Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

HẠNH PHÚC TỔNG QUAN. docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.95 KB, 16 trang )




HẠNH PHÚC TỔNG QUAN


Hạnh Phúc của con người có thể hiểu là sự hài lòng về đời sống, sau khi hoàn
thành được những gì người ta mong muốn. Thí dụ như một nhu cầu, nguyện vọng,
mục đích hay những phương tiện về lạc thú nào đó, . . .

Theo hai nhà tâm lý Alston và Dudley giải thích: Sự hài lòng về đời sống là khả
năng cảm nhận vui thú, về những kinh nghiệm đời người, với ít nhiều rung cảm
của tâm hồn. Theo một số tự điển định nghĩa, hạnh phúc là một trạng thái sống
khỏe và sự vừa lòng trong cuộc sống; như một thỏa mãn đầy thú vị, đối với việc
hoàn thành những nhu cầu, và nguyện vọng của con người.

Hạnh phúc và đau khổ, hay sự thỏa mãn và bất mãn trong cuộc sống là những
tâm trạng chủ quan. Cho nên, sự tìm hiểu về hạnh phúc và đau khổ cần phải chú ý
đến việc tự quan sát nội tâm (Introspection), hay sự hồi tưởng quá khứ
(Retrospection), hoặc từ việc trả lời những câu hỏi tùy theo tâm trạng khác nhau
của mỗi người.
Do đó, chỉ có những cá nhân liên hệ trong những tình trạng nầy, mới có thể nói
lên rằng họ có được hạnh phúc hay đau khổ, hoặc có được sự thỏa mãn hay bất
mãn với đời sống của họ.
Theo nghiên cứu về thực trạng hạnh phúc đời người, các nhà tâm lý học đã đưa
ra kết quả tóm lược về những sự kiện quan trọng có liên quan đến hạnh phúc như
sau :
1-SỰ QUAN TRỌNG CỦA HẠNH PHÚC-ĐAU KHỔ:
Trong đời sống, sự đau khổ đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến thái độ
sống của con người. Trong những lần người ta bị đau khổ, sự đau khổ thường lưu
lại những dấu ấn trên nhân cách của nạn nhân. Đối với phần đông những người


trong xã hội, từ trẻ ở tuổi học trò đến người lớn tuổi, và phái nam lẩn nữ, tiềm lực
đau khổ dần dần sẽ được giảm thiểu với thời gian, bằng sự chịu đựng của tâm hồn,
để vượt qua sự đau khổ.

Tuy nhiên, có một số người, dấu tích đau khổ cùng với thời gian âm thầm gia
tăng. Vì với họ, sự đau khổ đã được nuôi dưỡng với thời gian, và có thể thường trở
nên một thói quen trong tâm hồn của họ. Đã là một thói quen, giống như tất cả
những thói quen khác, càng kéo dài với thời gian, thói quen càng bắt rể càng sâu.

Do đó, sự đau khổ của những người nầy cũng đồng điệu như thế. Theo Horn có
nói: “Người đã từng bị đau khổ vì tình yêu trong tuổi thanh xuân. Về sau, sự đau
khổ này vẫn âm thầm kéo dài trong suốt cuộc đời còn lại của họ”.
Theo nghiên cứu, những trẻ em, với cuộc sống sầu khổ trong thời thơ ấu, có thể
sẽ có nhiều sự bất mãn hơn hài lòng, trong những năm trưởng thành của chúng.
Đồng thời, hạnh phúc và sự hài lòng trong thời thơ ấu sẽ lót đường để dẫn đến sự
hài lòng và hạnh phúc, trong những năm còn lại của đời người. Việc nầy chỉ có thể
xảy ra đối với các trẻ em biết học tập như sau:
1-Nếu các em biết học cách cư xử như thế nào, để khuyến khích những người
khác chấp nhận các em như những người bạn; không chỉ lúc trẻ mà còn tiếp tục
vào những năm còn lại của cuộc đời.

2-Nếu các em biết học cách thể hiện tình thương vô cầu báo đối với mọi người,
và được người khác thương mến lại.

