Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.51 KB, 4 trang )
Chữa trĩ với cây cóc mẳn
Cây cóc mẳn mọc hoang khắp
nơi. Thường hay gặp ở những
nơi ẩm thấp, ruộng bỏ hoang,
bờ rãnh, ven đường… Ngay
cả trong các thành phố, chỗ
những chân tường ẩm, khe
gạch vỡ hở đất, cũng thường
hay gặp cây này.
Cây này có rất nhiều tên khác
như “Cúc ma” “Cỏ the” “Cây thuốc mộng” “ cây Trăm chân” “cỏ lưỡi rắn” “Cầu tử
thảo”… tên khoa học của cây là Centipeda minima. Trong Đông Y Trung Quốc, cây có
tên gọi là “Nga bất thực thảo”.
Cóc mẳn là một loại cây cỏ nhỏ, thân mềm, mọc bò lan, cành mọc lòa xòa mọc sát mặt
đất, phân rất nhiều cành, ở ngọn có lông trắng mịn, nhưng tòan thân trông nhẵn bóng. Lá
đơn, mép có khía 1-3 răng cưa, mọc so le. Cụm hoa hình đầu, mọc ở nách lá, hoa cái gồm
nhiều lớp, cánh hoa hình ống màu trắng , trên có răng cưa, tràng hoa hình chuông có bốn
răng hình trứng rộng, màu hơi tím. Quả 4 cạnh, trên có lông mịn nhỏ. Mùa hoa, tháng 2-
5, mùa quả tháng 4-7. Để dùng làm thuốc, thường hái tòan cây cả rễ, dùng tươi hay phơi
hoặc sấy khô.
Theo Đông Y, Cóc mẳn có vị cay, tính ấm, vào kinh thủ thái âm. Có tác dụng trừ phong,
tán hàn, thắng thấp, thông mũi. Dùng chữa cảm mạo, hen suyễn, viêm họng, viêm
amiđan, ho gà, kiết lị, lở loét ngoài da.
Một số đơn thuốc có dùng cây cóc mẳn, đã được ghi chép trong sách thuốc trong và
ngoài nước: