Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.55 KB, 29 trang )

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
MỤC LỤC:
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.i

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
STT HỌ VÀ TÊN
KÝ TÊN
NGÀY 1 NGÀY 2 NGÀY 3
1
HÀ THỊ LAM GIANG
2
QUÁCH HỒNG HÀ
3
NGUYỄN KIỀU GIANG
4
TRẦN THỊ KIM YẾN
5
NGUYỄN VĂN HIỆP
6
HỒ SĨ HIỆP
7
NGUYỄN MINH HOÀNG
8
NGUYỄN THỊ HƯNG
9
LÊ THỊ HẰNG
10
VÕ THỊ KIM VÂN


11
NGUYỄN DUY KHÁNH
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.ii

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng
đối với mọi mặt của kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia đều ít nhiều chịu ảnh hưởng, từ
suy giảm tốc độ tăng trưởng cho đến nặng hơn là rơi vào khủng hoảng kinh tế. Nhiều gói
hỗ trợ kinh tế trị giá khổng lồ đã được bơm vào nền kinh tế của nhiều quốc gia.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang hội nhập từng bước sâu hơn với kinh tế
toàn cầu. Do đó, khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động đến kinh tế Việt Nam một cách
rõ nét. Bên cạnh đó, những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam về tỷ giá, lạm phát,
thâm hụt cán cân thương mại…cũng đang là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính
sách trong việc đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển trong giải đoạn bất ổn như hiện nay.
Bài viết này, một lần nữa nhìn lại toàn cảnh của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và
đánh giá tình hình lạm phát (cùng với thâm hụt cán cân thương mại là hai vấn đề lớn trong
giai đoạn hiện tại) của Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện bài viết, với những khó khăn về kiến thức vĩ mô cũng như tìm
kiếm và chọn lọc thông tin sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót, Nhóm rất mong nhận
được sự những ý kiến đóng góp quý báu của Cô và toàn thể các bạn lớp Đêm 13 – K20.
TP.HCM, tháng 3/2011
Nhóm 2/Đêm 13-K20
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.1

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
PHẦN I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI NĂM 2008

I. KHÁI NIỆM:
1. Khủng hoảng tài chính:
Khủng hoảng tài chính là hiện tượng một bộ phận lớn các ngân hàng của một quốc
gia đột ngột mất khả năng thanh toán cũng như mất khả năng trả nợ.
Quan điểm của việt nam về khái niệm khủng hoảng tài chính tiền tệ: khủng hoảng tài
chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn tới sụp đổ quỹ
Biểu hiện của khủng hoảng tài chính tiền tệ:
+ Tình trạng tồi tệ của toàn bộ bộ máy tài chính - tín dụng quốc gia
+ Sự phá vỡ tài chính nhà nước, hệ thống thanh toán
+ Sự phá sản của các định chế tài chính trung gian
+ Phá giá nội tệ, áp lực lạm phát.
2. Chứng khoán hóa:
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác
nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để
phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua
các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ
chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Việc đặt tên “chứng khoán hóa” bắt
nguồn từ thực tế là hình thức của các công cụ tài chính được sử dụng để thu được các
nguồn tài trợ từ việc mua chứng khoán của các nhà đầu tư
3. Nợ dưới chuẩn
Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp.
Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn
định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ.
Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất
khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối
tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù
lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn
II. DIỄN BIẾN, NGUYÊN NHÂN, VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG
HOẢNG TỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng:

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét nhất
của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó, sau đây là những mốc sự kiện chính:
 Năm 2002-2004: giá cả ở các bang Arizona, Califonia, Florida, Hawaii, và Nevada
tăng trên 25% một năm. Bùng nổ nhà đất bắt đầu.
 Năm 2005: bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005.
 Năm 2006: thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể.
 Năm 2007: kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho
vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp
nợ, tăng 79% từ năm 2006.
 Năm 2008: sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay
cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài
chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, …
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.2

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
cũng lâm nạn. Chính phủ Mỹ đã cung cấp 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân
hàng.
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở Châu Âu, cũng
tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở
của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ
chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước Châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh,
Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên quy mô quốc gia. Chính phủ Iceland
đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu hóa những ngân hàng hàng đầu. Từ
đó, đồng nội tệ krona của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa sổ.
Tại châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40% kể từ
đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính phủ

Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền
vào hệ thống tài chính.
Trước tình hình trên, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền
vào Iceland, Hungary, và Ukraine để ngăn chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra.
Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật, và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ, lần đầu
tiên sau 8 năm, chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều
tương tự cũng xảy ra với Nga, cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Giá dầu sụt giảm
mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng
xuất khẩu chiến lược của nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần khiến quốc gia này rơi vào
suy thoái.
2. Nguyên nhân:
2.1. Bất cân đối toàn cầu:
Tín dụng quá dễ dãi cộng với lãi suất thấp đã khiến người Mỹ vay nợ và tiêu dùng
nhiều hơn những gì mà họ thực sự kiếm được trong một khoảng thời gian dài. Trong khi
đó tại khu vực châu Á (Nhật, Trung Quốc) và một số nước thuộc khu vực sản xuất dầu lửa
(Nga, Ả Rập) sau khủng hoảng Đông Á, các nước này luôn gia tăng dự trữ ngoại hối bằng
USD đến mức quá cao. Điều này dẫn đến một hậu quả là thị trường Mỹ ngập trong hàng
hóa giá rẻ(do các nước Châu Á xuất khẩu sang), tiêu dùng của người Mỹ gia tăng nhưng
tiêu dùng toàn cầu giảm.
Việc vay nợ quá dễ dàng khiến cho tiền được đổ vào bất động sản ngày càng nhiều,
bong bóng tài sản ngày càng phình to và rủi ro tăng dần. Trong giai đoạn 1998 – 2006, giá
nhà đất tại Mỹ đã tăng gần 50%. Các ngân hàng cho vay chỉ quan tâm cho vay thật nhiều
để thu lợi nhuận, không quan tâm đến khả năng trả nợ của người đi vay, sau đó các ngân
hàng này lại bán các khoản vay này cho các ngân hàng đầu tư và các ngân hàng đầu tư sẽ
đóng gói và bán cho nhà đầu tư dưới dạng chứng khoán. Các nhà đầu tư “nhắm mắt” mua
bởi họ tin vào hệ thống xếp hạng của các tổ chức đánh giá trái phiếu như Moody’s, S&P…
trong khi các tổ chức này lại chính là người kiếm bộn phí nhờ tư vấn cho các ngân hàng
đầu tư phải làm sao để học cách đóng gói các khoản cầm cố sao cho đạt được mức xếp
hạng cao dù là khoản cầm cố rủi ro. Đến 90% các nghĩa vụ nợ được thế chấp hóa có nguồn
gốc bất động sản được đánh giá AAA.

2.2. Bất bình đẳng:
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.3

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
Thêm một nguyên nhân mà người dân Mỹ vay nợ quá nhiều để duy trì một mức tiêu
dùng cao là thu nhập của họ không hề tăng. Trong khi đó, thu nhập của nhóm những người
giàu nhất đã tăng 700% trong giai đoạn 1980 – 2007. Tỷ lệ lương trả cho các CEO so với
người lao động là 16:1 ở Nhật, 31:1 ở Anh và lên đến 44:1 ở Mỹ.
Các hộ gia đình nghèo ngày càng lún sâu vào nợ nần do việc mở rộng nợ dưới chuẩn
của các ngân hàng với lời hứa trả nợ ban đầu thấp và không cần trả trước bằng tiền mặt.
Quy mô của số lượng người vay, số tiền vay và giá bất động sản ngày càng tăng cho đến
khi giá nhà đến ngưỡng, chững lại và bắt đầu lao dốc. Người vay không thể trả được nợ
tiếp tục bán đổ bán tháo tài sản vào thị trường đang suy yếu khiến cho tốc độ rớt giá được
đẩy nhanh hơn và nợ xấu leo thang với một tốc độ chóng mặt.
Thêm vào đó, đa số nợ cầm cố ở Mỹ là “nợ vay không truy đòi”, nghĩa là khi không
trả được nợ, chủ nợ không có quyền đối với tài sản khác của con nợ trừ tài sản cầm cố.
Điều này thúc đẩy người vay bỏ của chạy lấy người do giá trị của khoản vay đã vượt quá
giá trị thực của bất động sản cầm cố.
2.3. Nới lỏng quy định tài chính:
Đạo luật Glass – Steagall năm 1933 của Mỹ quy định việc tách bạch hoạt động ngân
hàng thương mại ra khỏi hoạt động đầu tư vì những mâu thuẫn lợi ích giữa việc phát hành
cổ phiếu và tài trợ mua cổ phiếu cho nhà đầu tư. Đến tháng 11/1999, đạo luật Glamm –
Leach – Bliley ra đời để thay thế cho đạo luật Glass – Steagall, các ngân hàng lớn Mỹ tạo
ra “siêu thị tài chính” dẫn đến sự quy tụ chưa từng có vào hệ thống ngân hàng. Năm 1995,
năm ngân hàng hàng đầu chỉ nắm giữ 8% tài sản đã tăng lên 30% vào năm 2009. Các ngân
hàng lớn giữ tiền gửi của người dân được phép tham gia hoạt động đầu tư được thiết kế để
thu lợi cao nhưng với mức độ rủi ro cao hơn. Bên cạnh đó, với quy mô đã trở nên quá lớn
của mình, sự sụp đổ của các tổ chức này đã kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống tài chính.
Từ năm 1975, các ngân hàng đầu tư không được phép có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao

