, phát triển và chiến thắng chủ nghĩa t bản cùng tất cả các chế độ xà hội
có áp bức, bất công trong tơng lai.
Bởi vậy, chúng ta có nắm v÷ng chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng, cã vËn dơng một cách
sáng tạo vào công cuộc đổi mới hiện nay thì thành công mới có thể nắm trong tầm tay.


2


B-/ Nội dung nghiên cứu
I-/

Những khái niệm cơ bản:

* Chủ nghÜa duy vËt:
Lµ chđ nghÜa thõa nhËn vËt chÊt lµ cái có trớc so với ý thức, nó quyết định
và sinh ra ý thức, còn ý thức là cái phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật căn cứ
vào hai yếu tố cơ bản:
- Bản thể của thế giới.
- Thành tùu cđa khoa häc.
* PhÐp biƯn chøng: ta ph¶i cã khái niệm biện chứng là gì?
Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính chất gắn liền với sự tồn tại, vận
động của thế giới.
Phép biện chứng: là học thuyết hay lÝ ln nghiªn cøu vỊ tÝnh biƯn chøng vỊ thế giới.
* Phép biện chứng duy vật: Mác - Ănghen:
Đứng trên lập trờng duy vật, căn cứ vào các thành tựu khoa học và kỹ thuật
nên nó là đỉnh cao trong sự phát triển của phép biện chứng.
* Lực lợng sản xuất xà hội:
Lực lợng sản xuất phản ánh trình ®é chinh phơc tù nhiªn cđa con ngêi nã thĨ
hiƯn năng lực thực tiễn của con ngời trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lợng
sản xuất bao gồm những t liệu sản xuất và ngời lao động với những kinh nghiệm sản
xuất, kĩ năng, kĩ xảo và những thói quen lao động của họ. Các yếu tố hợp thành lực lợng lao động có quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của lực lợng sản xuất phụ
thuộc vào sự phát triển của các yếu tố hợp thành nó.
* Quan hệ sản xuất xà hội:
Là quan hệ kinh tế giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất và tái sản xuất

xà hội. Nó bao gồm: quan hƯ kinh tÕ - x· héi vµ quan hƯ kinh tế - tổ chức.
* Nhân tố khách quan:
Là tổng hợp những điều kiện, những quan hệ kinh tế, chính trị, xà hội và
tinh thần của đời sống xà hội. Tất cả những điều kiện và quan hệ ấy tồn t¹i
3


không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và đợc bộc lộ ra trong hoạt động
của chủ thể.
* Nhân tố chủ quan:
Đó là những phẩm chất khoa học, lý luận, t tởng, chính trị, đạo đức, tâm
lý, tổ chức của chủ thể đợc bộc lộ ra trong quá trình hoạt động. Những phẩm
chất này bao giờ cũng có tính hai mặt tính cực và tiêu cực.
* Nội dung của quy luật mâu thuẫn:
Mọi sự vật, hiện tợng đều bao hàm mâu thuẫn.
Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập thống nhất và đấu tranh với nhau, tạo ra
nguồn gốc, động lực cho sự vận động và phát triển.
II-/ Phép biện chứng duy vật với công cuộc CNH-HĐH ở nớc ta
hiện nay:

1-/ Vận dụng triệt để những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng là nhân tố đảm bảo tiếp tục hoàn thiện chủ trơng CNH-HĐH và
tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trơng đó trong thực tế cuộc sống.
Đồng thời Mác và Ănghen đà nhiều lần soạn thảo ra những quyết sách
đúng đắn cho giai cấp vô sản để đa phong trào công nhân từ tự phát sang tự
giác, từ thắng lợi trong đấu tranh kinh tế đến thắng lợi trong đấu tranh chính trị,
tạo tiền đề cho cuộc chiến đấu có ý nghĩa quyết định nhằm giải phóng triệt để
giai cấp công nhân và xà hội nói chung. Đạt đợc kết quả nh vậy là nhờ các ông
luôn quán triệt phơng pháp luận duy vật biện chứng vào việc xây dựng và tổ
chức thực hiện quyết sách của giai cấp vô sản.

Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là cơ sở phơng pháp luật để xây
dựng và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị của chúng ta vì:
a-/ Nó giúp ta hiểu đợc nguyên nhân sâu xa của các hiện tợng và quá trình
xà hội, giúp chúng ta phát hiện ra những mâu thuẫn, những động lực của sự phát
triển xà hội. Nhờ đó có thể xác định đợc chiều hớng chung của sự phát triển lịch
sử, xác định đợc vai trò và thái độ của lực lợng xà hội chủ yếu. Tất cả những cái
đó tạo thành cơ sở xuất phát để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính
trị.

4


Hoạt động của con ngời nói chung, của nhân dân ta nhằm đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc nói riêng - nh triết học Macxit đÃ
chỉ ra - đều nhằm theo đuổi những nhu cầu và lợi ích nhất định. Trong đó những
nhu cầu của con ngời là không có giới hạn. Mặt khác, trong xà hội nớc ta hiện
nay, việc đáp ứng nhu cầu một cách đầy đủ cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi
vùng, mọi địa phơng là rất khác nhau nếu không muốn nói là rất chênh lệch,
nếu không muốn so sánh với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy
chúng ta phải nhận rõ tầm quan trọng và bớc thiết yếu của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay đợc để đề ra những chính sách phải thật thận
trọng và đúng đắn.
Lợi ích chiếm vị trÝ quan träng nhÊt trong hƯ thèng tỉng lùc thóc ®Èy ho¹t
®éng cđa con ngêi. Trong x· héi ta hiƯn nay đang tồn tại nhiều giai cấp và tầng
lớp khác nhau với những lợi ích không hoàn toàn nh nhau. Sự hoà hợp thống
nhất ý chí, nỗ lực chung của cả quốc gia, dân tộc, các tầng lớp xà hội là một
trong những điều kiện quan trọng. Thiếu nó, tiến trình hiện đại hoá sẽ phải trả
giá đắt, thậm chí bị đến thất bại. Nếu trớc đây, hiện đại hoá ở các nớc Châu Âu
đà diễn ra trong sự phân chia xà hội thành những cực đối kháng nhau kịch liệt,
thì ngày nay, hiện đại hoá tăng tốc, đòi hỏi sự thống nhất của đa dạng và khác

biệt trên tất cả các phơng tiện của đời sống xà hội. ý chí phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc trở thành ý chí chung của toàn dân và là động
lực tinh thần, t tởng của toàn xà héi. Thùc tÕ cho thÊy ë c¸c quèc gia cã tốc độ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh đều giữ đợc sự hoà hợp, thống nhất đoàn
kết các lực lợng các thành phần sở hữu, các khu vực kinh tế, các đảng phái, các
vùng lÃnh thổ trong một ý chí và mục tiêu chung, dân giầu, nớc mạnh, quốc gia
phát triển nhanh để kịp các nớc đà phát triển cao. Bằng cách đó, nớc ta có thể
phát huy tiềm lực, sự sáng tạo, tính năng động của tất cả các thành phần, các
khu vực kinh tế, các lực lợng lao động xà hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế, hiện đại hoá đất nớc.
Việc thực hiện và giải quyết có hiệu quả những khác biệt vốn có trong hệ
thống động lực ấy là điều kiện tiên quyết để đa quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nớc tới thành công.
b-/ Phép biện chứng duy vật giúp cho giai cấp vô sản cách mạng giải quyết
một cách khoa học mối quan hệ giữa mục tiêu và phơng tiện. Trong khi kiên trì

