Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

NHÌN LẠI HIỆN THỰC TRONG HỘI HỌA pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.52 KB, 7 trang )






NHÌN LẠI HIỆN THỰC TRONG HỘI HỌA



Chủ nghĩa Hiện thực trong nghệ thuật nói chung, hội họa nói riêng là một ngôi đền
thiêng của nhiều nghệ sĩ. Ngôi đền ấy cũng hay bị các anh chàng trẻ, hăng tiết vịt
xúc phạm, cũng là bởi giới hạn của nó khá mông lung, và các tiêu chuẩn của nó
không rõ ràng và có thể hiểu theo nhiều cách. G.Courbet (1819 - 1877) họa sĩ Pháp
người mở ra trường phái Hiện thục đầu tiên, nhằm thay đổi tính lý tưởng hóa, luôn
quay lại với quá khứ Hy - La của nghệ thuật Cổ điển và sự hư tưởng thái quá của
nghệ thuật Lãng mạn. Đối với ông, không có gì mà mắt nhìn thấy không phải là
hiện thực và không đáng vẽ. Courbet đã đặc tả một bộ phận từ bụng cho đến đùi
của phụ nữ thành một tác phẩm, mà tất cả những ai muốn bàn về hiện thực đều
chết khiếp. Khi đến Nga, nghệ thuật Hiện thực trở thành một phương tiện hữu hiệu
cho các họa sĩ trường họa Lưu động, khi hướng nghệ thuật về đời sống nhân dân
Nga. Song có một thời, nghệ thuật Hiện thực được quan niệm một cách cực đoan
người ta coi xã hội này là quá tuyệt đẹp, đến mức nghệ thuật chỉ làm mỗi việc là
phản ánh nó sao cho thật giống. Cái giống tự nhiên trở thành tiêu chuẩn của nghệ
thuật Hiện thực và chết nỗi cái giống ở đây được giới hạn trong một số khu vực
nhất định, ngoài khu vực đó ra hình như không được công nhận là hiện thực. Trên
thực tế, không nghệ sĩ nào có thể làm việc máy móc như thế. Tả thực chỉ là bài học
đầu tiên của nghệ thuật, không phải là cái đích cuối cùng, và có thể đi đến hiện
thực bằng nhiều con đường, thay cho một sự duy nhất đúng.
Ngay từ đầu, hội họa Hiện thực Việt Nam không rơi vào giáo điều. Một mặt do
truyền thống nghệ thuật phương Đông luôn mang tính tượng trưng, lấy quan sát,
tâm tưởng thay cho trực họa, mặt khác nghệ thuật Việt Nam dù có ảnh hưởng


phương Tây đến đâu cũng chưa bao giờ trải qua cổ điển. Nhưng sự hạn hẹp cũng
đã có, có một thời ngoài sinh hoạt tập thể của công nông binh, dường như họa sĩ
không dám vẽ gì khác, cũng như các bức họa nặng về ngợi ca, không có một ý kiến
cá nhân nào. Nếu như tranh trừu tượng là nơi trú ẩn của nhiều tay kém tài, thì tranh
hiện thực cũng là đất sống của những tay cơ hội. Với những bức tranh về chiến đấu
sản xuất hời hợt mô tả cái vẻ bên ngoài, họ tham dự mọi triển lãm và coi mình như
là thứ nghệ thuật chính thống.
Khi thời của chủ nghĩa đề tài qua đi, hội họa Hiện thực không hề mất giá trị, mà nó
mở ra nhiều chiều, nhiều mặt hơn nữa. Họa sĩ không phải là cái máy ảnh vụng về,
hiện thực không phải là những cái tương tự với đời sống, hiện thực bao gồm cả
những nhận thức nhiều chiều về nó, cả sự phê phán và phủ nhận với ý nghĩa một
hiện tượng có thể có nhiều cách quan sát và trình bày khác nhau. Một bức tranh
tĩnh vật không chỉ là lọ hoa đẹp, hoặc đĩa quả, cốc chén được mô tả tài tình, mà
còn là đời sống tự thân của đồ vật, nếp ăn ở của gia chủ, và thái độ nghệ thuật như
thế nào đó. Một bức tranh phong cảnh là tình cảm thực tại của họa sĩ đối với cảnh
vật, đem đến cái đẹp dị thường qua những cảnh vật ta vẫn trông thấy hàng ngày.
Đương nhiên, trước hết người ta cũng xem họa sĩ có khả năng mô tả như thế nào.
Cảm giác về vật chất trong tĩnh vật và sự thay đổi của nó trong ánh sáng. Nét bút
tạo mây mưa, cây cỏ, hơi nước, ánh sáng trong tranh phong cảnh: Đương nhiên sau
đó là tâm trạng của nghệ sĩ hàm chứa trong từng nhát bút. Từ hiện thực vật thể đến
hiện thục tâm lý và sự thống nhất của nó chính là giá trị của hội họa hiện thực. Bùi
Xuân Phái đã kể ra cả một lai lịch Hà Nội cổ, khắc họa ấn tượng về đời sống thị
dân qua từng mái ngói, bờ tường, cột điện, trong đó là nỗi lo lắng bâng khuâng về
một quá khứ đẹp đẽ sắp mất đi. Những bức chân dung của Nguyễn Sáng luôn là cái
gì đó có tính chất số phận, luôn lơ lửng câu hỏi tao là ai? và mày là ai?. Vào hội
họa hiện thực không thể y nguyên như đối tượng. Họa sĩ cắt xén, thêm bớt và có
thể vì thế mà nó trở nên chân thục hơn. Nó bị phơi bầy, làm lộ rõ cái gì là bản chất.
Cái này mới là hiện thực. Hội họa hiện thực như vậy có thể làm chết khiếp những
tay tưởng rằng hiện thực chỉ là mô tả.
Phát triển trong thời văn học đóng vai trò chính yếu trong văn nghệ, lý luận về