3-Nếu các em có những quan niệm thực tế rèn luyện bản thân, để có khả năng
thật sự hoàn thành tốt đẹp những nguyện vọng của mình. Nếu giới trẻ có thể thực
hiện được 3 điều trên, họ có thể tiên liệu rằng sự hài lòng và hạnh phúc sẽ đến với
họ trong tương lai.
2-BA YẾU TỐ CĂN BẢN TẠO NÊN HẠNH PHÚC:
Hạnh phúc có thể được cấu tạo bởi 3 yếu tố căn bản như: Chấp Nhận

(Acceptance), Tình Thương (Affection), và Hoàn Thành (Achievement). Thông
thường, các nhà tâm lý tây phương gọi là “Three A's of Happiness”.
Theo Shaver và Freedman, hạnh phúc là vấn đề tùy thuộc vào cách nhìn, quan
niệm của mỗi người đối với hoàn cảnh sống, hơn là những gì xảy ra trong hoàn
cảnh sống. Hạnh phúc đến từ những gì hiện hữu do mình làm chủ, chứ không phải
từ sự ước muốn những gì của người khác có.
2.1-Yếu Tố Chấp Nhận (Acceptance): Việc tự chấp nhận (Self-Acceptance)
cải thiện những sai lầm trong cá tính, và xử thế sẽ gây ảnh hưởng tốt, đến sự chấp
nhận của những người khác đối với mình.

Theo Shaver và Freedman, ngoài việc chấp nhận vui thích những gì hiện đang
có, người ta còn cần phải duy trì sự thăng bằng giữa những ước muốn và sự hoàn
thành. Sự thăng bằng nầy đóng một vai trò rất quan trọng, có thể giúp người ta biết
tự lượng sức mình để rèn luyện năng khiếu, và hướng vào những ước muốn tương
đối, không xa rời thực tế, mà khả năng sẵn có của mình có thể hoàn thành được.
Ngoài ra, tính chất duyên dáng về thể chất còn là một đóng góp không kém
phần quan trọng, đến sự chấp nhận của người khác.

Theo Mathes và Kahn, trong những mối xã giao hàng ngày, vẻ duyên dáng bên
ngoài là một hấp lực tích cực, và có thể giúp cho sở hữu chủ dùng để thu hoạch
những thành quả tốt đẹp. Một trong những thành quả đạt được thường là sự ưa
thích của người khác. Nhữngngười có nét duyên dáng, thường được sự ưa chuộng
của những người bạn hữu, tình nhân, người cộng sự khác phái và người hôn phối
của họ,…

Hơn nữa, họ còn nhận được sự đánh giá tích cực, và sự thông cảm từ những
người khác. Do đó, những người có nét duyên dáng bên ngoài, dường như, có thể
dễ tìm hạnh phúc, và sự hòa hợp tốt hơn trong cuộc sống của họ. Việc nầy cũng có
thể hiểu rằng việc được những người khác ưa thích đã phản ảnh tính tự trọng cao
quí của người ta.


Nói chung, trong cuộc sống xã hội, sự hòa hợp tốt của cá nhân có thể đưa đến
sự chấp nhận tốt của những người chung quanh; sự chấp nhận nầy, cũng là một
trong những điều kiện, để giúp họ tạo được sự hài lòng trong nội tâm.
2.2-Yếu Tố Tình Thương (Affection): Tình thương là phần phụ thuộc bình
thường vào sự chấp nhận của người khác. Do đó, người càng có được nhiều sự
chấp nhận, họ càng có thể tin cậy vào tình thương của những người khác.

Hơn nữa, tình thương còn là yếu tố cần thiết giúp cho cá nhân có những sửa đổi
tốt. Việc nầy đã được nhận thấy trong nhiều cuộc nghiên cứu về các bệnh suy yếu
não bộ, và mất cảm xúc cá nhân.
2.3-Yếu Tố Hoàn Thành (Achievement): Sự hoàn thành việc làm của một
người luôn luôn có tính chất liên quan, tiến gần đến toàn bộ mục tiêu cho chính họ.
Nếu toàn bộ mục tiêu nầy có tính chất cao xa, không thực tế; kết quả sẽ bị thất bại,
và cá nhân sẽ không được hài lòng. Tiếp theo, cá nhân sẽ bị đau khổ.

Ngoài ra, với những việc làm khó nhọc, khả năng tài giỏi, và những hy sinh cá
nhân, người ta có thể thành đạt được sự giàu sang tiền bạc, quyền uy, và địa vị xã
hội. Mặc dù, những thành công nầy chưa chắc có thể mang hạnh phúc đến cho
người ta, nhưng ít ra, chúng có thể là những cơ hội giúp người ta giảm thiểu được
những nhu cầu và khát vọng cá nhân.