5


mục tiêu mà quyết sách đà chọn lại có thể linh hoạt thay đổi phơng pháp, phơng
tiện hoạt động tuỳ thuộc điều kiện khách quan vốn luôn luôn thay đổi.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
đời sống kinh tế - xà hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sách sử dụng
một cách phổ biến sức lao động trong vùng với công nghệ, phơng tiện và phơng
pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động cao. Mục tiêu đó có thể đạt đợc bằng nhiều phơng thức, con đờng khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ tiến triển
của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tuỳ thuộc vào những diễn biến
thực tế trong nớc cũng nh tình hình quốc tế ở giai đoạn tơng ứng. Trong khi
xem trọng sức mạnh có đợc từ nguồn lực Nhà nớc, từ kinh tế quốc doanh, chúng
ta đÃ, đang và sẽ phải khai thác tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế
khác; trong khi hớng trọng tâm vào việc khai thác những nguồn lực trong nớc

chúng ta cũng tranh thủ mọi cơ hội đi khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế.
Sự quốc tế hoá của lực lợng sản xuất do cách mạng khoa học và công nghệ
mang lại đà làm tăng cờng xu hớng quốc tế hoá đời sống quốc tế nói chung. Từ
đó đà hình thành một tính quy luật mới: trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia,
dân tộc chỉ tồn tại và phát triển khi tự đặt mình là một nhân tố của cộng đồng
thế giới. Một nớc nghèo nàn, lạc hậu có thể bỏ qua một vài giai đoạn phát triển
để đi đến một xà hội văn minh, nếu ở đó có đờng lối đúng để không chỉ tận
dụng đợc thành quả do cách mạng khoa học - công nghệ mang lại mà còn tạo ra
mặt bằng về cơ chế, về chính sách, về con ngời,... để cho cuộc cách mạng đợc
triển khai ngay trên quê hơng mình. Trong trờng hợp ngợc lại, nớc đó sẽ bị bỏ
rơi ở cuối đoàn tầu lịch sử; khoảng cách giữa các nớc đó với các nớc văn minh
ngày càng mở rộng, sự tụt hậu về kinh tế - xà hội là không tránh khỏi.
Bởi vậy, trong khi nhấn mạnh việc chống nguy cơ chệch hớng quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta cũng rất nhấn mạnh việc mở rộng hợp tác liên
doanh với nớc ngoài. Đó không chỉ là phơng thức để thu hút vốn đầu t, nó còn là
con đờng thích hợp để tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lí tiến bộ,
mở đờng lối đi vào thị trờng khu vực và thị trờng thế giới,... để khai thác có hiệu
quả những lợi thế so sánh trong từng thời kỳ ph¸t triĨn”.
c-/ PhÐp biƯn chøng duy vËt cho phÐp nhËn định rõ ràng ranh giới giữa tính
nguyên tắc với chủ nghĩa giáo điều, bệnh dập khuôn máy móc, giữa tính linh
hoạt mang tính cách mạng với chủ nghĩa cơ hội, xÐt l¹i.

6


ở mọi nớc, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc đều nhằm chuyển lao

động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phơng tiện và phơng pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng
suất lao động xà hội cao. Để đạt đợc mục tiêu đó, bên cạnh những vấn đề có

tính quy luật chung, tuỳ thuộc những thời kì lịch sử khác nhau. Công nghiệp
hoá trong thời kì ra đời và phát triển của chủ nghĩa t bản đợc tiến hành bằng
những biện pháp phi nhân tính, thấm đầy máu và nớc mắt của quần chúng nhân
dân lao động. Hiện đại hoá trong chủ nghĩa t bản hiện đại đôi khi cũng đợc thực
hiện bằng việc đẩy những ngành sản xuất cần nhiều lao động nặng nhọc hay
gây ô nhiễm môi trờng nặng nề sang các nớc thế giới thứ ba, khai thác tối đa
nguồn nhân công rẻ mạt và nguồn tài nguyên phong phú của các nớc đó,... Phải
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện cha có tiền lệ trong lịch
sử, phần lớn các nớc t bản chủ nghĩa phải trải qua quá trình tìm tòi, thử nghiệm
lâu dài và trên đờng đạt tới đích mới phải trả những giá không rẻ.
Chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nâng cao mức sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xÃ
hội công bằng, văn minh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đợc xem là một trong
những con đờng để giải phóng con ngời. Trớc hết là ngời lao động. Mục tiêu
nhân bản đó không thể đạt đợc bằng những phơng tiện phi nhân tính. Chúng ta
không phủ nhận rằng có những tính quy luật chung của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Nhng ngay cả với những vấn đề đó, khi vận dụng, chúng ta
phải chú ý tới hoàn cảnh đặc thù của thời đại và của đất nớc cũng nh định hớng
chính trị xà hội chủ nghĩa của việc vận dụng những tính quy luật chung. Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng. Khi đó, cái chung sẽ
biểu hiện ra cái đặc thù. Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay còn bị chi phối bởi những quy luật đặc thù của một nớc bỏ qua
chế độ t bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xà hội mà một trong những nhân tố
mang tính thời đại cho phép sự bỏ qua đó - ngoài nhân tố chính trị là tính chất
của thời đại (thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xà hội) - là cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đang triển khai trên quy mô toàn thế giới.
Khi xác định phơng hớng, con đờng để thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nớc, chúng ta cần tận dung lợi thế của nớc đi sau, không giáo điều lặp
lại mọi quá trình (kể cả thành công và thất bại) mà các nớc khác đà trải qua là

7



nớc đi sau, chúng ta còn có khả năng thực hiện sự phát triển rút ngắn ngay
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
2-/ Nắm vững triết häc Macxit sÏ cho phÐp gi¶i qut mèi quan hƯ giữa
khách quan và chủ quan, giữa khoa học và cách mạng trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
Cuộc sống đà xác nhận tính đúng đắn trong lời tiên đoán sau đây của
Lênin Chỉ Đảng nào đợc một lí luận tiên phong hớng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Lý luận tiêng phong mà Lênin nói ở đây
không có gì khác hơn chính là chủ nghĩa Mác mà chủ nghĩa duy vật biện chứng
là cơ sở triết học của nó. Nắm vững triết học của chủ nghĩa Mác, lấy nó làm cơ
sở, phơng pháp luận xuất phát cho việc xây dựng quyết sách chính trị là cái bảo
đảm cho thắng lợi cách mạng. Điều đó giải thích sao trong khi khẳng định tầm
quan trọng của chủ nghĩa Mác trong cách mạng vô sản, Lênin lại khẳng định
rằng: những ngời Macxit chắc chắn là chỉ mợn của học thuyết Mác những phơng pháp quý báu mà nếu không có thì không thể thiếu đợc những quan hệ xÃ
hội. Đơng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, chúng ta nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lênin là nắm cái phơng pháp xử lí mọi việc và cách thức đối xử với
mọi ngời.
Trong số những phơng pháp quý báu do triết học duy vật biện chứng
đem lại, cái có ý nghĩa bao chùm là phép biện chứng duy vật giữa khách quan
và chủ quan; giữa khoa học và cách mạng. Mối quan hệ đó phải trở thành cơ sở
phơng pháp luận đầu tiên để xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trơng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan
luôn là cơ sở cho hoạt động của con ngời. Trong quá trình hoạt động muốn đạt
đợc hiệu quả cao nhất thì tất yếu phải tôn trọng nguyên tắc khách quan trong
việc xem xét và giải quyết vấn đề, đồng thời phát huy cao độ tính tích cực của
nhân tố chủ quan. Hơn nữa, đối với nớc ta, đây là vÊn ®Ị võa cã ý nghÜa lÝ ln,
võa cã ý nghĩa thực tiễn. Trớc thời kì đổi mới, do không nhận thức đợc đầy đủ

mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, chúng ta
đà mắc phải căn bệnh chủ quan duy ý chí, thiếu tôn trọng quy luật khách quan,
thậm chí có lúc còn hành động không theo quy luật khách quan. Điều đó đà gây
ảnh hởng lớn đến tình hình kinh tế, xà hội trong nớc và đà để lại những hậu qu¶
8


nghiêm trọng. Trong những năm tiến hành đổi mới đất nớc, căn bệnh đó đà đợc
khắc phục về căn bản. Chúng ta đà đạt đợc những thành tựu đáng kể trong nhiỊu
lÜnh vùc cđa ®êi sèng x· héi nhê nhËn rõ và vận dụng đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan và ngay cả trong bối
cảnh đó, những thắng lợi đà giành đợc chỉ trở nên bền vững trên cơ sở tiếp tục
nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan của sự phát triển xà hội (đặc
biệt là các quy luật kinh tế) có thể ta mới nắm vững đợc quy luật để vận dụng
quy luật vào công cuộc xây dựng đất nớc hiện nay, đồng thời phát huy cao độ
của nhân tố chủ quan. Điều đó cho thấy chính thực tiễn của công cuộc đổi mới
đang đòi hỏi chúng ta phải nhận rõ mối quan hệ giữa nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan, giữa khoa học và cách mạng, làm rõ tính tích cực của nhân
tố chủ quan và tìm ra những biện pháp hữu hiệu để phát huy tính tích cực đó.
Chủ trơng đó biểu hiện ý chí của Đảng và nhân dân trong việc thay đổi tự
nhiên và xà hội. Việc tổ chức thực hiện nó biểu hiện ý chí khả năng của các cấp
lÃnh đạo hiện thực hoá chủ trơng đó trong thực tiễn cuộc sống. Tất cả những cái
đó thuộc phạm trù nhân tố chủ quan của quá trình lÃnh đạo cách mạng. Song sự
phát triển của xà hội nói chung, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, trong đó
khách quan luôn là tính thứ nhất so với nhân tố chủ quan. Các quyết sách của
bất kì cấp nào có tiến hành thực hiện hay không, mức độ hiệu quả của việc tổ
chức thực hiện các quyết sách đó ra sao... tất cả đều tuỳ thuộc một cách quyết
định và sự phù hợp của chúng với ®iỊu kiƯn kh¸ch quan, quy lt kh¸ch quan
cđa sù thay ®ỉi x· héi. Bëi vËy, trong khi kh«ng mét chót coi nhẹ vai trò của

tình cảm trong quá trình cách mạng mà định ra một sách lợc cách mạng đợc.
Khi định ra sách lợc, phải trầm tĩnh, phải hết sức khách quan. Quán triệt t tởng
đó, trong cơng lĩnh của Đảng ta cũng khẳng định Mọi đờng lối chủ trơng,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Trong tình hình đất nớc ta hiện nay, nớc ta đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xà hội mà nớc ta lại là một nớc nghèo trên thế giới. Dân số đông, mặt
bằng dân trÝ thÊp, diƯn tÝch nhá hĐp, t tëng b¶o thđ còn tồn tại là rào cản lớn cho
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Không những thế, cơ sở vật
chất của ta còn nghèo nàn, lạc hậu, khoa học phát triển chậm, không bắt kịp với
thế giới tạo ra những khó khăn chồng chất cho nớc nhà. Chính những điều kiện
khách quan đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận sự thực, nhận ra thực trạng của
9


®Êt níc, huy ®éng tiỊm lùc s½n cã, vËn dơng một cách có hiệu quả chủ nghĩa
Mác - Lênin vào quá trình đổi mới. Đây là lúc cần nhất sự phát huy tích cực của
nhân tố chủ quan. Phải khoa học và mang tính cách mạng. Xứ mạng lịch sử đÃ
đặt trách nhiệm lên giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam, hai giai cấp luôn
luôn dơng cao ngọn cờ cách mạng, có đủ phẩm chất và sự nhiệt tình cách mạng.
Điều quan trọng là chúng ta phải từng bớc tuyên truyền, phổ cập những kiến
thức, sự ham hiểu, tri thức mới vào mọi tầng lớp nhân dân, có những chính sách
thích hợp liên kết đợc các tồng lớp nhân dân trong xà hội, nhận rõ ra vai trò và
trách nhiệm của họ với công cuộc đổi mới của đất nớc hiện nay.
Hiện tại, nhu cầu bức thiết phát huy tác dụng của nhân tố chủ quan, đó là
những phÈm chÊt khoa häc, lÝ luËn t tëng, chÝnh trÞ, đạo đức, tâm lí tổ chức của
chủ thể - nhân dân lao động, quần chúng cách mạng là con đờng ngắn nhất để
đa đất nớc đi lên.
Trong số những cơ sở khách quan để đề ra quyết sách chính trị cũng nh
phơng thức tổ chức thực hiện, Lênin làm nổi bật vai trò hàng đầu của mối quan
hệ giai cấp. Ông cho rằng, chỉ có nghiên cứu một cách khách quan toàn bộ

những mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp trong một xà hội nhất định, không
trừ một giai cấp nào và do đó, liên kết đợc trình độ phát triển chung của xà hội
ấy và mối liên hệ qua lại giữa xà hội ấy với các xà hội khác thì mới có cơ sở cho
một sách lợc đúng đắn của giai cấp tiên phong đợc. Bởi vì đứng trên quan điểm
duy vật biện chứng một cuộc cách mạng thực sự Macxit phải là cuộc đấu tranh
giữa các lực lợng xà hội sinh động, những lực lợng ấy đợc đặt trong những điều
kiện khách quan nhất định.
Chủ trơng công nghiệp, hiện đại hoá đất nớc ta đợc đặt trong hoàn cảnh gấp
rút trên phạm vi quốc gia, giai cấp cách mạng đứng ở thế áp đảo toàn diện - từ
kinh tế đến chính trị, t tởng - tinh thần; nhng trên quy mô quốc té lại cha hoàn
toàn nh vậy. Sức mạnh kinh tế, tiềm năng khoa học và công nghệ đang tập trung
trong tay giai cấp t sản động quyền. Hoàn cảnh khách quan đó đòi hỏi chúng ta
phải có chính sách mềm dẻo đủ mức cần thiết để chuyển những nhân tố ngoại
sinh đó thành yếu tố nội sinh cho việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc. Khi chuyển sang chính sách tô nhợng và khôi phục thành
phần kinh tế t bản t nhân, Lênin đà nói rằng giờ đây giai cấp vô sản phải biết sử
dụng bàn tay của giai cấp t sản để bắt nó cày trên miếng đất mà trên đó chủ nghĩa
t bản không thể nảy sinh và tồn tại đợc. Trong hoàn cảnh cụ thể ë níc ta hiƯn

10


nay, việc thực hiện có hiệu quả di huấn đó của Lênin đà trở thành một đòi hỏi
bức bách để đa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thắng lợi hoàn toàn.
Muốn vậy, chủ thể của quá trình cách mạng Đảng và nhân dân lao động nớc ta phải có sự trởng thành vợt bậc về năng lực trí tuệ để luôn ở thế chủ động, làm chủ
đợc quá trình sử dụng sức mạnh của chủ nghĩa t bản, của thành phần t bản t nhân.
Vì lợi ích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng xà hội chủ nghĩa.
Cùng với việc xuất phát từ những quan hệ giai cấp cụ thể, cơ sở khách
quan để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị còn là những điều
kiện khách quan, quy luật khách quan của chính sách các quá trình mà quyết
sách sẽ tác động nhằm biến đổi nó.