hơn 15 lần. Tuy nhiên từ năm 2004, Ủy ban chứng khoán Mỹ đã bãi bỏ quy định này đối
với các ngân hàng đầu tư làm cho các ngân hàng này sử dụng đòn bẩy khá cao, lên đến 30
lần, thậm chí hai đại gia bất động sản Freddie Mac và Fannie Mae sử dụng đòn bẩy đến 60
lần và cũng là những nạn nhân đầu tiên của khủng hoảng.
3. Ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới.
Mỹ là quốc gia chiếm 25% GDP toàn cầu và một tỷ lệ lớn hơn trong các giao dịch tài
chính quốc tế, là thị trường nhập khẩu quan trọng của rất nhiều quốc gia, do đó ngay sau
khi lâm vào khủng hoảng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều khu vực kinh tế trên thế
giới, khiến cho sản lượng xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là các quốc gia định
hướng xuất khẩu ở khu vực Đông Á. Các quốc gia tại khu vực này, có thể kể ra là Nhật
Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông lâm vào suy thoái, các quốc gia còn lại ít nhiều đều
suy giảm tốc độ tăng trưởng.
Khu vực Châu Âu chịu tác động nghiêm trọng không kém, một số nước lâm vào
khủng hoảng tài chính như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi
vào suy thoái, trong khi Anh, Pháp, Tây Ban Nha đều suy giảm tốc độ tăng trưởng.
Kinh tế các quốc gia trên thế giới đều tăng trưởng chậm lại khiến cho cầu về dầu mỏ giảm
khiến cho giá dầu giảm mạnh. Hậu quả là các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại nặng
nề.
Một loạt các quốc gia phải tung ra những gói hỗ trợ kinh tế nhiều tỷ USD mà đỉnh
điểm là tháng 10/2008, cục dự trữ liên bang Mỹ - ngân hàng trung ương Châu Âu và 4
ngân hàng trung ương của các quốc gia lớn khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất.
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.4

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
III. ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM, CƠ HỘI - THÁCH THỨC VÀ BÀI HỌC RÚT RA:
1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế VN
1.1. Ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hoạt động của ngân hàng:
Thị trường tài chính: là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các sản phẩm tài

chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong
nền kinh tế. Do sản phẩm trên thị trường là sản phẩm tài chính, có tính nhạy cảm và ảnh
hưởng tới mọi thành phần trong nền kinh tế, nên thị trường tài chính là thị trường bậc cao.
Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn: bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị
trường chứng khoán.
Do hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội nhập chung với hệ thống tài
chính toàn cầu nên hệ thống tài chính của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc
khủng hoảng này so với các nước có mức độ hội nhập tài chính sâu rộng
1.1.1.Thị trường tiền tệ:
Từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng
một cách thận trọng những tháng cuối năm. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3
lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có
tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm
trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ
bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm). Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi
nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75%
lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối
tháng 12. Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi
bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với
kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8%
lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
1.1.2. Thị trường hối đoái:
Tỷ giá USD/VND tăng đột biến. Trong tháng 10, cầu ngoại tệ của các ngân hàng
ngoại có dấu hiệu tăng mạnh, trong đó có nguyên nhân từ hoạt động chuyển vốn của nhà
đầu tư nước ngoài. Từ tháng 5/2008, “cơn sốt” khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng thẳng
trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua với giá
trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Với sự can thiệp
của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại hối lần đầu tiên được công khai
một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối năm.
Một nguyên nhân nữa khiến đồng USD lên giá là dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn

là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó
khăn. Nhưng một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ. Do ảnh hưởng
cuộc khủng hoàng ở Mỹ làm giảm lượng cung ngoại tệ.
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.5