Hơn nữa, người thành công có thể được khâm phục về khả năng tài giỏi, nhưng
họ không được thương mến; và có thể làm cho người khác kinh sợ, và xa lánh; họ
sẽ bị cô đơn, và không được hài lòng.

Do đó, Sự thành công mà không có tình thương sẽ dẫn đến tính tự bất mãn và
đau khổ; tiếp theo, sự việc sẽ nhuộm màu lệch lạc trên cái nhìn về cuộc đời của họ.
3-TÍNH CHẤT TƯƠNG ĐỐI CỦA HẠNH PHÚC :
Một sự nghi ngờ có thể được nhận thấy, khi người ta nói rằng đời sống có một

trăm phần trăm (100%) hạnh phúc hoặc sự hài lòng; hay một trăm phần trăm
(100%) đau khổ hoặc sự không hài lòng. Thật ra, hạnh phúc và sự hài lòng, hay
đau khổ và sự không hài lòng đều có tính tương đối. Ở mọi tầng lớp tuổi tác, và
vào tất cả những lần trong mỗi lớp tuổi, mọi người đều có những lần hạnh phúc và
sự hài lòng, cũng như có những lần đau khổ và không hài lòng.
Trong cuộc đời, nếu kinh nghiệm cá nhân có nhiều điều thỏa mãn hơn điều bất
mãn; cá nhân đó sẽ được hài lòng, và chính họ được xem như là người hạnh phúc.
Trái lại, nếu kinh nghiệm cá nhân có nhiều điều bất mãn hơn điều thỏa mãn; cá
nhân đó sẽ không được hài lòng, và chính họ được xem như là người đau khổ (bất
hạnh).
3.1-Hạnh Phúc Ở Mỗi Lớp Tuổi Đều Khác Nhau:
Theo nghiên cứu, với cách tính tỷ lệ 100% ký ức lạc quan, và của những lớp
tuổi cách nhau 10 năm, hai nhà tâm lý MeltzervàLudwig đã tìm thấy sự khác biệt
củamức độ hạnh phúc ở những lớp tuổi khác nhau, với kết quả như sau: lớp tuổi từ
20-29 có 50% lạc quan; 30-39 có100% lạc quan; 40-49 có 25% lạc quan; 50-59 có
40% lạc quan; và từ 60- trở về sau có 30% lạc quan.
3.2-Sự Tương Quan Giữa Hạnh Phúc Và Đau Khổ :
Trong đời sống, không có bằng chứng nào cho thấy rằng một người đã có lần
hạnh phúc, và luôn luôn có hạnh phúc; hoặc có lần đau khổ, và luôn luôn đau khổ
suốt đời. Tuy nhiên, bất cứ ở lớp tuổi nào, hạnh phúc, và sự hài lòng của người ta
có thể được theo sau bởi thời kỳ phát khởi đau khổ, hoặc thất vọng; và ngược lại.
Khi nhìn lại dĩ vãng cuộc đời, người ta thường nhận thấy có những vui buồn lẫn
lộn. Những niềm vui hạnh phúc, và những nỗi buồn đau đều có những thay đổi
khác nhau, theo thời gian tuổi đời trôi qua. Phần đông người lớn tuổi, bất hạnh với
hiện tại, thường có cảm giác luyến tiếc về những kỷ niệm vui đẹp trong thời niên
thiếu.

Trái lại, những người có hạnh phúc hiện tại, mỗi khi, nhớ lại những nỗi đau
lòng ở tuổi thiếu thời, họ cảm thấy ngao ngán, và không muốn sống trở lại cảnh
như thế.

Để đạt được hạnh phúc, hay chịu sự đau khổ kéo dài, người ta phải tùy thuộc
vào sự thành công hay thất bại của việc làm như thế nào; để cho khả năng được
phù hợp với những vai trò mới, và những ước vọng phải thích nghi với thực trạng
xã hội đang sống. Cũng như, người ta phải làm thế nào để khắc phục hoàn cảnh
sống, mà có thể đạt được những nhu cầu, và hoàn thành nguyện vọng của mình.
Nói một cách khác, để có hạnh phúc hay chịu đau khổ trong đời sống, người ta
phải tùy thuộc vào ba yếu tố căn bản : Sự Chấp Nhận, Tình Thương, và Hoàn
Thành.
3.3-Sự Khác Biệt Hạnh Phúc Giữa Nam Và Nữ : Trong thời niên thiếu,
phần đông các cô gái có khuynh hướng sống nhiều lạc quan hơn các cậu trai. Một
trong những lý do quan trọng nhất là các cô thường có sự hài lòng, từ những mối
liên hệ cá nhân với nhau. Trong khi các cậu đi tìm sự hài lòng, từ những thành
công trong việc làm, ít khi đạt được.