Quyết sách chính trị không chỉ đề ra mục tiêu thay đổi hiện thực, mà còn
đề cập tới những phơng pháp chủ yếu để thực hiện những sự thay đổi đó. Phơng
pháp hành động để thực hiện hoá quyết sách thuộc phạm trù nhân tố chủ quan.
Nhng mọi phơng pháp, cách thức tổ chức thực hiện quyết sách chính trị chỉ có
hiệu quả khi phù hợp với bản chất khách quan của quá trình.
Mọi quyết sách và cách tổ chức thực hiện nó, nh vậy, phải xuất phát từ
khách quan. Để thực hiện đợc điều đó, phải có t duy lý luận, phải nắm chắc
phép biện chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin khoa học làm cách mạng của
giai cấp vô sản.
3-/ Để xây dựng và tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả chủ trơng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, cần quán triệt luận điểm Chân lí là cụ
thể - một quan điểm cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học
Macxit.
Mọi quyết sách chính trị (trong đó có chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc) đều nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể do thực tiễn đề ra. Những
vấn đề nh vậy khác nhau về cấp độ bao quát, về phạm vi tác ®éng, vỊ mơc tiªu,
vỊ ý nghÜa cđa nã ®èi víi sự phát triển xà hội. Hơn nữa, những vấn đề còn khác
nhau về điều kiện nảy sinh cũng nh thời điểm giải quyết.
Tính đa dạng của vấn đề quyết định tính đa dạng, phong phú của các quyết
sách và sự khác nhau trong phơng thức tổ chức thực hiện chúng.
Tính cụ thể của chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc và phơng
thức hiện thực chỉ đạt đợc, khi chủ thể cách mạng có tinh thần sáng tạo cải tạo

11


thành bản chất của giai cấp công nhân cách mạng của cách mạng vô sản nói
chung.
Bản chất sáng tạo đó thể hiện tập trung ở chỗ: trên cơ sở phân tích tình
hình cụ thể của đất nớc trong không gian - thời gian nhất định, biết đề ra những

hình thức và bớc đi đúng đắn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong đó, một mặt, bảo đảm sự chi phối của những vấn đề có tính quy luật
chung, mặt khác, thể hiện đợc tính đặc thù của đất nớc. Nh vậy, bản chất sáng
tạo rất xa lạ với chủ nghĩa giáo điều (bao gồm giáo điều lí luận lẫn giáo điều về
kinh nghiệm). Sự sáng tạo chân chính không loại trừ, mà còn đòi hỏi phải thận
trọng và sử dụng có hiệu quả những luận điểm lí luận chung, những kinh
nghiệm quý báu do lịch sử để lại nh là một trong những cơ sở quan trọng để xây
dựng và tổ chức thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Một quan niệm khá phổ biến trớc đây cho rằng để hiện đại hoá đất nớc thì
công nghiệp nặng phải u tiên phát triển và phải đi trớc mét bíc. Nhng trong t×nh
h×nh cơ thĨ cđa níc ta hiện nay với nền kinh tế non trẻ và đang phát triển thì
việc dồn hết lực vào công nghiệp nặng là phơng án không tối u. Bởi vì công
nghiệp nặng đòi hỏi nhiều vốn, đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ khoa học,
kĩ thuật bậc cao... mà những cái mà nớc ta hiện nay còn rất thiếu. Do vậy, nớc ta
nên bắt đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng các ngành công nghiệp nhẹ và
ngành sản xuất hàng xuất khẩu rồi sau đó mới phát triển công nghiệp nặng.
Định hớng đó phù hợp với tiềm lực và khả năng của nền kinh tế, với trình độ
khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý và kinh doanh của nớc ta hiện nay. Nếu nh
ngày từ đầu tập trung vào công nghiệp nặng thì nền kinh tế sẽ không đủ sức
nuôi dỡng chúng và bản thân chúng cũng không thể phát triển đợc. Lựa chọn
định hớng phát triển u tiên công nghiệp nhẹ và sản xuất cho xuất khẩu, nớc ta
có thể từng bớc nâng cao trình độ công nghệ cả cứng lẫn mềm (Đặc biệt là
công nghệ mềm, thứ mà nớc ta đang rất thiếu và rất cần, trong những chừng
mực nhất định còn cần hơn cả vốn, vì thiÕu nã nh thùc tÕ ®· chØ ra, vèn nhiỊu
cịng sẽ bị tiêu phí không hiệu quả), có khả năng thu hút, tiếp nhận và lựa chọn
các công nghệ sản xuất phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của đất nớc, có thể
tận dụng đợc nguồn lực nguyên vật liệu,... để sản xuất hàng xuất khẩu, tạo
nguồn luỹ vốn.

12



Trong tình hình đất nớc ta hiện nay, nền kinh tế trong từng bớc phát triển,
đa dạng và nhiều thành phần. Đó là một tín hiệu đáng mừng, nhng ngay trọng
nó còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, mà muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc nhanh chóng thì cần phải giải quyết ngay những mâu thuẫn trớc mắt, bằng
những hành động cụ thể nh phép biện chứng duy vật đợc chỉ ra. Phải nhận rõ nớc ta còn là một nớc nghèo, lạc hậu và có dân số đông với 7,8 triệu ngời. Vì vậy
cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Nên phát triển các
ngành dịch vụ, vừa huy động ít vốn, lu chuyển nhanh mà giải quyết đợc nhu cầu
của nhân dân trong nớc. Các ngành dịch vụ phát triển, kéo theo các ngành công
nghiệp nhẹ phát triển theo. Và nhu cầu trớc mắt của nớc ta là Nhà nớc thực hiện
điều chỉnh kinh tế vĩ mô bằng việc tạo ra môi trờng pháp lí thích ứng với cơ chế
thị trờng có điều tiết, tạo cơ sở hạ tầng cho sản xuất đảm bảo ổn định xà hội và
khả năng quốc phòng,...
Mô hình kinh tế mở, hớng ngoại sẽ tạo cho nền kinh tế đang mang nặng
những yếu tố của xà hội truyền thống nông nghiệp có cơ hội tiếp xúc với thị trờng, tạo nên sức mạnh đẩy mới cho nền kinh tế. Trong hoàn cảnh nớc ta, chúng
ta chủ trơng từ nay đến cuối thập kỉ, phải quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn,.... Điều đó xuất phát từ thực tế là,
chúng ta thùc hiƯn c«ng nghiƯp míi chØ chiÕm 20% tỉng sản phẩm trong nớc và
11% lực lợng lao động, mà 80% dân số là nông dân. Trong hoàn cảnh đó,
không công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nông nghiệp và nông thôn thì không thể
có vốn đầu t cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá, không rút đợc lao động từ
nông nghiệp để phát triển công nghiệp....
Đồng thời với phơng hớng đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi tới thắng
lợi, chúng ta cũng chủ trơng phải sử dụng sức mạnh của mọi thành phần kinh tế,
trong đó phát huy vai trò các doanh nghiệp Nhà nớc là chủ đạo.
4-/ Triết học Macxit còn góp phần chỉ ra những mâu thuẫn mà quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc phải giải quyết để đạt đợc mục
đích của mình.
Trong khi khẳng định ở từng giai đoạn phát triển trong từng lúc, sách lợc
của giai cấp vô sản phải tính đến biện chứng khách quan của xà hội Lênin