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
1.1.3. Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ thị
trường chứng khoán thế giới. Mặc dù tình hình vĩ mô của Việt Nam 10 tháng đầu năm khả
quan, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ sự sụt giảm chứng khoán toàn cầu. Nhà đầu tư nước
ngoài không bán chứng khoán ồ ạt nhưng cũng không mua vào nhiều chứng khoán.
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và toàn cầu cũng gây khó khăn cho việc phát hành trái
phiếu và chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế vì chi phí tăng cao và ít nhà
đầu tư hơn do dòng vốn khan hiếm. Nếu chúng ta phát hành để huy động với lãi suất quá
cao thì đưa về đầu tư trong nước sẽ không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sẽ dẫn đến khó có
khả năng trả nợ khi đến hạn
1.1.4. Hoạt động của ngân hàng:
Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế - Libor Và Sibor - đang tăng. Nó có thể ảnh
hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, do đó
có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp. Lãi suất huy
động và cho vay biến động chưa từng có
Thực hiện cơ chế cho vay theo trần lãi suất: cụ thể ngân hàng nhà nước chính thức
áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá 150%
lãi suất cơ bản theo quy định của bộ luật dân sự
Một loạt nghiệp vụ cho vay bị siết chặt: năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến
sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng 51,39%), trong đó tăng trưởng mạnh ở các
nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng khoán và tín dụng tiêu dùng. Bước sang
năm 2008, đây là những nghiệp vụ chính bị siết chặt.
Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng. Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động

của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm
2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%,
thì năm nay dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ xấu trên 5%. Cuối năm 2008, một số
ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc mục tiêu kiểm soát từ 5%
đến hơn 6%.
Đa số các ngân hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận: Đây là năm đầu tiên trong
khoảng 5 năm trở lại đây nhiều thành viên buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh và
lợi nhuận đặt ra từ đầu năm; chiến lược tăng tốc nhanh được chuyển sang thận trọng, ổn
định và yếu tố an toàn, tăng cường quản trị được đặt lên hàng đầu
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.6

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
1.2. Ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ vào cuối năm 2008 đã lan ra thị trường thế giới và
tác động mạnh tới các nền kinh tế lớn như EU, Nhật Bản. Làm cho sức cầu thế giới dự
kiến sẽ sụt giảm hơn 1 ngàn tỷ USD .Do Mỹ chiếm 15% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
năm của thế giới, nên sự biến động của nền kinh tế nước này có tác động đến nhiều nước
xuất khẩu trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Mỹ đối với Việt Nam về một số mặt hàng đứng thứ
hạng cao như: dệt may, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, đồ gỗ, thuỷ sản... Có xu hướng giảm sút.
Theo số liệu thống kê cho thấy: tháng 8/2008, ta xuất khẩu 6,1 tỷ USD, tháng 9/2008
giảm xuống còn 5,3 tỷ USD. Năm 2009 khả năng xuất khẩu sẽ không tăng cao do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trên các mặt nêu trên.
Khi nhu cầu nhập khẩu trên thị trường thế giới càng giảm thì sức ép cạnh tranh từ các
nước Châu Á khác càng gia tăng, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản, dệt
may giày dép, điện tử,...khiến các doanh nghiệp xuất khẩu gặp nhiều khó khăn trong việc
tìm kiếm khách hàng, hợp đồng.
Trong khi đó, nhập khẩu lại đang là cơ hội thuận lợi cho Việt Nam để có chi phí sản
xuất thấp với nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị đang rất rẻ trên thị trường thế giới từ

các nước bị khủng hoảng. Dẫn đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.7

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
1.3. Ảnh hưởng đến sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần
lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được
khoản vay sẽ khó giải ngân được.
Mức đầu tư trực tiếp cũng chậm lại, nhiều doanh nghiệp rút vốn về Mỹ để cứu nguy
nền kinh tế Hoa Kỳ, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng tạm ngưng.
Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín
dụng gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới
việc giải ngân FDI giảm.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), chúng ta có thể thấy: trong bối cảnh cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng ra toàn cầu, các định chế tài chính sẽ phải xem xét lại
chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình. Điều đó có thể sẽ diễn ra sự điều chỉnh
nhất định của dòng đầu tư vào thị trường vốn Việt Nam, giảm bớt đầu tư vào Việt Nam và
có xu hướng đầu tư vào các kênh an toàn. Luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng
bị ảnh hưởng và có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu tình hình thế giới tiếp tục xấu đi.
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.8