Trong những năm đầu thành nhân, người nữ có khuynh hướng hạnh phúc hơn
người nam. Đặc biệt, nếu người nữ được thành hôn, và cảm giác họ là người hữu
dụng trong vai trò làm vợ và mẹ. Trái lại, người nam có khuynh hướng kém lạc
quan hạnh phúc hơn, vì họ không có khả năng thành công trong nghề nghiệp, mà
họ đã hy vọng.
Tuy nhiên, sau tuổi 40, người nữ có khuynh hướng kém lạc quan; nhất là, người
nữ trong vai trò nội trợ, giúp việc trong nhà. Phần đông nam giới trở nên nhiều lạc
quan, và thỏa mãn tốt hơn với đời sống sau 40; bởi vì nghề nghiệp của họ thành
công hơn lúc còn niên thiếu.
Sau tuổi 60, nam giới, tiến đến tuổi về hưu, thường có khuynh hướng bi quan
hơn, vì họ tự chống đối với mặc cảm vô dụng, dưới ảnh hưởng suy nhược về thể
chất lẫn tinh thần. Trong lúc đó, nữ giới có khuynh hướng lạc quan, vì họ cảm thấy
được hữu dụng hơn, trong vai trò chăm sóc người chồng nghỉ hưu, hay bị ốm đau,
hoặc việc trông nom các cháu nội ngoại của mình.
3.4-Những Trở Ngại Đối Với Hạnh Phúc :
Đối với hạnh phúc, có hai loại trở ngại chính: chủ quan và khách quan. Những

trở ngại chủ quan thường là những vấn đề: sự giới hạn tâm trí, sức khỏe yếu kém,
và những nguyện vọng không thực tế. Thật là khó khăn để hài lòng với cuộc sống,
cho những ai có sự giới hạn tâm trí, và luôn luôn tự cảm thấy mình là người bị thất
bại; mặc dù những người khác xem họ là người thành công.
Hơn nữa, những người kém sức khỏe cũng khó đạt được sự hài lòng trong cuộc
đời, vì sức khỏe suy yếu là một trở lực khiến họ không thể thực hiện được những
việc họ muốn làm, cũng như những gì đồng bạn của họ đang làm.
Ngoài ra, dù ở bất cứ lớp tuổi nào, Cũng có những trở ngại khách quan để khiến
người ta không được hài lòng trong cuộc sống; thí dụ như, những trẻ em trưởng
thành trong khu xóm, chịu nhiều kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, nghèo hèn, hay bất cứ
lý do nào khác; chúng sẽ thiếu tình thương, sự chấp nhận xã hội, và thiếu những cơ
hội để cạnh tranh với những trẻ cùng lứa tuổi. Do đó, sự đau khổ nầy có thể ảnh
hưởng đến việc học của chúng, và sẽ gây nguy hại đến những cơ hội thành công
của chúng trong cuộc đời về sau.
3.5-Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hạnh Phúc :
Vào mỗi lớp tuổi, hạnh phúc chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố quan trọng như
sau đây:
-Sức Khỏe : Ở vào mọi lứa tuổi, sức khỏe tốt giúp người ta có thể làm được những
gì họ muốn làm. Trái lại, sức khỏe suy kém, hay cơ thể bị tàn tật là một trở ngại
lớn, đối với sự thỏa mãn những nhu cầu, nguyện vọng của họ. Như thế hạnh phúc
sẽ không có triển vọng đạt được.
-Vẻ duyên dáng bên ngoài : Vẻ duyên dáng của người ta là một hấp lực đóng góp
vào sự chấp nhận và tình thương của người khác; thường dễ dẫn đến những thành
công hơn những người kém duyên dáng.
-Mức Độ Tự Chủ: Đối với mọi lớp tuổi, một người có tính tự chủ càng cao có thể
thành công, với những cơ hội hạnh phúc càng lớn.