cũng chØ ra r»ng, tÝnh biƯn chøng cđa sù ph¸t triĨn xà hội diễn ra trong mâu
thuẫn và thông qua các mâu thuẫn. Khi xây dựng quyết sách chính trị phải
13


xuất phát từ biện chứng khách quan, điều đó có nghĩa là phải xuất phát từ mâu
thuẫn của nó. Mục tiêu của mọi quyết sách chính trị không gì khác hơn là nhằm
thay đổi bản chất của xà hội theo hớng tiến bộ. Điều đó không thể thực hiện đợc
nếu không phát hiện đúng những mâu thuẫn khách quan hiện đang tồn tại, xác
định khuynh hớng phát triển, những lực lợng những biện pháp và phơng tiện cơ
bản để giải quyết đúng.
Toàn bộ nghệ thuận lÃnh đạo và quản lí nh Lênin đà nói, là ở chỗ phải biết
kịp thời tính toán và nhìn rõ đâu là nơi cần tập trung những lực lợng chủ yếu và
sự chú ý của mình. Để xác định đợc những khâu trung tâm nh thế, cần phát hiện
ra những mâu thuẫn chủ yếu trong từng thời kì, ở từng ngành, từng địa phơng.
Tất cả những quyết sách cụ thể ở từng cấp là nhằm giải quyết những mâu thuẫn
nh vậy.
Để thực hiện có hiệu quả chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
mà Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ơng khoá VII đà nêu ra, chúng ta
phải giải quyết nhiều mâu thuẫn khác nhau đó là mâu thuẫn giữa lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất; những mâu thuẫn tiềm năng ngay trong lòng quan hệ
sản xuất ở nớc ta, cụ thể là:
Do mâu thuẫn của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất đang tác động
hiện nay ở Việt Nam đà phát sinh mâu thuẫn yêu cầu tăng trởng, phát triển kinh
tế nhanh với nhiều lực lợng sản xuất đang bị kìm hÃm, cha đợc giải phóng do
cha có đợc những hình thức biểu hiện và thực hiện của sở hữu thích hợp, nhất là
mâu thuẫn nội tại của hệ thống quan hệ sản xuất đà làm xuất hiện tính không ổn
định và thiếu vững chắc của hệ thống đó: nhất là quan hệ sản xuất theo định hớng xà hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn giữa sự lựa chọn giữa khả năng của sự phát triển và các phơng
án khả thi hay hiện thực hoá. Đó chính là mâu thuẫn giữa kế hoạch và hiện

thực. Sự đan xen vào nhau giữa tính khách quan trong sự lựa chọn khả năng
phát triển và tính chủ quan trong việc đa ra các phơng án cụ thể để triển khai
thực hiện, một sự thiếu thận trọng trong hoạt động này sẽ làm cho hệ thống kinh
tế, đặc biệt là hệ thống quan hệ sản xuất vốn đà mâu thuẫn lại càng mâu thuẫn
hơn.
Tính ít biến đổi hay sức ỳ của quan hệ sản xuất so với sự biến đổi nhanh
chóng của lực lợng sản xuất là một khách quan cần phải đợc nhận thức, trong quá
14


trình đa ra cơ chế giải quyết mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế, nhằm làm cho hệ thống quan hệ sản xuất luôn luôn tác
động tích cực đến sự tăng trởng, phát triển kinh tế và ổn định xà hội.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức kinh tế qua đó là sự phản ánh
mọi quan hệ giữa tính thống nhất trong mâu thuẫn của hệ thống quan hệ sản
xuất trong mối tác động với lực lợng sản xuất trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
Điều này phải đợc nhận thức để đa dạng hoá các hình thức kinh tế tổ chức. Mâu
thuẫn giữa các yêu cầu giải phóng các tiềm năng, nguồn lực phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động, chất lợng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của ngời lao động với khả năng và điều
kiện thực hiện đáp ứng, thoả mÃn yêu cầu đó của các doanh nghiệp, đơn vị kinh
tế và của nền sản xuất.
Mâu thuẫn trong quan hệ phân phối tổng sản phẩm quốc dân, xà hội hạn
hẹp với nhu cầu nâng cao lợi ích các bộ phận của toàn xà hội, tập thể doanh
nghiệp và cá nhân, ngời lao động. Mâu thuẫn trong thực hiện đồng thời hai mục
tiêu tăng trởng kinh tế và công bằng tiến bộ xà hội.
Mâu thuẫn này bắt nguồn từ yêu cầu xây dựng, và hoàn thiện bản chất tốt
đẹp của những quan hệ sản xuất xà hội chủ nghĩa là không ngừng tạo điều kiện
để nâng cao mức độ thoả mÃn lợi ích cho nhân dân (tăng trởng) đồng thời đảm
bảo sự hài hoà, hợp lí trong phân phối nguồn lợi ích đó (công bằng, tiến bộ xÃ

hội). Đây cũng là mâu thuẫn giữa hai mặt quan hệ biện chứng với nhau của
cùng một quá trình là nâng cao đời sống xà hội trên cả hai mặt đời sống kinh tế
và đời sống văn hoá.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hớng vận động, phát triển trong hệ thống quan
hệ sản xuất ở nớc ta, đó là theo định hớng xà hội chủ nghĩa và theo khuynh hớng khác. Mâu thuẫn này sinh ra trong việc thể chế hoá các quan hệ kinh tế
thành những văn bản pháp lý luật pháp, pháp lệnh, nghị định, cha kịp thời và
đồng bộ.
Trong đó chúng ta phải cần chú ý đặc biệt tới hai mâu thuẫn nổi cộm sau đây:
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá với trình độ
thấp kém về năng lực trí tuệ (cả trên lĩnh vực khoa học quản lí, khoa học công
nghệ, khoa học xà hội,...) của đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta nói

15


chung, của những nhà lÃnh đạo và quản lí, của những cán bộ khoa học, cán bộ
lý luận nói riêng.
Hai là mâu thuẫn giữa các công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tình trạng cha
thật trởng thành về số lợng và chất lợng, về trình độ tổ chức, về kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp.... của giai cấp công nhân - giai cấp có sứ mệnh lÃnh đạo quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc chỉ đạt đợc kết quả khi
khoa học và công nghệ thực sự đóng vai trò trực tiếp. Động lực phát triển của
khoa học và công nghệ lại nằm ngay trong lợi ích của những ngời nghiên cứu,
phát minh và sử dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ. Việc quan tâm đúng
mức tới lợi ích vật chất và tinh thần của ngời nghiên cứu là động lực trực tiếp
kích thích họ vơn lên tầm cao của khoa học và nh vậy giải quyết có hiệu quả
những vấn đề mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra.
Ngoài việc tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho nghiên cứu khoa
học cũng nh đảm bảo lợi ích vật chất thoả đáng cho ngời nghiên cứu, việc

khuyến khích, trân trọng những tìm tòi khoa học, không định kiến, hẹp hòi,
làm thui chột nhiệt tình sáng tạo của ngời nghiên cứu,... cũng nh tạo ra động
lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Việc giải quyết mâu thuẫn thứ hai đòi hỏi phải xây dựng giai cấp công
nhân trên mọi phơng diện - phát triển về số lợng, nâng cao về chất lợng, làm
cho giai cấp công nhân thích ứng với cơ chế mới, đủ năng lực làm chủ công
nghiệp hiện đại. Động lực trực tiếp để phát triển giai cấp công nhân trên tất cả
các phơng diện đó là việc bảo đảm những lợi ích thiết thân về việc thu thập
những nhu cầu về văn hoá - xà hội.
Từ một số điểm trình bày trên đây cho ta thấy việc nắm vững triết học
Macxit - phép duy vật biện chứng cho phép nâng cao năng lực trí tuệ, khắc phục
bệnh duy tâm chủ quan duy ý chí để đa ra chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đúng đắn, xác định đúng hệ thống động lực, những phơng thức, con đờng
để thực hiện thắng lợi chủ trơng đó phải phù hợp với hoàn cảnh đất nớc và đáp
ứng đợc xu thế của thời đại.