Chuyên đề 5: Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
GV: GS - TS Dương Thị Bình Minh
1.4. Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản, hàng hóa, dịch vụ
1.4.1. Thị trường bất động sản:
Tại Việt Nam hiện nay cho vay BĐS chiếm trên 10% tổng tài sản ngân hàng, song
BĐS thế chấp lên tới 50-60% tổng tài sản ngân hàng. Vì vậy rủi ro tiềm tàng lớn nhất, khi
khủng hoảng sẽ tác động trực tiếp lên hệ thống tài chính ngân hàng khi hàng loạt người vay
mất khả năng trả nợ

1.4.2. Thị trường hàng hóa, dịch vụ:
Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam
mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp có thể bị thu hẹp lại, nhiều doanh nghiệp đã điều chỉnh quy mô
sản xuất do chi phí sản xuất tăng( đặc biệt là do lãi suất của ngân hàng tăng cao). Thêm
vào đó hoạt động xuất khẩu của Việt Nam giảm( vì thị trường tiêu thụ trên thế giới giảm đi
rất nhiều). Điều này làm cho hàng hóa Việt Nam sẽ giảm đi. Giá của hàng loạt mặt hàng
nhập khẩu giảm một cách đột ngột, trong đó giá nhiều mặt hàng thiết yếu như xăng dầu,
thép, nguyên liệu, lượng thực thực phẩm, dịch vụ vận tải biển… giảm hơn 50% do đó nhập
khẩu của Việt Nam sẽ tăng, đồng thời hàng hóa tiêu dùng có khả năng tràn vào Việt Nam
với giá rẻ, ví dụ hàng hóa của Trung Quốc, sẽ cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam và như
vậy cầu hàng hóa Việt Nam sẽ giảm đi và như vậy tổng cầu hàng hóa Việt Nam tiếp tục
giảm, giảm cung và giảm GDP, thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam sẽ gia tăng.
Khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ làm cho lượng khách du lịch vào Việt Nam giảm đi
rất nhiều
2. Cơ hội và thách thức của việt nam trong cuộc khủng hoảng
Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I năm 2008
Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả
khôn lường của “Cơn bão tài chính” và bên cạnh đó nền kinh tế Việt Nam chưa thâm nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, chỉ mới mở cửa dòng vốn vào mà chưa mở cửa dòng vốn ra,
nên thực tế thì cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua chỉ mới là một cú sốc đối với kinh tế
Việt Nam. Trải qua nhiều cuộc biến động của các nền kinh tế các quốc gia khác trên thế
giời thì cuộc khủng hoảng tài chính này cũng đã ảnh hưởng mạnh và tạo ra được cho nền
kinh tế Việt Nam nhiều khó khăn cũng như nhiều cơ hội và thử thách.
2.1 Cơ hội:
Trong khi nền kinh tế của các nước phát triển trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề từ
cuộc khủng hoảng từ Mỹ thì nền kinh tế của các nước khu vực Châu Á vẫn ổn định và
không có nhiều biến động bất lợi. Các nhà đầu tư sẽ rút vốn ở nơi có nhiều rủi ro sang các
nước có rủi ro ít và dòng vốn sinh lời nhanh. Việt nam là một nước ổn định về chính trị,
khống chế thành công lạm phát, môi trường đầu tư thuận lợi và có khả năng sinh lời nhanh.

Đây sẽ là một cơ hội tốt để thu hút đầu tư nước ngoài khi những nhà đầu tư nước ngoài
muốn tìm một môi trường đầu tư ổn định
Nâng cao các khả năng cạnh tranh và tính thích nghi của các doanh nghiệp Việt
Nam: Khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ nhấn chìm các doanh nghiệp yếu kém của mỗi
nước và đồng thời sẽ phát hiện những doanh nghiệp thật sự lành mạnh, biết làm ăn hiệu
quả và biết nâng cao thương hiệu và chất lượng. Khủng hoảng cũng làm cho giá cả của các
loại nguyên liệu, của các loại chi phí sản xuất cũng rẻ hơn và cũng sẽ làm cho chi phí sản
xuất của các doanh nghiệp Việt Nam ít hơn từ đó sẽ tăng sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới.
TH: UEHK20 - D13 - NHOM 2 Tr.9

×