nghệ thuật hiện thực chủ yếu dành cho văn học, còn các lĩnh vục khác lý luận này
chưa khai triển được ở ngôn ngữ chuyên ngành. Việc xây dựng hình tượng điển
hình trong hoàn cảnh điển hình không hẳn phù hợp với hội họa, vì hội họa không
biểu hiện được quá trình và quan hệ nhân quả. Nếu chỉ khuôn hội họa vào một
không gian và thời điểm duy nhất thì tự làm hạn chế khả năng biểu hiện của nó.
Thủ pháp đồng hiện ra đời, có lẽ từ hội họa hoành tráng Mehico, và được hội họa
Việt Nam chấp nhận, nhằm tăng khả năng biểu hiện hiện thực đa thời và đa chiều.
Thủ pháp này thịnh hành từ những năm 1980, họa sĩ có thể vẽ nhiều hình thể khác
nhau không theo trật tự không gian và thời gian lên tranh. Hình ảnh chiến sĩ ra trận,
cô gái ở nhà, một góc chùa, một tượng Phật, vài cây cỏ thậm chí một khúc sông
tức là rất nhiều hình ảnh vốn không cùng lại được vẽ tổng hợp vào bức họa. Không
gian ba chiều cũng không được tôn trọng nữa, về đại thể không gian tranh chuyển
về hai chiều, và tùy từng chỗ vẫn có ba chiều, hoặc hai chiều rưỡi. Nhưng quan
trọng nhất là vấn đề cần nói, cần biểu hiện thì rất rõ, và thực ra cũng là hiểu nhiều
cách về một bức họa.
Thủ pháp đồng hiện đã thay đổi căn bản hội họa Hiện thực Việt Nam, cũng được
chấp nhận ở mọi thế hệ họa sĩ, và làm cho hội họa Hiện thực cũng gần gũi hội họa
Biểu hiện - Trừu tượng hơn. Cũng vào những năm 1980 trở đi, dưới ảnh hưởng của
hội họa Siêu thực và Cực thực, một số họa sĩ đã vẽ hiện thực theo một tinh thần
mới, như Lê Huy Tiếp và Đỗ Quang Em. Tất cả sự vật trong tranh của họ đều được
vờn tỉa kỹ càng như cầm nắm được, nhưng tinh thần bức họa lại không như vậy, nó
có vẻ gì rất ảo giác không sự thực chút nào. Các hình thể dường như có đời sống tự
nó trong một không gian ảo tưởng hơn là hiện thực. Hiện thực nhiếp ảnh cũng là
một thủ pháp khác, tức là họa sĩ thoạt tiên chụp ảnh và vẽ y nguyên như bức ảnh,
sau đó họ có thể vẽ những bức họa ganh đua với tính hiện thực của ống kính máy
ảnh, bức họa cũng có cảm giác lạ lùng bởi đôi khi người ta không biết họa sĩ đã vẽ
như thế nào.
Chưa bao giờ nghệ thuật Hiện thực mất đi giá trị, mà chỉ kém đi khi người ta tự
hạn chế mình trong một khuôn mẫu gọi là hiện thực. Phẩm chất hiện thực vốn có
trong mọi nghệ thuật và là thủ pháp, ngôn ngữ, mục đích biểu hiện của nghệ thuật

hiện thực. Khả năng của nó cũng mênh mông như đời sống, chọn lọc nhưng không
từ chối tất cả những gì thuộc về con người.

×