16


5-/ PhÐp biƯn chøng duy vËt chØ ra cho chóng ta vai trß rÊt quan träng
cđa ngn lùc con ngêi trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay:
Lịch sử phát triển chấn chính của xà hội loại ngời là lịch sử phát triển của
con ngời, do con ngời và vì con ngời. Con ngời làm ra lịch sử của chính bản
thân mình và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lí vĩnh hằng ấy,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đà đồng thời chỉ rõ, xu hớng chung của
quá trình phát triển lịch sử đợc quy định bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất,
bao gồm con ngời và những công cụ do con ngời sáng tạo ra. Sự phát triển của
lực lợng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của xà hội qua việc con ngời khai

thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
hoạt động sinh tồn, phát triển của chính sách con ngời và quyết định quan hƯ
cđa con ngêi víi con ngêi trong s¶n xt. Khi nền sản xuất xà hội càng phát
triển, khi tính chất xà hội hoá của nền sản xuất đó càng cao, thì quá trình tiến
hành sản xuất và kinh doanh bằng lực lợng của toàn xà hội và sự phát triển hơn
nữa của nền sản xuất xà hội do quá trình đó mang lại lại càng cần đến những
con ngời có khả năng và phẩm chất tơng ứng với trình độ phát triển ấy - những
con ngời có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững
nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng đợc nhu cầu
khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xà hội. Theo đó,
con ngời phát triển toàn diện không chỉ là mục tiêu tự thân của phát triển, mà
còn là động lực của phát triển. Một xà hội chỉ đợc coi là phát triển khi lực lợng
sản xuất của nó đà phát triển đến một mức độ cao nhất định, mà trong đó các
yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất đó, ngời lao động lại là yếu tố quan trọng
nhất, là lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại. Nói cách khác,
một xà hội chỉ có thể phát triển khi nó tự tạo ra cho mình một đội ngũ những
ngời lao động có đủ năng lực và phẩm chất để khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực tự nhiên cho mục tiêu phát triển của mình.
Xuất phát từ t tởng nền tảng đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin, từ t tởng vì lợi ích trăm năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng ngời.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xà hội, trớc hết phải cần có những con ngời xà héi
chđ nghÜa” cđa Hå ChÝ Minh, níc ta ®· rÊt coi trọng việc phát triển con ngời
Việt Nam hoàn chỉnh.

17


Chóng ta ph¶i nhËn râ r»ng ngn lùc con ngêi là yếu tố quyết định nhất
cho sự thành công của sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Trong lịch sư kinh tÕ häc, mét sè nhµ kinh tÕ häc trớc Mác chẳng hạn nh
Alam Smit, đà cho rằng nguồn lực con ngời là nguồn gốc của mọi của cải vật

chất. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, F.Enghen khẳng định rằng lao
động đúng là nh vậy, nhng một mình lao động không cũng cha thể sinh ra mọi
của cải vật chất. Lao động trong sự kết hợp với giới tự nhiên, cái cung cấp vật
liệu trong lao động, mới tạo ra mọi của cải vật chất. Vì vậy khi nãi r»ng nguån
lùc con ngêi cã vai trß quyÕt định thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa là t¸ch
ngn lùc con ngêi mét c¸ch biƯt lËp víi ngn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác. Mà trái lại, khi khẳng định nguồn lực con ngời đóng vai trò quyết định thì
điều đó có nghĩa là đà đặt nguồn lực con ngời trên cơ sở, trên tiền đề là các
nguồn lực hiện có.
Trên cơ sở và tiền đề nh vậy, vai trò của nguồn lực con ngời đợc thể hiện
vừa với t cách là chủ thể vừa với t cách là khách thể của các quá trình kinh tế xà hội.
Trong quan hệ với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác thì nguồn lực
con ngời thể hiện với t cách là chủ thể của sự khai thác, sử dụng. Bản thân
nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác tự nó không thể tham gia vào các quá
trình kinh tế, xà hội, do đó cha thể trở thành động lực của sự phát triển kinh tế,
xà hội. Vai trò, động lực của sự phát triển kinh tế x· héi lu«n thc vỊ con ngêi.
ChÝnh con ngêi víi sức lực và trí tuệ của mình mới là nhân tố quyết định hiệu
quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác.
Thực tế cho thấy, nhờ có lợi thế về vị trí địa lý, nhờ nguồn lực tài nguyên
thiên nhiên phong phú, đồng thời do biết cách khai thác thế mạnh đó mà một số
nớc trong khu vực và trên thế giới đà trở thành những nớc giàu có và có nền
kinh tế tế tăng trởng với tốc độ cao. Ngợc lại, chúng ta có thĨ dÉn ra nhiỊu vÝ
dơ vỊ viƯc khai th¸c c¸c nguồn lực tự nhiên một cách bừa bÃi và vô ý thức vì
mục đích kinh tế đơn thuần đà đem lại cho con ngời những thảm hoạ về môi
sinh và những thảm hoạ khác không thể lờng trớc đợc.
Những nguồn lực con ngời không chỉ quyết định hiệu quả của việc khai
thác sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác hiện có mà còn góp
phần tạo ra các nguồn lực mới. Điều đó có liên quan đến sù kÕ thõa c¸c thÕ hƯ
18



trong quá trình phát triển của xà hội loài ngời. Mỗi thế hệ đều đợc hởng các
nguồn lực của thế hệ trớc để lại, đồng thời tạo ra các nguồn lùc míi cho thÕ hƯ
con ch¸u mai sau.
Víi t c¸ch là khách thể, nguồn lực con ngời trở thành đối tợng của sự khai
thác, sử dụng đầu t và phát triển. Khi nói đến vai trò của nguồn lực con ngời với
t cách là đối tợng của sự khai thác, sử dụng, ngời ta thờng nói đến tính chất
không bị cạn kiệt của nguồn lực con ngời. Cho tới vài thập kỉ gần đây các nhà
khoa học và các nhà hoạch định chính sách, chiến lợc của tất cả các quốc gia
trên thế giới đều nhận ra rằng nguồn lực tự nhiên dù có phong phú đến mấy và
giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị cạn kiệt trớc sự khai thác của con ngời và chỉ có
nguồn lực con ngời mới là nguồn tài nguyên vô tận và khai thác không bao giờ
hết.
Phát triển đất nớc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải hớng tới
mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho mọi ngời dân
trong nớc để trên cơ sở ®ã t¹o ra mét ®éi ngị lao ®éng cã chÊt lợng, một nguồn
nhân lực dồi dào. Chúng ta chỉ có thể đạt đợc mục tiêu đó kho có sự kết hợp hài
hoà giữa tăng trởng kinh tế nhanh với việc nâng cao chất lợng sống cho ngời lao
động, việc nâng cao chất lợng sống cho ngời lao động, từng bớc hiện đại hoá
đất nớc và đời sống xà hội, nâng cao trình độ học vấn và văn hoá cho ngời lao
động, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho mọi ngời. Tại Hội nghị lần thứ t Ban
chấp hành Trung ơng khoá VII, đảng ta đà khẳng định trong bối cảnh hiện nay
của đất nớc, chúng ta chỉ có thể tăng trởng nguồn lực con ngời khi quá trình
hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và
kê hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc dân tộc. Theo đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải
đợc đặt trong mối quan hệ với kế hoạch đầu t cho chính sự phát triển về nhân
cách, trí lực, thể lực, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi ngời, mỗi gia
đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Việc không ngừng gia tăng tính tự
giác, năng lực làm chủ, sáng tạo của mỗi con ngời, việc phát huy sức mạnh bên