-Cơ Hội Bên Ngoài Gia Đình Có Ảnh Hưởng Lẫn Nhau: Vì tính chất đại chúng
được đánh giá cao trong xã hội, nếu người ta có những cơ hội xã giao với những
người bên ngoài, họ cảm thấy hạnh phúc hơn là chỉ giao tiếp với những người

trong gia đình.
-Mẫu Loại Việc Làm: Những việc làm càng tầm thường, và ít có sự tự quản, việc
làm đó sẽ càng làm giảm bớt sự hài lòng của người ta. Thí dụ như, những việc vặt
trong nhà đối với các trẻ em trong những năm thành nhân.
-Trách Nhiệm Việc Làm: Người càng thành công trong việc chu toàn trách
nhiệm, và càng có uy tín trong việc làm, thì sự hài lòng của họ càng lớn hơn.
-Điều Kiện Sinh Sống: Người ta sẽ được hài lòng, khi khả năng kinh tế của họ có
thể giúp đỡ những người khác như: các thân nhân, thân hữu, và người láng giềng.
-Quyền Sở hữu Vật Chất: Các vật sở hữu như tài sản, tiền bạc, . . .tự nó không
mang đến hạnh phúc cho con người, nhưng tùy theo cách người ta cảm tưởng về
chúng.
-Việc Giữ Thăng Bằng Giữa Những Nguyện Vọng Và Hoàn Thành : Nếu
những nguyện vọng có tính chất thực tế, và phù hợp với khà năng, người ta sẽ
được hài lòng và hạnh phúc, khi mục tiêu được hoàn thành.
-Việc Kiểm soát Những Xúc Cảm Tiêu Cực: Những xúc cảm tiêu cực như sợ
hãi, giận dữ, nóng tánh, ganh tị, . . có thể gây nên những tình cảnh đáng tiếc, không
vui. Cho nên, người ta phải biết kiểm soát, và tối thiểu hóa chúng, để vượt qua
những lúc khó khăn.
-Quan Niệm Hiện Thực Trong Cuộc Sống : Có những người không biết lượng
sức mình, và tin tưởng vào khả năng của mình, một cách vượt quá thực lực; họ
thường không được hài lòng, khi bị thất bại, và không đạt được mục tiêu việc làm.
Sự đau khổ của họ được gia tăng, bởi những cảm tưởng không thích đáng, cũng
như, bởi tự tin rằng họ bị hiểu lầm và bị ngược đãi.
Tóm lại, những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc đóng một vai trò quan trọng
tương đối, tùy thuộc vào quan niệm sống, và từng lớp tuổi của mỗi cá nhân.

Theo nghiên cứu, Meltzer và Ludwig nhận thấy hạnh phúc của những lớp tuổi,
sau những năm thành nhân, thường do bởi các yếu tố chính như: gia đình, hôn
nhân, sức khỏe tốt, và những hoàn thành việc làm; trong lúc sự đau khổ được hội
nhập bởi những yếu tố như: sự đau yếu, cơ thể bị thương tổn, sự chết của người

thân yêu, sự thất bại trong việc làm, nguyện vọng không đạt mục tiêu.
Ngoài ra, Sears cũng đưa ra một nhận xét về những người có mức độ thông
minh rất cao; sự hài lòng về cuộc sống của họ thường mang đến từ đời sống gia
đình hạnh phúc, hơn là sự thành công trong nghề nghiệp.

Trong một kết luận được rút ra từ cuộc nghiên cứu, với những người đàn ông có
tuổi trung bình 62, sự hài lòng về đời sống của họ được mang đến từ những yếu tố
quan trọng như: nghề nghiệp, đời sống gia đình, tình thân hữu, sự phong phú về
đời sống văn hóa, tất cả những dịch vụ hướng về cộng đồng xã hội, và niềm vui
trong sự sống.

Trái lại, những người trẻ thiếu niên thường đánh giá cao về tính đại chúng, và
sự chấp nhận bởi đồng bạn; cho nên, sự hài lòng đời sống của họ do bởi những yếu
tố như: tiền bạc, những tiêu biểu địa vị xã hội, sức khỏe tốt, vẻ duyên dáng bên
ngoài, và những cơ hội giúp họ đóng những vai trò họ vui thích./.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×