trong của mỗi cá nhân, kết hợp với sức mạnh của tập thể lao động, của cả cộng
đồng dân tộc trên cơ sở một nền tảng tinh thần vững chắc phải đợc coi là định
hớng chiến lợc cho việc bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời Việt Nam trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.

19


Thêm vào đó, hớng bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời Việt Nam không
thể không gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá. Bởi lẽ, văn hoá là cái gắn liền
với lao động sản xuất, với hoạt động và năng lực sáng tạo của quần chúng nhân
dân. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xà hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xà hội, và hơn nữa, là nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất của phát triển. Với t cách đó, văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động xà hội, vào từng ngời, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân c, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con ngời. Chăm lo văn hoá là
chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xà hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và
lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
tiến bộ và công bằng xà hội, chúng ta không hy vọng có đợc sự phát triển kinh tế xà hội bền vững. Bởi thế, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn
hoá, vì văn xà hội công bằng, văn minh, con ngời phát triển toàn diện. Nói khác
đi, để phát triển con ngời, tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xà hội, cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, chúng ta không thể không phát triển văn
hoá, kết hợp tăng trởng kinh tế với phát triển văn hoá. Con ngời Việt Nam là kết
quả của sự phát triển nền văn hoá Việt Nam. Và do vậy, quá trình xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lợc con
ngời, xây dựng và phát huy nguồn lực con ngời Việt Nam. Đầu t cho văn hoá là
đầu t cho phát triển lâu bền, cho cả sự phát triển kinh tế - xà hội lẫn phát triển con
ngời, tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Nói tóm lại, trong điều kiện nớc ta hiện nay, để chiến lợc phát triển theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn lực
con ngêi ViÖt Nam - “nguån lùc quan träng nhÊt” trong các nguồn lực, nguồn

lực nội sinh - làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dỡng và ph¸t huy
ngn lùc con ngêi ViƯt Nam víi t c¸ch đó, chúng ta cần phải tạo ra mối quan
hệ hài hoà giữa tăng trởng kinh tế nhanh với tiến bộ xà hội, đảm bảo công bằng
xà hội, thiếp lập sự bình đảng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, cải thiện và
nâng cao đời sống cho ngời lao động cả về vật chất lẫn tinh thần; giải quyết hợp
lý mối quan hệ giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trớc mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc
và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân; không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn

20


hoá cho họ trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
III-/ Phơng hớng giải quyết trên cơ sở vận dụng phép biện
chứng duy vật:

Nh trên ta đà thấy, phép biện chứng duy vật là cơ sở khoa học, là phơng hớng chỉ đạo cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay.
Muốn đi đến thắng lợi cuối cùng, chúng ta phải giải quyết một cách triệt để
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất ở nớc ta hiện nay, đó là
hai nhân tố quyết định, hai động lực phát triển của thế giới nói chung và nớc ta
nói riêng.
1-/ Nh chúng ta đà biết lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
Lực lợng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức, lực lợng
sản xuất là các yếu tố vật chất, còn quan hệ sản xuất là các mối quan hệ vật
chất, do vậy lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Lực lợng sản xuất quyết định đến sự thay thế các loại hình quan hệ sản
xuất mang yếu tố tác động cách mạng, còn quan hệ sản xuất mang tính ổn định
thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đấy thì quan hệ sản
xuất trở nên lạc hậu, lỗi thời kìm hÃm sự phát triển của lực lợng sản xuất, tấy
yếu phải thay thế một quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lợng sản xuất mới.

Vì vậy muốn quan hệ sản xuất phát triển, chúng ta phải thúc đẩy lực lợng
sản xuất phát triển tức là thúc đẩy hai yếu tố t liệu sản xuất và con ngời lao
động phát triển.
a-/ Thúc đẩy sự phát triển của t liệu sản xuất:
Bằng cách đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi
đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nớc ngoài.
Cho tới nay, trên thế giới đà hai lần trải qua cách mạng về kỹ thuật và công
nghệ, lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỉ
XVIII, đợc thực hiện đầu tiên ở Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động
thủ công bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ hai với tên gọi là cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại đợc bắt đầu từ giữa thế kỉ 20 mà nội dung của

21


nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố t liệu sản xuất mà ở kỹ
thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phơng pháp sản xuất tiên tiến,... Hiện nay
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó
có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau đây:
Một là, cách mạng về phơng pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi
tự động trớc đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rÃi ngời
máy thay thế cho con ngời điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
Hai là, cách mạng về năng lợng: bên cạnh những năng lợng truyền thống mà
con ngời đà sử dụng trớc kia nh nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con ngời ngày
càng khám phá ra nhiều năng lợng mới và sử dụng chúng rộng rÃi trong sản xuất nh
năng lợng nguyên tử, năng lợng mặt trời, sức gió,...
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu
tự nhiên, con ngời ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu
quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hớng ngày
càng cạn kiệt dần.

Bốn là, cách mạng về công nghệ, sinh học: các thành tựu của cách mạng
này đang đợc áp dụng rộng rÃi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế,
hoá chất, bảo vệ môi trờng sinh thái,...
Năm là, cách mạng về điện tử và tin học: đây là một lĩnh vực mà hiện nay loài
ngời đang đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Nh vậy, khái niệm công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó không
chỉ là các phơng tiện, thiết bị do con ngời sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến
các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó khi nói đến công nghệ thì
cũng bao hàm cả kĩ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa học và công
nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, khoa học là tiền đề trực tiếp của công
nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đà và đang đóng vai trò
rất to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong tất cả các nớc, nhất
là các níc cã nỊn kinh tÕ kÐm ph¸t triĨn nh níc ta. Tuy nhiên, cách thức tiến hành
ở những nớc khác nhau lại không giống nhau, có nớc tiến hành bằng cách tự
nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nớc, có nớc tiến
hành thông qua chuyển giao công nghệ, cũng có nớc tiến hành bằng cách kết hợp

22


giữa tự nghiên cứu và chuyển giao. Thật ra việc kết hợp giữa tự nghiên cứu với
chuyển giao công nghệ là cần thiết đối với bất cứ một quốc gia nào, nếu nh muốn
đạt đến trình độ kinh tế phát triển cao. Song kinh nghiệm của Nhật Bản và các nớc
NICs ở thời kì công nghiệp hoá, xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đà chứng
minh rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, có hiệu quả nhất để có đợc
công nghệ hiện đại.
Thực chất của chuyển giao công nghệ là đa công nghệ bao gồm cả phần
cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm (quy trình, phơng pháp công nghệ,...) từ
nớc này sang nớc khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ

đợc chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao công nghệ chỉ phát huy đợc
hiệu quả trong mô hình chiến lợc công nghiệp hoá hớng ngoại, hớng về xuất
khẩu.
Song song với quá trình tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn
phải xây dựng cho mình chiến lợc phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
mang tính tổng thể lâu dài, bao gồm cả nghiên cứu, chuyển giao thử nghiệm và
ứng dụng, bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển vững chắc và lâu
bền của đất nớc. Đảng ta đà khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công
nghệ: Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là
nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
b-/ Thúc ®Èy sù ph¸t triĨn cđa u tè con ngêi lao động:
Khoa học và công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nã cã thĨ ®a níc ta tõ mét níc nghÌo nàn lạc hậu trở
thành một nớc giầu mạnh, văn minh.
Do vậy, việc đa khoa học và công nghệ, trớc hết là phổ cập những tri thức
khoa học và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xà hội là một nhu cầu
cấp thiết của xà hội ta hiện nay. Nghị quyết Trung ơng hai đà nhấn mạnh phải
thực sự coi trọng sự phát triển của khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng,... Bởi
lẽ, cho dù chúng ta có tiền hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đa
trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất
vào nớc ta thì cũng không có gì để có thể đảm bảo đẩy mạnh đợc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nếu nh trong thực tế chúng ta cha có đợc đầy đủ những con
ngời am hiểu và sư dơng chóng. Do vËy viƯc x· héi ho¸ tri thøc, n©ng cao chÊt
23


lợng của ngời lao động là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất
để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
XÃ hội hoá tri thức, nâng cao chất lợng của ngời lao động về tri thức khoa

học và công nghệ theo nghĩa chung nhÊt lµ sù phỉ cËp tri thøc khoa häc và công
nghệ cho toàn xà hội, đến tận từng ngời dân, biến nó thành tài sản, thành phơng
tiện hữu hiệu cho mỗi ngời trong quá trình hoạt động sản xuất và sáng tạo ra
của cải vật chất và tinh thần, làm giầu cho bản thân và góp phần làm giầu cho
xà hội. Trong đó, quan trọng và trớc tiên là phải trang bị những tri thức về nghề
nghiệp kết hợp với tay nghề cao của những ngời trực tiếp sản xuất; trang bị
những tri thức tổng hợp kết hợp với nghệ thuật điều hành của những ngời đang
giữ chức vị lÃnh đạo và quản lí ở các cấp.
Điều trớc hết là chúng ta phải tạo một mặt hàng dân trí cao làm cơ sở, mặt
bằng dân trí cao là điều kiện tiên quyết để phát triển lực lợng sản xuất. Một mặt,
mặt bằng dân trí cao là điều kiện và cơ sở vững chắc để mọi ngời có thể tiếp thu
và vận dụng tối đa những tri thức khoa học và công nghệ đà đợc trang bị vào đời
sống sản xuất, mặt khác trình độ dân trí cao sẽ là nền tảng để phát huy cao độ
năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của tất cả mọi ngời trong hoạt động
sáng tạo. Để nâng cao mặt bằng dân trí, cần phải có một chiến lợc phát triển
giáo dục và đào tạo đồng bộ, hệ thống, nhất quán, khoa học và hiện đại.
2-/ Ngợc lại, quan hệ sản xuất sẽ tác động trở lại lực lợng sản xuất:
Quan hệ sản xuất định ra mục đích, phơng hớng của nền sản xuất qua đó
tác động đến tinh thần, thái ®é cđa ngêi lao ®éng qua ®ã ¶nh hëng ®Õn sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Vì vậy, nếu quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy,
mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển.
* Hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nớc ta là nhiệm vụ cấp bách mà phép
duy vật biện chứng đà chỉ ra:
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ sở hữu trong hệ thống quan hệ sản
xuất. Đây là cơ sở xuất phát quy định bản chất quan hệ sản xuất cùng với vai trò
của nó đối với sự phát triển của lực lợng sản xuất. Phải làm cho chế độ sở hữu t
liệu sản xuất ở nớc ta không chỉ rõ ràng hợp lí về mặt luật pháp, chính sách mà
còn phải có hiệu lực và hiệu quả đích thực trên thực tế hiện nay của đời sống xÃ
hội, đảm bảo mọi t liệu sản xuất đều có ngời làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự


24


chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết
quả hoạt động của mình.
Đối với nhận thức về chế độ công hữu: tiếp tục xác định rõ trên thực tế những
gì là thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nớc đại diện, nắm quyền sở hữu và thống nhất
quản lý và có phơng án kế hoạch, phân phối, sử dụng hợp lý, hiệu quả tránh thất
thoá, lÃng phí. Nhất là đối với những tài nguyên đất đai, rừng, sông hồ, khoáng sản,
kết cấu hạ tầng kinh tế ngân sách Nhà nớc và các tổ chức kinh tế,...
Tiếp tục nhấn mạnh vai trò chủ đạo của sở hữu Nhà nớc trong nền kinh tế sản
xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng, định hớng XHCN, song thực tế
cho thấy đây là công việc đầy khó khăn, do sự hoạt động kém hiệu quả.
Hoàn thiện (về mặt pháp lý) chế độ sở hữu Nhà nớc trong nền kinh tế sản xuất
hàng hoá, chế độ sở hữu của tập thể ngời lao động ở các doanh nghiệp, hợp tác xÃ,
các tổ chức kinh tế xà hội, quy định rõ về đối tợng sở hữu, chế độ quản lí và sử
dụng,... nhằm phục vụ tốt cho hoạt động phát triển sản xuất và cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần ngời lao động trong xà hội mới ở các cơ sở kinh tế.
Đối với sở hữu t nhân, đợc luật pháp bảo hộ, tồn tại lâu dài và khuyến
khích phát triển trong các ngành sản xuất mà luật pháp không cấm, nhất là cần
sửa đổi luật đầu t trong nớc cho thoáng hơn, tạo môi trờng tốt hơn cho các nhà
t nhân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất, kinh doanh, cần cho t nhân đợc xuất khẩu
trực tiếp, đợc đầu t ra nớc ngoài, đợc Nhà nớc chia sử rủi ro khi có nhu cầu
chính đáng.
Nâng cao hiệu lực quản lí và điều hành vĩ mô: tiếp tục lý giải, làm rõ về mặt
lí luận một cách thuyết phục không thể bác bỏ đợc về con đờng tất yếu phát triển
nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần, tham gia vận động theo định hớng xà hội
chủ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo,... là duy nhất đúng đắn,
không thể có sự lựa chọn nào khác, và Việt Nam có điều kiện và khả năng thực
hiện. Từ đó quán triệt và củng cố niềm tin và nhiệt tình quyết tâm thực hiện, hành

động cho mỗi ngời lao động toàn xà hội để đạt tới thắng lợi.
Xây dựng và thực hiện quan hệ phân phối hợp lý, công bằng. Đây là thể hiện
bản chất tốt đẹp của quan hệ sản xuất XHCN, vừa tạo động lực cả về vật chất lẫn
tinh thần cho sự phát triển kinh tế - xà hội, nắm quyền sở hữu và thống nhất quản lý.
Đây là mục đích của mọi chủ thể kinh tế và ngời lao động và là vấn đề rất phức tạp,
nhạy cảm trong nền kinh tế thời kì quá độ nh ë níc ta hiƯn nay.
25


×